1.
Cơ hội "ngàn năm một thuở" tại các trại tị nạn mà dân
Việt gần như không thể có được khi sống tại Việt Nam là: sự tự do thay đổi lý lịch
và học Anh ngữ miễn phí. Thực ra, đây cũng là hai sinh hoạt bận rộn và nhộn nhip
nhất của dân Việt tạm trú tại các trại tị nạn.
Sự thay đổi lý lịch gồm cả việc đổi tên, đổi tuổi và đổi sự
không tưởng: địa vị xã hội [social status].
Chị Nguyễn Thị Gáo với một cái tên cúng cơm rất mộc mạc, hiền
lành của "hoa đồng cỏ nội." Từ sau khi chị bị té giếng, hồi còn là
thiếu nữ ở Cần Thơ, đầu óc của chị cho đến nay chưa hoàn toàn tỉnh táo, đó có
thể là lý do mà chị vẫn còn "độc thân tại chỗ" với cái tuổi ba mươi
mí rồi. Nhân cơ hội ngàn năm một thuở này, chị đổi tên cho có vẻ tỉnh thành,
thơ mộng, văn nghệ hơn; và đổi tuổi cho trẻ trung hơn là: "Nguyễn Thị
Phương Loan" hai mươi mốt tuổi. Mẹ của chị Gáo, cụ bà Nguyễn Thị Thau, thường
than phiền với hàng xóm tị nạn là:
- Chèng đét ơi! Tôi đặt cho nó tên là Gáo, tức là gáo dừa
để múc nước cho sạch sẽ và bền bỉ. Không biết ăn nhằm cái giống gì" mắc chứng
gì" mà nó đổi tên thành "Lon!" [Loan] bằng sắt cho nó mau rỉ
sét, mau lủng.
Với sự thay đổi đầy tiện nghi này, hy vọng rằng chị đã gặp được
tình quân, có thể là cựu "Trung Tá Y Sĩ" hay cựu "Đại Tá" một
cách mau chóng.
Cụ Lý Toét nằm chung lều [mỗi lều trong trại có thể chứa khoảng
4 đến 6 gia đình tị nạn] với tôi đã 65 tuổi, tức là tới tuổi hợp lệ về hưu ăn
"tiền già" nếu sống ở đất Mỹ. Vì chúng tôi thuộc đợt thuyền nhân đầu
tiên, ú a ú ớ, không có người hướng dẫn, cứ sợ ra khỏi trại Mỹ nó thấy tuổi già
không mướn làm việc thì chết đói mất. Cụ tự khai rút lại tuổi, chỉ còn có 55! Tôi
đoán là cụ sẽ đấm ngực "lỗi tại tôi; lỗi tại tôi mọi đàng! " về cái lỗi
lầm quá tai hại này! Bởi vì cụ sẽ còn phải "cày" thêm khoảng một chục
năm nữa mới về hưu được! Có lẽ cụ đã qui tiên trước khi nhận cái "check"
phụ cấp hưu trí đầu tiên của sở xã hội Mỹ. Tội nghiệp chung cho dân tị nạn,
nhân bần chí đoản. Chỉ vì sự lo âu về sinh kế trên đất lạ mà đầu óc trở thành đặc
kịt như khoai tây, không thể phân tích lợi với hại; hai mắt giống như mắt ngựa
kéo xe bị che cả hai bên, không nhìn xa được. Cho nên tự ý khai báo lại, sửa đổi
tầm bậy tầm bạ trong cái hoàn cảnh vô luật lệ, vô sổ sách này.
2.
Gia đình Bác Toàn [không phải tên thật,] cũng ở chung lều với
tôi. Trong lần đầu tiên tiếp chuyện với Bác gái, Bác đã "khiêm nhường"
thông báo cho tôi cái địa vị xã hội của gia đình Bác như sau:
- Ông nhà tôi là "cựu Đại Tá" của QLVNCH! Trước
đây gia đình tôi làm chủ 3 tiệm thuốc tây ở Sài gòn. Gia đình tôi còn có cả một
bầy vú em, con ở phục vụ. Bây giờ ở đây [trại tị nạn] cái gì cũng phải tự làm lấy.
Thật khổ ghê!
Cô con gái lớn của Bác, người có cái nhan sắc giống như nhan sắc
của anh hề Tùng Lâm, cứ luôn miệng than vãn là:
- Tiếc quá, lúc "chạy" không đem theo được "con
nhỏ làm tóc." Bây giờ đầu tóc như ổ quạ. Thật rõ chán!
Nhận xét của chị thật đúng! Tóc của chị cả lúc nào nhìn cũng giống
như đau ban mới khỏi!
Lúc đó tôi ngây thơ, rất "nể nang" cái "danh
giá" của gia đình Bác. Tôi vẫn tiếp tục giữ liên lạc, thăm hỏi gia đình
bác nhiều năm sau khi ra khỏi trại tị nạn. Gia đình Bác được bảo trợ
[sponsored] và định cư tại San Diego ngay từ ngày đầu của tháng 9 năm 1975. Bác
trai sau này làm "Security Guard" và Bác gái chứa cờ bạc xì phé ở nhà
để kiếm thêm tí tiền "xâu" cho ngân quỹ gia đình.
Trong tại tị nạn, sự thay đổi địa vị xã hội tương tự như vậy
không phải là hiếm. Anh binh nhì tự thăng cấp mình lên thành Thượng Sĩ. Anh
"Trung Sĩ Y Tá" thành "Trung Tá Y Sĩ." Anh "Thư Ký
Hành Chánh" thành Phó Tổng Giám Đốc ..v.. v.. Người nào cũng làm quan lớn,
chủ tiệm, chủ thương nghiệp, chủ chợ, chủ phố cho Mỹ mướn, chủ vựa cá, chủ đồn
điền cà phê, chủ đồn điền trà, hoặc chủ ruộng đất cò bay thẳng cánh. Chẳng có
ai làm lính trơn, chài lưới, cày ruộng, du đãng đường hẻm, cướp giựt hoặc ăn
mày vô sản bần cố nông cả. Thật đúng là loạn! Không biết đâu là vàng, đâu là thau
để xét đoán, lựa chọn. Nhiều cô gái ngây thơ nhẹ dạ, sau khi say mê nghe các
anh "tài tử" thuyết trình không nghỉ về cái lý lịch "trời ơi ất
hỡi," vô căn cứ, đã vội vã làm đám cưới với các anh có cái lý lịch "vàng
son" này ngay tại trong trại tị nạn. Khỏi cần phải bàn thêm, các cô này
bây giờ có lẽ không sớm thì muộn, đã thấy hoặc phát giác ra cái thực tế, cái lý
lịch "lủng" của các thợ "phỉnh" một cách phũ phàng! Một số
lớn các cô này đã trở thành nữ thi sĩ. Hèn gì! thi sĩ Hà Huyền Chi đã có lần nhận
xét như sau:
- Sau ngày "30 tháng 4 năm 1975," văn đàn Việt Nam ở hải
ngoại bị lạm phát thi sĩ.
4.
Việc học Anh Ngữ miễn phí trong trại tị nạn mới thật là ngoạn mục.
Trong đời đi học của tôi, tôi chưa thấy bao giờ học sinh lại chăm chỉ như vậy. Tôi
nhớ hồi còn ở Saigon, Mẹ tôi phải chạy ngược, chạy xuôi vay nợ để cho tôi có tiền
đóng tiền trường học thêm Anh Ngữ tại trường Nguyễn Ngọc Linh vào buổi tối. Thế
mà tôi vẫn cố gắng tìm mọi cơ hội để "cúp cua" trốn học. Bây giờ thì
tình thế hoàn toàn khác hẳn. Lính TQLC Mỹ đã dựng một số lều thật lớn để dùng
làm lớp dậy Anh Ngữ. Thầy giáo, cô giáo hầu hết là những người Mỹ tình nguyện của
các hội Thiện Nguyện Tình Nguyện Nhân Đạo [gọi tắt là cơ quan
"Volag"] dậy học Anh Ngữ cho dân tị nạn. Họ không lãnh lương bổng gì
cả. Sau giờ ăn chiều, chỉ chậm chân một tí là không tìm được chỗ ngồi trong các
lớp học này. Phải đứng suốt cả mấy tiếng đồng hồ.
Những "sex symbol" của trại là các anh thông dịch viên,
những anh trợ giáo [teacher aids] cho các thầy các cô người Mỹ của các lớp học
Anh Ngữ này. Các anh trợ giáo nầy đại đa số là nhân viên cũ của sở Mỹ ở Việt
Nam. Các anh trợ giáo nói Anh ngữ nghe như gà tây kêu, thế mà sao lúc đó tôi
còn dốt đặc như cán mai, không thể phân biệt được thế nào là hay thế nào là dở
cả! Mọi người trong trại tị nạn ngưỡng mộ các anh trợ giáo như thần tương. Các
em gái xinh đẹp thơ mộng của trại bị các anh này "cua" hết ráo! Dân tị
nạn đực rựa độc thân thuộc loại "ngọng" như tôi chỉ có nước ở giá.
5.
Cụ Lý Toét luôn luôn chọn chỗ ngồi cạnh tôi trong lớp học anh ngữ.
Lý do là chúng tôi ở chung lều, đã quen thuộc với mhau rồi. Kẹt kẹt, cụ phải cần
phải hỏi tôi về Anh ngữ thì cũng không ngượng. Cũng nên biết, cụ hỏi tôi không
phải vì tôi giỏi giang gì! Nhưng vì tôi cũng đã biết "lõm bõm" Anh ngữ,
còn cụ chưa từng đi học Anh ngữ hay tiếp xúc với ngoại quốc bao giờ cả. Thắc mắc
đầu tiên của cụ là:
- Này anh ạ, tiếng Mỹ sao quái đản quá vậy" "ai"
[I] cũng là tôi, mà "mi" [me] cũng là tôi" Không biết đường nào
mà lần. Anh chỉ tôi cách phân biệt "ai" với "mi" sau giờ học
nhé.
Sau vài tuần lễ, cụ Lý Toét có vẻ tự tin hơn. Lớp học Anh ngữ đã
tiến đến cấp khó hơn; có nghĩa là học trò phải tập nói làm một câu dài đầy đủ
chủ từ, động từ và túc từ chứ không phải học từng chữ một như mấy tuần đầu. Thầy
giáo cho học sinh trong lớp tuần tự đọc và áp dụng câu "this is a..."
- This is a door.
- This is a chair.
- This is a table.
Rồi đến lượt cụ Lý Toét. Thầy giáo chỉ vào một cái ghế bố [TQLC
Mỹ phát cho mỗi dân tị nạn một ghế bố gấp lại được để làm vừa giường ngủ vừa
làm ghế ngồi] xếp đứng ở trong góc lớp và ra dấu cho cụ lập câu và đọc. Mọi người
đều được dịp cười gần bể bụng vị cụ Lý Toét dịch là:
- This is a "Chair Father! "
Ối giời đất ơi! Cụ đã ghép chữ đúng theo nghĩa đen.
"Ghế" là "chair" và "Bố" là "father."
Tôi phải giải thích cho cụ sau này tốt hơn là nên tránh dịch nghĩa đen như vậy.
Mình nên học thuộc lòng cái danh từ Anh Ngữ của từng đồ vật hay người. Ghế bố
phải được dịch là "Cot" chứ không phải là "chair father! "
6.
Anh "Thượng Sĩ" Tiến, người cũng ở cùng lều với tôi,
sáng nào anh cũng ngồi trên ghế bố cầm đọc đọc tờ báo Anh ngữ mà anh vẫn nhặt từ
thùng rác do lính TQLC Mỹ quẳng để "hù" bà con láng giềng trong lều.
Các cụ cao niên cứ tấm tắc khen anh Tiến là "giỏi quá, đã đọc được báo Mỹ
rồi! " Riêng tôi, qua nhiều lần ngồi nói chuyện với anh về vấn đề học Anh
ngữ, tôi vẫn có câu hỏi thật lớn là không biết anh Tiến có đủ trình độ Anh ngữ
để đọc báo Mỹ không" Nhưng dù sao tôi phải khen ngợi anh ở chỗ anh có cố gắng.
Một hôm, sau khi đọc mục rao vặt, tìm việc, anh nói lớn, trống không để cho mọi
người trong lều cùng nghe chứ không nói trực tiếp riêng với người nào cả:
- Ở ngoài [trại tị nạn] Mỹ họ mướn người "coi con nít trên
xe buýt" mà cũng trả đến $2.10 một giờ [lương tối thiếu lúc bấy giờ.]
Vì có tính hiếu kỳ nên tôi mới hỏi anh:
- Cái nghề đó tiếng Mỹ gọi là gì đó anh Tiến"
- Đó là nghề "Busboy." Anh trả lời.
Tôi may mắn đã biết được nghĩa chữ nầy hồi còn đi học Anh văn buổi
tối ở Sài Gòn, nên tôi nói:
- Không phải đâu anh. "Busboy" là người dọn bàn trong
nhà hàng đó!
Nhưng anh Tiến cứ nằng nặc cãi cho bằng được "Busboy"
phải là "coi con nít trên xe buýt." Cuối cùng, tôi đành phải chào
thua anh vì sự quả quyết của anh làm tôi cũng áy náy, ngờ vực không biết mình
nhớ đúng hay sai!
Trong lớp học, anh Tiến à người hăng hái đưa tay hỏi thầy cô về
mọi vấn đề của cuộc sống bên ngoài trại tị nạn. Anh hỏi cả cách chửi thề bằng
tiếng Mỹ như thế nào. [Nên biết anh Tiến hỏi thầy bằng tiếng Việt và câu hỏi được
trợ giáo dịch ra Anh Ngữ để cho thầy hoặc cô trả lời.] Riêng câu hỏi về chữ chửi
thề bằng Anh ngữ, cô giáo trả lời là anh không cần phải học trong lớp. Khi ra
khỏi trại, đời sống sẽ dậy cho anh biết một cách tự nhiên.
Có một lần, cô giáo yêu cầu anh dịch một câu ngắn làm thí dụ cho
một đề tài về làm câu của buổi học. Anh Tiến dịch là:
- "Your eye is as beautiful as the stars. [Mắt em đẹp
như những vì sao!]"
Cô giáo khen là câu nói của anh Tiến rất "lãng mạn!"
[romantic.] Nhưng rất tiếc là, theo lời cô giáo, người yêu của anh Tiến chỉ có
một mắt! !! Câu này phải nên sửa lại với mắt là số nhiều:
- "Your eyes are as beautiful as the stars."
Sau này, tôi có dịp gặp lại anh Tiến ở San Jose khoảng năm 1992.
Anh làm chủ một cây xăng "Shell." Lúc đó có lẽ anh đã biết phân biệt
danh từ số ít và số nhiều mạnh giỏi rồi.
7.
Khi làm giấy tờ định cư tại "processing center" trong
trại. Tôi gặp một ông Mỹ trắng chỉ dẫn dân Việt tị nạn cách điền vào các mẫu
đơn và hoàn tất hồ sơ nộp cho Sở Di Trú Hoa Kỳ. Rất đặc biệt là ông ta nói tiếng
Việt trôi chảy. Tiếng Việt với giọng Quảng Nam mới ly kỳ. Tôi rất lấy làm thích
thú vì trong khi mình còn ấp a ấp úng chưa nói được chữ tiếng Mỹ nào mà đã có
người Mỹ nói tiếng Việt quá giỏi! Tôi tìm cách lân la lại làm quen với ông Mỹ
này và được biết ông là Mục Sư Tin Lành đã từng làm việc Tuyên Úy cho quân đội
Mỹ tại Việt Nam.
Tôi hỏi Mục Sư:
- Thưa Mục Sư. Mục Sư có biết là đang nói tiếng Việt với giọng
"Quảng Nam" không"
Mục Sư trả lời:
- Tôi biết chứ! Ông thầy tôi là người "Đè Nẽng" mà!
Tôi còn phân biệt được giọng Bắc, giọng Nam và giọng Huế nữa.
Tôi hỏi thêm:
- Thế Mục Sư đã có gặp những trường hợp khó khăn nào khi giao
thiệp với người Việt bằng tiếng Việt chưa"
- Có nhiều lần rồi! Trong một lần đọc bài giảng [sermon] cho
giáo dân tin lành người Việt trong trại tị nan. Tôi lấy làm lạ vì thấy họ cười
khúc khích với nhau. Sau buổi lễ, hỏi ra thì tôi mới biết là tôi dùng dấu chữ Việt
trật lất làm cho ý nghĩa thay đổi hết. Thay vì tôi muốn nói: "Chúa 'ban'
phước lành cho anh chi em [God bless you all.]" Tôi lại nói là: "Chúa
'bán' phước lành cho anh chị em [God sell the blessing to you all!]" Trong
một lần khác, tôi nói: "con chim nó 'ngồi' trên cây [the bird is sitting
in the tree.]" Đáng lẽ tôi phải nói: "con chim nó 'đậu' trên cây mới
đúng."
Tôi xin bái phục vị Mục Sư Mỹ này làm Sư Phụ.
8.
Năm 1976, tôi và tám chín đứa "tứ cố vô thân" và
"thất cơ lỡ vận" giống như hoàn cảnh của tôi, mướn chung nhau một
"apartment" 2 phòng ngủ ở San Diego - California và chia nhau tiền
thuê mỗi tháng cho đỡ tốn kém vì đứa nào cũng làm lương tối thiểu cả. Mỗi lần,
vì một lý do nào đó, "Manager" của khu "apartment" đến
thăm, thì đám "tứ cố vô thân" vội vàng chạy trối chết trốn vào trong
các tủ [closets] quần áo, bởi vì điều lệ thuê nhà không cho phép người thuê ở
quá đông như vậy. Họ biết sẽ đuổi cổ ra khỏi "apartment." Thật tội
nghiệp! Bạn cứ tưởng tượng quang cảnh chúng tôi lúc đang ăn cơm vội vàng bỏ bát
đũa chạy vào tủ quần áo để trốn; giống hệt như lúc bạn bước vào bếp buổi tối, bật
đèn lên rồi nhìn thấy một đàn gián [cockroaches] chạy bán sống bán chết vào các
góc kẹt trong nhà bếp vậy!
Trong đám "tứ cố vô thân" này có anh "roommate"
Sĩ Phú. Anh Phú, chẳng những là một ca sĩ tài danh mà còn là một Thiếu Tá phi
công trực thăng của KQVN. Anh Phú nói tiếng Anh rất giỏi vì anh Phú đã được đi
học lái trực thăng tại Hoa kỳ. Anh Phú chạy qua Mỹ với cùng tình trạng "khố
rách áo ôm" như tôi. Anh "độc thân tại chỗ" vì bỏ lại vợ và 5
con ở Việt Nam. Lâu lâu, cuối tuần mấy anh em thường rủ nhau đi nhà hàng Mỹ để
nghe nhạc sống cho đỡ buồn. Một hôm, vì ngứa nghề, anh Phú lên nói với anh
chàng Mỹ trưởng ban nhạc là anh muốn được lên hát góp vui một bản nhạc. Không
biết anh nói thế nào mà anh trưởng ban nhạc, sau đó, nói qua cái
"micro" tuyên bố với tất cả thực khách là:
- Ladies and Gentlemen, this is my honor to introduce to you our
special guest singer, Mr. "Seafood" who will sing for us a
beautiful hit song, the "Unchained Melody."
Từ sau hôm đó, anh Phú có cái "nickname" là "Mr.
Seafood."
Đến khi tôi thấy đã khuya rồi, ngày mai còn phải dậy sớm đi cày.
Tôi nói với đám "tứ cố vô thân:"
- Thôi mình đi về đi! Mai còn phải dậy sớm đi làm.
Anh Phú trả lời là:
-Mày chờ tao vào "restroom" để "giặt" [wash]
bộ râu xong rồi mới về nghe.
Sau này, khi có dịp gặp lại anh Phú lúc anh còn sống, tôi vẫn
thường nhắc lại với "Mr. Seafood" về cái kỷ niệm này.
9.
Hôm nay, cái "nạn" của đất nước đã đánh dấu năm thứ
32. Nhiều người tị nạn trong chúng ta đã đổi quốc tịch để thành "Mỹ gốc Á
Châu!" Tên họ được viết đảo ngược [tên gọi đặt trước tên họ.] Nhiều người
còn tiến bộ hơn, đổi cả tên lẫn họ thành tên Mỹ. Anh bạn Nguyễn Văn Tèo bây giờ
trên giấy tờ là "Tony Newell!" Lúc đầu đọc nghe thấy kỳ kỳ; nhưng riết
rồi cũng quen. Tôi còn nhớ lúc anh Tèo mới vào quốc tịch với cái tên mới Tony, bạn
Mỹ gặp anh trên đường phố, gọi anh: "Tony, Tony..." Vậy mà anh nghe thấy,
vẫn cứ bước đi thẳng như không có chuyện gì xẩy ra! Chính ngay anh cũng quên
tên mới của anh là "Tony! " Có một lần anh đi ra tiệm giặt ủi của Mỹ
để lấy quần áo giặt ủi về. Bà chủ tiệm người Mỹ nhìn cái biên nhận với cái tên
mới "Tony Newell" của anh, rồi bà ta nhìn anh nói là:
- You do not look like "Tony Newell" to me!
10.
Hơn ba mươi năm trời trôi đã qua mà cứ tưởng như mới ngày hôm qua. Đầu óc tôi cứ lơ đãng để ở một nơi nào đó ở Phi Luật Tận. Tôi chợt bừng tỉnh với cái thực tế của hiện tại khi thằng con trai bẩy tuổi của tôi gọi to:
Tôi nghe mà không khỏi vừa cười thầm vừa lo âu! Cười thầm vì tiếng
Việt đã bị Mỹ hóa nghe khôi hài, ngớ ngẩn. Lo âu vì không biết tương lai tiếng Việt
trên đất Mỹ sẽ đi về đâu" Chính bản thân tôi tiếng Mỹ đã không thấy giỏi
hơn chút nào mà tiếng Việt đã quên bớt đi rất nhiều. Lo âu cho thế hệ con, thế
hệ cháu về sau này" Không biết tiếng Việt có trở thành "endangered
species" giống như voi và tê giác ở Phi Châu đang bị giết để lấy ngà làm đồ
trang sức và sừng làm thuốc bắc hay không"
Trở về thăm quê nhà, nói chuyện với bạn bè cũ, láng giềng cũ thì
sự lo âu đó càng to lớn hơn. Mình là người ngoại quốc sống trên đất Mỹ đã đành.
Bây giờ, mình cũng lại là người ngoại quốc đối với ngay quê hương cha sanh mẹ đẻ
của mình. Đó là cái giá mà mình phải trả cho sự tự do. Đành phải chấp nhận
"gặp thời thế, thế thời phải thế." Người Việt ở quê nhà bây giờ đang
nói tiếng Việt với một bộ chữ Việt khác hẳn với chữ Việt như hồi tôi còn sống ở
quê nhà. Nhiều khi tôi phải nhờ người nhà giải nghĩa mới hiểu!
"Còn trời còn đất còn non nước
Có lẽ ta đâu mãi thế này!"
(Nguyễn Công Trứ
- Quân Tử Cố Cùng)
"Xin trời đất thương cho nước Việt và dân Việt!" Tôi vẫn
thường cầu nguyện.
Trần Văn Giang
No comments:
Post a Comment