Tôi mới uống được lưng chiếc ly nứa con,
thì tiếng kẻng đã rống lên rồi. Cũng tiếng kẻng ấy, mọi khi tôi ghét cay, ghét
đắng, nhưng hôm nay nghe nó thánh thót, ngân nga có lúc như tiếng sáo diều trưa
hè ở quê xưa. Bởi vì hôm nay nó tử tế; lịch sự hiền ngoan lắm; nó trang trọng mời
bà con xuống bếp lấy cơm Xuân, để đón đêm trừ tịch.
Không khí cả buồng, cả trại sôi ồn lên
như giữa buổi chợ phiên. Chúng tôi, chả ai cần nói, cũng đều tạm dẹp chuyện nước
nôi, đến tối hãy hay. Bây giờ phải đi lo cái chuyện quan trọng, chuyện lớn, nó
liên quan đến cái hạnh phúc hay buồn khổ của đời người.
Ra đến ngoài sân, nườm nượp những người.
Ai cũng rảo bước chạy, như một dòng nước chảy xuôi về phía nhà bếp. Ngày thường
2 người trực mâm, một người chia cơm, một người chia canh. Nhưng hôm nay vì
tình thế quá căng thẳng, nên mâm nào cũng đều phải tăng cường thêm 2 người nữa
là 4. Chỉ mươi phút sau, dòng nước lại chảy ngược từ nhà bếp túa ra về các ngả.
Những ngày thế này thật là một cái nạn với
một số đông người, nhất là tôi lúc này, một người mới tới trại. Hàng ngày chỉ cần
2 cái để đựng, một cái lấy cơm và một cái lấy canh hoặc muối, là đủ rồi. Hôm
nay, trời đất ơi, những năm món, tôi bấn xúc xích cả lên! Lấy cái gì để đựng
bây giờ đây, hỡi cuộc đời? Làm sao mà mượn được ai trong này! Những món mà mới
chỉ nhắc đến tên thôi là nước miếng đã rỉ ra rồi:
1. Thịt lợn kho – 1 soong cho cả toán
2. Rau cải bắp trắng xào mỡ – mỗi mâm một
soong
3. Khoai tây hầm xương lợn – mỗi mâm một
soong
4. Lòng lợn xào chou-fleur – mỗi mâm một
soong
5. Hành nén chua – mỗi mâm một soong
Tôi chỉ có một cái rổ con để lấy cơm.
Còn có mỗi cái đĩa, thế mà những năm thứ, làm sao đây? Người ta gọi nhau í ới,
râm ran cả sân lên. Dáng ai cũng tớn tác khẩn trương. Nhóm này gọi “anh Bình
ơi, đặt bát lấy khoai tây”, nhóm kia gọi “anh Bình ơi, đặt bát lấy cải xào”.
Tôi hiểu rằng, phải có đủ bát thì họ mới
chia lẹ được. Bởi vì, từ mấy ngày trước, trong khi chuyện trò tôi đã biết: những
hôm có tươi thế này họ chia chác cẩn thận lắm. Ấy là còn may, soong thịt lợn
kho là quan trọng nhất, anh Lân toán trưởng chịu trách nhiệm đã giữ soong thịt
để chia sau. Tôi bấn cả người lên ! Chạy ra, chạy vào, nhìn ngược, nhìn xuôi,
cuối cùng tôi lật đật tạt vào buồng, lục lấy cái khăn mặt bằng vải áo tù, ở dưới
Hỏa Lò đặt đại ra để lấy hành nén. Nhưng đến đây, lại có một khó khăn trở ngại
nảy ra: mọi thứ chia đặc biệt này, đều phải gọi tên. Nó đã trở thành một nguyên
tắc không ai được quyền thay đổi, kể cả cán bộ hay Ban Giám Thị. Người ta có rổ,
hay đĩa sạch sẽ, nên khi gọi tên, ai lấy phải phần tôi đựng bằng giẻ thì làm
sao họ bằng lòng?
Cả mâm 10 người nhìn nhau không tìm ra 1
cách giải quyết cho ổn. Bất chợt anh Đồng lên tiếng:
- Nếu tôi lấy phải cái khăn của anh
Bình, tôi đồng ý đổi lại với anh.
Thấy vậy, Toàn và cậu Sáng cũng lên tiếng
đồng ý như anh Đồng. Nghĩa là, nếu lấy phải cái khăn vải của tôi, họ cũng đồng
ý đổi lại với tôi. Thế là bắt đầu chia. Hành nén, một củ thường có 2 hay 3
nhánh. Có nhánh to, nhánh nhỏ, nhánh vừa. Họ tách đều ra, rồi chọn 10 nhánh
tương xứng bỏ vào 10 phần. Mười nhánh khác cũng thế. Cuối cùng khi đã chia
xong, thì mỗi phần chừng độ 12, 13 nhánh.
Bắt đầu làm thủ tục gọi tên. Anh Đồng
quay mặt ra phía hàng rào trại. Anh Yên cầm 1 phần lên, hỏi to:
- Ai?
Anh Đồng vẫn quay lưng, không được ngoái
nhìn lại, trả lời:
- Anh Sáng!
Thế là cậu Sáng cầm lấy phần ấy. Anh Yên
lại cầm phần khác lên hỏi “Ai” tiếp. Cứ như vậy cho đến phần thứ 9. Còn người
cuối cùng không gọi đến tên, thì còn 1 phần là của người đó rồi. Chia xong
hành, còn cái soong không, nhiều người muốn đến giành, nhưng anh Đồng và đa số
anh em trong mâm đều đồng ý là để cho tôi. Đấy là nhã ý của họ với người mới đến
trại, vì còn nhiều người nữa cũng không đủ bát đĩa.
Tôi đành giữ cái soong, rồi đem đĩa đi lấy
từng thứ đem về đổ lẫn lộn vô soong. Chợt thấy ồn ào ở phía mâm ăn 18 kg, tôi
xách chiếc soong theo, chạy lại. Kinh và Vân đang sừng sộ, chỉ vào mặt nhau.
Nghe đâu Kinh múc nước khoai tây hầm chia không đồng đều. Chẳng có thì giờ để
nghe rõ câu chuyện, tôi lại phải chạy về mâm để lấy phần.
Đến lần chia cải bắp xào mỡ, cũng phải gọi
như vậy. Cho đến khi chia khoai tây hầm xương, lại có vấn đề hơi phức tạp, vì cả
soong khoai chỉ có 3 – 4 cái xương, lại cái to, cái nhỏ. Chưa nói, ngay khoai
cũng thế, có củ to, củ nhỏ, củ cắt đôi, củ không cắt. Cuối cùng củ nào họ cũng
cắt làm đôi, rồi nhìn tương xứng 10 miếng bỏ 10 phần. Khi chia gần hết chỉ còn
2 miếng thì họ cắt mỗi miếng ra 5 phần đều nhau, để bỏ vào 10 suất. Nước gân
riêng, đong bằng thìa, còn chừng 3 thìa thì họ đong bằng cho mỗi suất 1 tí cho
đủ 10 phần đều nhau. Vài miếng thịt con lẫn trong nước đều được vớt riêng ra.
Trong xương còn dính tí thịt nào cũng lấy ra hết, rồi trộn đều. Mỗi phần được ¼
thịt vụn nhừ. Còn 3 cục xương, chúng tôi thỏa thuận quyết định cứ bỏ đại bất kỳ
3 phần nào. May cho ai, người đó trúng số, sẽ hên cả năm. Xong rồi, họ lại tiếp
tục cầm từng phần để gọi tên.
Đến chou-fleur xào lòng lợn. Vì một cỗ
lòng lợn cho cả trại hơn 300 người, ai cũng hiểu, dù ngăn chận cách nào đi nữa,
toán nhà bếp cũng phải chấm mút ít nhiều, vậy thì cỗ lòng còn lại được bao
nhiêu? Cho nên 1 soong chỉ còn 4, 5 miếng ruột con con. Tuy vậy khi chia, cũng
phải để nước riêng. Chou-fleur cũng phải cắt nhỏ hơn, và mấy miếng ruột cũng phải
thái nhỏ thành 10 miếng đều nhau để mỗi suất có một miếng. Gan,phổi thì chẳng
thấy đâu, nếu có thắc mắc thì được nhà bếp trả lời, nó lẫn vào toán khác. Cứ
toán này lại cho là gan, phổi về toán kia, nhưng thực tế chả có toán nào có cả.
Đến cơm, hôm nay là cơm không độn, cơm
trắng, cơm đặc biệt của cả 1 năm mới có. Bởi vậy, lại càng cần được đảo rời,
trên dưới đều nhau, không chỗ nào để vừng. Vì ai cũng hiểu, cơm vừng thì nặng
cân hơn cơm rời, cơm trên đã bốc hơi nên khô, cân sẽ được nhiều, cơm dưới ấm sẽ
nặng cân v.v… Dù như vậy, khi cân xong, vẫn phải một anh quay đi và một anh cầm
bát gọi tên.
Đến phần chia thịt mới là trọng tâm của
vấn đề, một soong thịt chia cho cả toán. Lúc này các mâm đã chia xong, 5 mâm
đưa đến 5 cái soong không.
Anh Lân được 2 người phụ giúp, trước hết
gạn riêng nước ra hết, còn thịt được xúc vào 1 cái bát nhôm rồi đem cân như cân
cơm ở trên. Cẩn thận, xúc nạc, mỡ tương xứng đều nhau, sau đó là chia nước. Nước
cũng phải đảo đều vì váng mỡ nằm bên trên, ai cũng hiểu, từng thìa chia, tản đều
nhau cho 5 phần. Năm người đại diện của mâm, lại một người quay đi gọi tên mâm
như trên, nghĩa là 1, 4, 3, 5, 2 chẳng hạn. Phải gọi lung tung không được gọi
thứ tự, vì người ta nghi ngờ có sự ăn ý; sắp xếp giữa người gọi và người cầm
bát hỏi. Bây giờ về đến mâm, không đủ nhiều thịt để cân, bởi vì mỗi suất chỉ độ
3, 4 miếng, vậy miếng mỡ, miếng nạc thì làm sao? Đành phải dùng dao con cắt những
miếng mỡ, miếng nạc riêng ra. Trông tương xứng bỏ cho 10 phần đều, càng về cuối
càng phải cắt nhỏ.
Nước, nếu có nhiều váng mỡ ở trên thì lấy
thìa nhỏ, khẽ múc nước váng đó chia cho đều đủ 10 phần, rồi sau mới múc chia nước
phía dưới.
Sau khi làm xong, người chia mới hỏi ý
toàn thể anh em trong mâm. Phần nào tương đối hơn, phần nào tương đối ít, hoặc
ít ngon v.v… Anh em chỉ, chỏ điều chỉnh. Khi đã thỏa thuận tổng quát lại có 1
anh quay đi, để cho 1 anh hỏi v.v…
Nhìn cảnh chia chác phức tạp như vậy,
tôi rất thắc mắc. Đứng cạnh anh Đồng nên tôi mới hỏi ngay anh:
- Này, đã chia tương đối đều rồi, tại
sao còn phải gọi nữa, cho phiền? Bát đĩa lại phải trao trả lại? Nghĩa là, anh
này lấy phải cái bát của anh kia, thì lại phải đổi trả bát lại. Nhiều khi rất
lung tung, lộn xộn. Của anh A lại về anh B, nhưng bát anh B lại về anh H, mà
bát anh H lại ở anh A v.v… Cứ tìm bát đổi lại, đã nhiều phiền phức rồi.
Trong khi chờ chia các món, nói chuyện với
anh Đông và Quý Cụt tôi đã hiểu thêm nhiều sự việc. Sống cảnh cùng khổ này nó đẻ
ra nhiều điều ti tiện, tính toán, lừa lọc vặt vãnh lắm! Trước đây mỗi khi có chất
tươi, sau khi chia xong. Thường làm 10 tờ giấy con viết tên 10 người trong mâm,
rồi 1 anh gấp lại, xóc đều bỏ vào cạnh mỗi phần một miếng. Bấy giờ cứ việc mở
giấy ra, tên ai ở phần nào thì người đó nhận. Nhưng, dần dà đã có sự khôn lanh
khi gấp giấy. Người gấp giấy, chỉ cần chú ý một cái giấy tên mình, rồi tìm phần
nào có vẻ nhiều, hoặc ngon hơn thì bỏ miếng giấy đó. Hiển nhiên là không ai yên
tâm, tin tưởng được. Thậm chí đã có tên lỳ lợm, khi đã chia xong sắp sửa bỏ phiếu,
thấy suất nào có vẻ nhiều hay ngon, anh to nhổ đại một bãi nước bọt vào. Như thế
sẽ không ai dám lấy phần ấy nữa, vậy là về anh ta.
Tóm lại, trước đây đã xảy ra nhiều chuyện
lắm rồi. Cái tâm lý chung của mọi người trong cái cảnh thiếu thốn thương đau
này là, mắt nhìn suất của người khác thường cứ thấy nhiều hay ngon hơn của
mình. Mà như vậy thì trong lòng buồn lắm, ăn sẽ giảm ngon đi. Làm sao lòng còn
được thảnh thơi hoàn toàn để thưởng thức trọn vẹn cái món ăn trọng đại 1 năm
dài đăng đẳng mới có này. Thậm chí còn buồn cả đêm, cả 2 ngày Tết, có khi còn
kéo dài cả năm, vẫn buồn mỗi khi nhớ đến cái phần ít, không công bằng của mình
trong dịp đầu năm. Vì vậy dù chia đã đều rồi, vẫn phải gọi tên, như thế về mặt
tâm lý, sẽ bằng lòng, sẽ thỏa đáng. Ngon hay không ngon, nhiều hay ít, đấy là
do cái số phận của mình thôi. Có như vậy mới hoàn toàn yên tâm để tận hưởng cái
vưu vật, hiếm có của đời tù.
Cũng có nhiều tên cán bộ, cả Giám Thị nữa,
vào đứng nhìn cảnh tù chia chác thế này. Họ đều lắc đầu, giở giọng khuyên răn
v.v… Họ chỉ khuyên răn, mà họ không thể ra lệnh, vì họ cũng hiểu đây là tiêu
chuẩn của người tù được hưởng. Họ chỉ lấy lời khuyên tù không nên chia chác ti
tiện như vậy, hơn kém một vài hạt cơm, một tí thịt, thì có sao đâu v.v… Nhưng đều
vô hiệu. Những người tù ai cũng vậy, họ đã phải đổ mồ hôi, nước mắt đến tàn lụi
xác thân mới được hưởng những thứ này. Nó là sự sống của họ, là thịt là máu của
họ. Một hạt cơm là một tí thịt, tí máu của họ để họ sống. Họ chỉ muốn có sự
công bằng với nhau, chứ họ không hề chống đối chính quyền, chống đối Ban Giám
Thị.
Cuối cùng, những tên cán bộ ấy và những
tên Giám Thị nọ, vẫn không thể hiểu được cái bé nhỏ ẩn tàng trong lòng người
tù, đã bị đói khổ nhiều năm, tháng. Bất kể một ai, dù cho danh giá như là một Tổng
Thống, một nhà bác học, một nhà hiền triết hay một ông triệu phú, nếu phải ở
vào cảnh này, thì họ cũng sẽ như vậy. Chỉ trừ họ không phải là người, chứ đã là
người thì cũng chỉ là một sinh vật nên phải cần sống đã. Trong đám tù cùng khổ ở
đây, cũng có nhiều người trước đây, đầy hào hoa phong nhã. Đã một thời, đã từng
coi miếng ăn là sự tầm thường, hèn hạ của con người như Phan Thanh Vân, bác sĩ
Hiệp, hay như ông Hinh mù tư sản đài các, thanh lịch của Hà Nội v.v…
Sau khi chia cơm nước xong, bóng chiều
đã ngập ngừng dâng lên. Từng mảng tối thẫm với nhiều hình thù kỳ dị đang từ những
bìa rừng lẩn thẩn bò ra, che mờ dần cảnh vật. Trên chỏm những ngọn núi xa xa,
còn rơi rớt chút ánh vàng loãng nhợt. Một đàn vạc trắng giăng hàng như một cánh
cung, đang mải miết bay về phương Bắc. Một con chim rừng phía sau trại, thỉnh
thoảng cất giọng đều đều “bắt cô trói cột” mà sau này, những tên cán bộ phụ
trách dân công chiến trường miền Bắc, đã đặt trẹo đi là “khó khăn khắc phục”.
Nhưng lúc này, tôi lại cứ nghe ra là nó hót “chết ai cũng mặc”. Một nỗi mênh
mông khắc khoải, luồn dần vào giọng hót của con chim, cùng với đêm trừ tịch giữa
rừng hoang, đang ùa về đè nặng hồn tôi. Không gian, núi rừng đã ngã mầu xám sậm.
Vài chiếc lá nứa vàng khô rời cành lắc lư, chao đảo đìu hiu trong buổi chiều muộn
để về lòng đất ẩm.
Tôi thấy sân vắng, thưa hẳn người ra.
Trong hội trường cũng chỉ còn lác đác dăm ba người mà ngay cả những tiếng ồn
ào, râm ran cũng đã lắng dần vào yên lặng. Hơi ngạc nhiên, như mọi bữa, sau khi
chia cơm, canh xong lúc ăn uống cũng còn ầm ĩ chán.
Một tay cầm rá cơm, tay ôm cái soong thức
ăn lẫn lộn, tôi cũng đi vào buồng. Tôi cứ tưởng chỉ có mình tôi mới có ý định
riêng là sẽ không vội vàng gì cả, chờ cho cán bộ điểm xong đâu đấy, bấy giờ mới
thong thả thưởng thức cái của ngon vật lạ này trên cái cõi đời tù. Thế mà khi
vào buồng, sàn trên, sàn dưới, hầu như mỗi người đều đã ở chỗ của mình. Họ ngồi
yên lặng, nét mặt nghiêm trang, thỉnh thoảng họ cúi gầm đầu xuống những món ăn,
nét mặt thành khẩn, ngoan ngoãn như ngồi trước một bậc trưởng thượng rất mực
tôn kính. Chỉ có một vài người, chắc không thể chịu đựng được, lấy tay nhón một
vài miếng nhỏ, bỏ vào miệng để nhấm nháp trước, chứ họ cũng đều muốn chờ điểm
xong đã như tôi.
Ngay anh chàng Vân ở bên cạnh cũng đang
ngồi thừ người ra nhìn đám thức ăn, đang để tênh hênh ra trước mặt. Chẳng biết
Vân đang nghĩ gì, nhưng tôi hiểu anh không muốn nói chuyện lúc này. Tôi xin được
tôn trọng và trong lòng tôi cũng muốn được yên lặng. trong những giờ phút
thiêng liêng này như anh.
Hôm nay tên cán bộ ngồi ở trên chòi gác ở
cổng trại, chẳng hiểu vì tâm hồn y cũng đang vơi đầy với đêm cuối năm giữa rừng
sâu hoang lạnh, để tâm hồn thẩn thờ, để mắt đăm chiêu rọi tìm vào cõi xa xăm
đen tối những hình dáng thân nhân, ruột thịt, hay y có lệnh hôm nay gõ kẻng điểm
muộn, nên mãi y cũng chẳng chịu gõ để anh em tù phải chờ?
Mãi rồi tiếng kẻng cũng réo vang lên
trong cái tịch mịch của núi ngàn. Sau khi điểm xong, cửa đóng, then cài khóa kỹ..
Hơi ồn ào một chút lúc đầu vì những tiếng rít của điếu cầy và vì ai cũng vào
nhà cầu để đẩy ra hết những cái nước thừa cho nhẹ lòng.
Ánh sáng của chiếc đèn bão treo lủng lẳng
giữa nhà, càng làm cho căn buồng thêm mờ ảo, mông lung. Tôi ngồi xếp chân tròn
ngay ngắn, thụt sâu lên phía đầu sàn, trong bóng tối. Nhẹ đưa mắt một lượt
chung quanh phía sàn dưới, rồi nhìn về chiếc soong và rá cơm của mình phía trước
mặt. Lòng hơi gợn lên một chút xót xa, khi thấy soong thức ăn của tôi, lộn tùng
phèo các món. Nhưng không sao, sá gì mấy cái tiểu tiết ấy. Bởi vì, từ nãy tới
giờ tôi đã phải nuốt vào nhiều lần nước chân răng rồi.
Ngay từ lúc chia, tôi đã biết chắc là phần
của tôi có 4 miếng thịt lợn, mầu nâu sậm, óng lên những mỡ rồi. Miếng to nhất
phải bằng đến 4 đốt ngón tay ghép lại, chứ có chơi đâu. Nghĩa là, một bề 3
phân, một bề 4 phân và dầy đến gần một phân. Bây giờ tôi vẫn còn nhìn rõ, nó nằm
lù lù một góc soong kia. Người tôi đã nóng lên rần rật rồi, tay chân đã thấy ngứa
ngáy ran lên. Nhưng tôi phải trầm tĩnh, không vội vàng, dù cái mùi ngọt ngào,
ngầy ngậy thơm phức cứ xộc bừa vào mũi tôi. Óc tôi còn đang bận suy nghĩ là nên
hưởng cái gì trước? Hơi hoang mang, ngập ngừng một giây trong lựa chọn. Cuối
cùng tôi quyết định: đầu tiên, cái đầu tiên phải là một miếng thịt đã!
Tay đã cầm cái thìa cụt Toàn cho, lăm le
từ nãy. Bây giờ tôi khẽ nương nhẹ, xúc một miếng cho gọn ghẽ vào trong cái
thìa. Trước khi cho miếng thịt vào miệng, mắt tôi lại phải liếc thiên hạ chung
quanh một cái nữa đã. Yên tâm, trong bóng tối, chả ai nhìn thấy tôi. Ngửa cổ,
tôi há hốc miệng ra; hai đầu gối của tôi tự nhiên động đậy rồi rung lên. Từ từ,
tôi đẩy miếng thịt vào giữa hai hàm răng. Dập mạnh, hai hàm cắn mạnh, vất chiếc
thìa vào soong, tôi nằm vật ngửa trên cuộn chăn phía đầu sàn. Cương quyết tôi
không nhai, cứ ngậm chặt hai hàm răng vào miếng thịt như vậy. Mắt nhắm nghiền,
tôi im lặng nghe ngóng. Ruột tôi cứ cuồn cuộn, vặn vò, giẫy dọn gây ra những tiếng
ơ…ợ, e…ẹ liên hồi. Tôi hiểu, ruột và dạ dầy của tôi đang vật vã kêu xin, van
nài tôi, mau cho chúng được hưởng chút ân tình đặc biệt của trời, mà từ lâu lắm
rồi, chúng khao khát, mòn mỏi mong chờ.
Mãi tới lúc này, tôi mới chịu chấp nhận
lời khẩn cầu của chúng, mới chịu nuốt những dòng nước miếng, đã đầp ắp miệng
tôi từ nãy. Đột nhiên hai hàm răng tôi mở ra, rồi thong thả lại cắn vào miếng
thịt. Lại từ từ há ra, rồi lại tiếp tục dập mạnh vào. Ba, bốn lần như vậy, như
một nghệ nhân đang điều khiển trống, trong một ban nhạc, chân đang nhận bass: pạch…pạch…pạch…
Tôi không còn nghe thấy tiếng vật vã, của ruột và dạ dầy nữa, nhưng lại còn có
một tiếng khác, rất lạ. Tiếng róc rách của một dòng suối trong vắt đang chảy từ
cuống họng tôi xuống dạ dầy, mà tôi lại tưởng là những giọt nước nhểu của mái
tranh đầu hè trong những trận mưa.
Một lúc lâu lắm tôi mới ngồi dậy được.
Liếc nhìn anh chàng Vân, cũng đang nằm ngửa tơ hơ trong khi miệng anh vẫn nhai
nhóp nhép. Kệ anh. Tôi quay lại tiếp tục thưởng thức dần những thứ vưu vật của
trời, lúc này đã hoàn toàn thuộc quyền của tôi.
Chỉ mới 40 phút sau, tất cả đã sạch
trơn, dù tôi đã cố ý dềnh dàng kéo dài lúc hưởng thụ. Thế mà xem ý ruột, gan và
dạ dầy của tôi sẵn sàng lịch sự xin nhận nữa. Tôi thầm nhủ lòng và cũng như nói
nhẹ với chúng, xin vui lòng đợi đến ngày mai. Lúc này tuy mới 8 giờ tối, trong
buồng đã nhiều người đi nằm đắp chăn. Có lẽ ai cũng vậy, sau một bữa ăn không
bình thường, anh nào cũng muốn nằm cho tâm tư, bồng bềnh nổi trôi với cuộc đời.
Theo truyền thống hàng năm, đêm nay và đêm mai (mồng một Tết) không có kẻng cấm, đi tiểu, đi cầu đều không phải báo cáo cán bộ như mọi khi. Nghĩa là tự do, thức hay ngủ cả đêm, đó là quyền của anh. Mọi người cũng đã được thông báo ngay từ buổi chiều: đặc biệt đêm nay, Đêm Trừ Tịch, 9 giờ cán bộ sẽ mở cửa phát bánh chưng và nhà bếp sẽ cho mỗi buồng 1 thùng nước sôi, để tù nhân pha trà đón Giao Thừa.
Trích Hồi Ký Thép Đen (23)
Đặng Chí Bình
Rớt nước mắt
ReplyDelete