Ngày đưa ba đi trình diện học tập dành
cho “sĩ quan nguỵ quân” tại trường Chu Văn An năm 1975, là khoảnh khắc cuối
cùng mẹ nhìn thấy mặt ba còn sống. Chuyến đi tưởng chỉ 10 ngày trở thành 2 năm
6 tháng chia lìa và xa nhau mãi mãi. Mỏi mòn chờ đợi để cuối cùng chỉ được ôm
xác người chồng yêu thương lần cuối cùng ở một trại cải tạo ngút ngàn tận cùng
biên giới Việt Trung.
Tháng hai năm 1979, trở về Sài Gòn sau
khi để lại ba nằm hiu quạnh trong trại cải tạo Tân Lập Vĩnh Phú, mẹ trở thành một
người hoàn toàn khác hẳn. Cái tính cứng cỏi ngày xưa của mẹ giờ thêm lòng căm
thù và nỗi đau mất chồng khiến mẹ trở nên điên dại. Đã có những tháng ngày mẹ
không thiết tha gia đình, lang thang từ nhà ra chợ. Câu chuyện mất chồng của mẹ
lan truyền nhanh chóng trong khu xóm đường Lam Sơn với toàn gia đình sĩ quan chế
độ cũ. Lan truyền đến tận cái chợ nhỏ Cây Quéo cuối con đường Hoàng Hoa Thám quận
Bình Thạnh. Ai cũng biết câu chuyện người đàn bà Huế mất chồng trong trại cải tạo.
Cuộc sống gian khổ, nỗi nhớ chồng quay
quắt làm mẹ ngày một gầy guộc đi. Đã không còn là người đàn bà trắng trẻo mập mạp
phúc hậu của khu phố sĩ quan ngày nào. Ban ngày chỉ là tạm quên, đêm về là những
giây phút mẹ nhớ đến cái lặng lẽ cô độc của ba nơi miền đất phía Bắc xa xôi. Nhớ
đến cặp mắt chưa kịp khép của ba trong ngày gặp mặt. Mẹ cứ hay bảo, không biết
ba mày có đói hay không, áo quần có lành lặn hay không, có ai hành hạ ba mày
hay không. Rồi mẹ lại khóc và mẹ lại nhớ đến cái khuôn mặt hốc hác, tiều tuỵ
ngày ba qua đời. Nhớ đến hàm râu dài lưa thưa, cái thân hình gầy guộc và cái áo
cũ rách nát tả tơi. Có những đêm ngồi bên cửa sổ nhìn ra khoảng tối mênh mông,
mẹ lặng lẽ khóc nức nở một mình.
Những tháng năm sau đó với mẹ con tôi,
thời gian qua thật dài. Không biết làm gì để an ủi mẹ ngoài chuyện cùng mẹ thay
ba lo cho những đứa em còn nhỏ dại. Ngoài giờ làm việc tại Bưu Điện, vợ chồng
tôi phụ me, làm đủ thứ nghề để sinh sống. Bán quần áo cũ tại chợ trời, làm bánh
đậu xanh, nuôi gà trong phòng ngủ, nuôi heo trong cầu tiêu để chỉ thật mong đến
ngày đủ sức đem ba trở lại quê nhà.
Cùng với những vất vả lo toan cho cuộc sống,
qua thời gian, mẹ và chúng tôi phải làm quen những ngày tháng không có ba. Các
em vẫn hằng ngày cắp sách đến trường. Vợ chồng chúng tôi đã có đứa con đầu
tiên. Đứa cháu ra đời chưa bao giờ thấy được ông nội bằng xương bằng thịt. Mỗi
khi nhìn con tôi lại nhớ đến ba. Cháu bao nhiêu tuổi, bấy nhiêu năm ba rời xa
chúng tôi.
Có những ngày ăn bo bo thay cơm. Có những
ngày liên tiếp không có gạo chỉ có bột mì. (Thời đó tại Sài Gòn chúng tôi phải
làm quen với chế độ tem phiếu như ngoài Bắc). Tùy theo lúc, theo số người trong
gia đình, có khi được cấp gạo, có khi nhận toàn bột mì, cũng có khi cả tuần nhận
toàn bo bo. Mẹ xoay xở chế biến thành đủ thứ món ăn bằng bột mì cho đỡ ngán. Dù
sao thì cũng không thể gian khổ bằng ba trong những ngày tù miền Bắc. Tôi tự an
ủi như vậy để sống. Mẹ bề ngoài rất can trường nhưng trong lòng lúc nào cũng
canh cánh nỗi lo về ba. Mẹ lúc nào cũng ao ước đem được ba về. Hết than ngắn lại
thở dài.
Thường phải qua 3 năm, mới có thể dời mộ
nhưng chỉ mới chưa đầy 3 năm, thương mẹ mỏi mòn trông đợi, tôi cùng mẹ xin giấy
phép ra Bắc đem xác ba về.
Tướng người ông Tiến đen đúa khắc khổ
nhưng nhanh nhen và vui tính. Cái giọng bắc 75 mới đầu hơi khó nghe, rồi cũng
quen dần. Chuyến đi có thêm người đào mộ thuê cũng nhờ thế làm thời gian trôi
qua nhanh hơn. Ông làm cái nghề này cũng đã mấy mươi năm sau cái ngày cởi bỏ áo
quần bộ đội. Ai cần đào mộ là có mặt ông. Thường bốc xác lên đem đi chôn chỗ
khác, cũng có khi đem đi thiêu.
Miền Bắc hồi đó có rất nhiều những ngôi
mộ vô danh nằm lẫn trong các ruộng vườn. Người ta nhờ ông. Ông lại có thêm công
việc tìm kiếm, đào xới, dọn dẹp và đem vào các hố chôn tập thể. Hay có khi chỉ
cần tẩm dầu và đốt. Ông kể, công việc tuy vất vả nhưng cứ có hoài. Tiền thì
không bao nhiêu vì dân ở đây thường rất nghèo, nhưng cũng đủ sống qua ngày.
Ông lão chép miệng. 30 năm đi lính, chỉ
biết đánh nhau, xuất ngũ không có tay nghề, làm cái việc suốt ngày bên các xác
chết ít người chịu được, cũng ít gian khổ hơn thời chiến tranh. Ông nói thêm,
đây là lần đầu tiên có người trong Nam ra nhờ ông, lại là đào mộ của người học
tập cải tạo. Tôi hỏi, người chết là sĩ quan miền Nam, sao ông vẫn nhận. Ông lão
chép miệng, cũng là con người cả. Ai chết rồi cũng như nhau, hận thù gì nữa. Mà
thật ra tôi có thù hận ai đâu. Ngày xưa đi lính, bảo bắn thì tôi bắn, không bắn
thì chết sao ông.
Lần đầu tiên trên một miền đất với tôi
chỉ là thù hận, tôi thấy một cảm giác an toàn..
Từ sáng sớm ba người chúng tôi lên ga
Hàng Cỏ và đến tối thì chúng tôi đến trại K2. Sáng hôm sau chúng tôi gặp cán bộ
trại xin đào lấy xác ba đem về chôn tại quê nhà và như dự đoán bị từ chối ngay.
Lý do phải có giấy cho phép của cấp trên. Thời gian chờ đợi ít nhất cũng phải
trên ba tháng. Hơn nữa, tay cán bộ trại giam nói thêm, ông nhà chết chưa quá ba
năm chắc cấp trên không cho đâu.
Không còn cách nào khác, không lẽ lặn lội
mấy ngàn cây số ra đây rồi về tay không, chúng tôi quyết định đi bốc mộ trộm. Đến
lúc này mỗi khi nhớ lại tối hôm đó tôi vẫn còn rùng mình. Tôi vẫn không hiểu tại
sao mình lại quyết định liều lĩnh như vậy. Đào mộ chui, chết hoặc ở tù như
chơi. Có lẽ phần vì còn trẻ liều lĩnh, phần thương ba, thương mẹ và một phần do
sự khuyến khích của người đào mộ thuê. Cũng may là ngôi mộ của ba nằm ngoài vòng
đai trại cải tạo, nếu không ai biết trước việc gì sẽ xảy ra cho chúng tôi.
Chúng tôi bắt đầu công việc đào đất
trong cái ánh đèn cầy leo lét. Người đào mộ làm việc chuyên nghiệp và nhanh
thoăn thoắt. Lớp đất xốp có lẽ được lấp vội vàng nên công việc đào xới cũng dễ
dàng. Rồi cũng đến lúc chạm đến cái nắp hòm củ kỹ mục nát. Nén xúc động, tôi mở
nắp quan tài. Ba nằm đó, bộ xương còn nguyên vẹn với một phần da thịt và tóc
chưa phân hủy hết.
Chúng tôi lặng lẽ vượt gần 30 cây số lên
đường trở ra ga Ấm Thượng ngay trong đêm. Cũng phải vượt qua hai con sông nước
chảy xiết, qua những con đường đất quanh co, và những ngôi nhà leo lét ánh đèn.
Không một bóng người. Tiễn chúng tôi chỉ là những tiếng côn trùng ếch nhái và
những giọt mưa phùn lành lạnh.
Chia tay người bốc mộ ngay tại sân ga, bấy
giờ tôi mới cảm thấy đói. Hai mẹ con ngồi tựa cột đèn nhà ga, mỗi người ôm chặt
một bị lác chứa xương người. Chúng tôi chia nhau ăn ổ bánh mì dai nhách, uống
ly chè xanh đắng chát, nhưng thật ngon lành.
Đêm lạnh, hai mẹ con chúng tôi ngồi bên
nhau, cô độc ngay trong cái sân ga đông kịt người. Miền Bắc Xã Hội Chủ Nghĩa
mãi mãi với tôi vẫn là nơi vô cùng xa lạ và không bao giờ muốn quay về.
Đang nằm thiu thiu ngủ bỗng dưng tôi thấy
tay mình nhẹ tưng, bừng tỉnh cũng là lúc tôi thấy một bóng người phóng qua mình
tôi về phía trái. Ôi cái bị lác của tôi. Tôi phóng người đuổi theo, vừa chạy vừa
la: xương người, xương người. Đứa bé ăn trộm bị tôi đuổi kịp quăng bị lác xuống
đất chạy vào bóng đêm mất dạng. Tôi lượm bị lác lên và ôm chặt vào lòng. Đêm đó
hai mẹ con lại ngồi tựa cột đèn, thức trắng. Lại một đêm thật dài, dài đến vô
cùng.
Trời mới tờ mờ sáng, chúng tôi lên chuyến
tàu sớm đầu tiên xuôi Nam và đến ga Huế vào nửa đêm.
Nhà ông bà ngoại tôi nằm dưới chân núi
Ngự Bình, cách lăng Thành Thái không bao xa. Ngôi nhà cổ với sân vườn sau là
các ngôi mộ của gia tộc bên ngoại. Về nhà quá khuya nhưng đã có rất đông họ
hàng, các em cùng vợ con tôi từ Đà Nẵng về cả ngày hôm trước. Có cả ông Cặn
hàng xóm, người chuyên môn lo về cúng kiếng với hòm rương nhang đèn đầy đủ.
Đám ma của ba tôi được tổ chức đơn giản
nhưng với đầy đủ thủ tục lễ nghĩa như với một người vừa mới qua đời. Xương của
ba được sắp xếp lại theo thứ tự tay chân trái phải và đưọc đặt vào quan tài
cùng với các đồ dùng còn sót lại của những ngày trong trại cải tạo. Không thể mặc
cho ba manh áo mới lành lặn, mẹ xếp ngay ngắn bên cạnh.
Bà con hàng xóm láng giềng khu vực An
Lăng có mặt thật đông. Hôm đó mẹ đã khóc ngất đi nhiều lần mặc dầu ba qua đời
đã lâu. Dù sao mẹ cũng đã mãn nguyện thực hiện được ước muốn từ bao năm qua:
đưa được ba về, nằm ấm cúng trong mảnh vườn nhỏ gia tộc bên cạnh ôn mệ, họ
hàng. Hôm đó tôi đã khấn trước mộ ba: Ba ơi, hãy yên nghỉ, chúng con luôn
thương nhớ ba. Con sẽ thay ba lo cho mẹ và các em. Ba có linh thiêng xin phù hộ
cho mẹ và cho chúng con.
Tôi tin là có một thế giới, nơi ba đang
sống, thật gần với chúng tôi, luôn theo dõi phù hộ chúng tôi, trong những ngày
đen tối còn lại tại quê nhà và những tháng năm lưu lạc trên quê người.
Đã 40 năm sau ngày ba mất, đại gia đình
chúng tôi, một mẹ và 9 người con vẫn đang thật bình yên trên xứ Mỹ này. Mỗi năm
chúng tôi đều thay phiên về thăm ba. Ngôi mộ được chăm sóc có sạch sẽ bởi một
người bà con còn ở lại. Chỉ riêng tôi, hơn 20 năm qua vẫn chưa một lần trở lại.
Chắc ba cũng hiểu, nỗi đau vẫn còn mãi trong tôi. Đã có những khó khăn, đã có
những vất vả trên quê hương thứ hai này, nhưng mẹ và anh em chúng tôi đều kiên cường
vượt qua để sống một cách lương thiện.
Dù mẹ đã lúc quên lúc nhớ nhưng tôi vẫn
luôn tin rằng hình bóng của ba vẫn luôn còn mãi trong tận cùng trái tim của mẹ.
Mẹ không nói, nhưng chắc vẫn nhớ nhiều điều trong quá khứ, nhất là cái ngày hai
mẹ con mình đi nhặt lại xác cha, phải không mẹ của con.
Viết trong ngày Vu Lan 2019
Lê Xuân Mỹ
Xin chia buồn cùng gia đình anh.
ReplyDelete