Thời du học và sống nơi xứ người
Đây là cái thời đã chiếm 3/4 đời người của tôi cho đến nay và còn đang kéo dài không biết đến chừng nào, cũng như đã 57 năm từ ngày tôi rời quê hương và chưa hề trở về...
Vì theo chương trình Pháo nên những xứ có thể đi du học được là Bỉ (nơi tôi đến trước nhất), Thụy Sĩ hoặc Canada (vào thời đó thì vì có chuyện hục hặc giũa ông tướng Kỳ "râu kẽm" và T.T Pháp De Gaulle nên du học sinh không thể qua Pháp ngoại trừ có học bổng).
Sau khi qua Bỉ vào năm 1968, xa cha mẹ, tôi đã như chim sổ lồng, ăn chơi lêu lỏng trước những cám dỗ của Tây phương. Lúc đó tại đây quy tụ rất nhiều con ông cháu cha, ăn xài xả láng tiền hàng tháng gia đình gửi qua, ngay đến ở V.N cũng biết tiếng. Đại học thì có ghi danh nhưng chẳng hề đặt chân đến lại thêm bị mấy cô đầm quá hấp dẫn quyến rũ khiến đầu óc mê muội đến không còn thiết tha vấn đề học hành gì cả.
Tôi đã mất gần 3 năm vì chỉ lo ăn chơi trác táng... Bà già tôi sợ cho tương lai cậu con trai quá nên vội sắp đặt cho tôi qua Pháp vào năm 1971 (lúc đó thì từ Pháp qua Bỉ chẳng khó khăn gì). Một tay bà tính toán, sắp đặt hết để lo cho tôi ăn học lại (vì khi đó thì hết có thể gửi tiền qua đường chính thức) và nhờ có ông Bác đã ở Paris nên có thể nhận tôi và ghi danh cho tôi vào đại học Pháp. Phải nói lúc đó thì chữ nghĩa của tôi đã trả cho thầy hết rồi, bắt đầu ngồi vào học lại rất là gian nan, trần ai, khổ cực. Nhưng lại nhờ phước đức ông bà, tôi từ từ tiến lên và sau 5 năm dùi mài kinh sử, cuối cùng đã lấy được cái bằng kỹ sư. Ôi thôi hú hồn, hú vía...
Và lúc đó tính về lại V.N cũng không được vì đất nước đã mất vào tay bọn V.C rồi. Tôi đành phải ở lại Pháp, và nhờ khi đó đâu đâu cũng đón nhận và giúp đỡ người Việt tỵ nạn, nên tôi được hãng điện tử IBM, rất nổi tiếng trên thế giới thời đó, mướn với lương bổng rất khá, và tôi đã làm tại đây trong suốt 40 năm trời (rớt trúng mỏ vàng nên chẳng nghĩ đến việc đổi chỗ làm) cho đến khi về hưu vào năm 2015.
Và vận hên cuộc đời tiếp tục, vì "nhờ mất nước" mà tôi gặp được bà xã từ Việt Nam qua Pháp tỵ nạn. Âu cũng là duyên số vì bà xã có máu lai Tây 1/4, ông nội là dân Pháp, nên qua đây chứ thật ra thì đáng lẽ đã định cư ở Mỹ rồi vì trước hết đã đến trại Pendleton, ở Cali, trại tỵ nạn đầu tiên của người Việt trên đất Mỹ trong tháng 4 năm 1975. Và tôi quen được cô nàng ở thành phố Paris rộng lớn vào năm 1976 là nhờ có một người bạn thân cặp kè với cô chị và giới thiệu cho tôi cô em. Thế là chẳng phải mất nhiều thì giờ để tìm kiếm cô vợ đẹp chứ không thì chắc cũng lấy vợ đầm như bao nhiêu bạn ở đây rồi. Và vẫn số đỏ, lấy được cô vợ tuy là có gốc Tây và khi xưa ở Sài Gòn cũng theo đuổi chương trình Pháp, nhưng công dung ngôn hạnh tuyệt vời, nhiều khi có thể còn hơn các cô gái Việt chính cống. Số tôi là "công tử bột" nên hết bà già lo rồi đến vợ lo từng ly từng tí một, một tay đảm đang, trang trải trong ngoài, tôi chỉ có nhiệm vụ đi làm kiếm tiền, còn không thì gọi là "ngồi chơi xơi nước", "chỉ tay năm ngón"...
Tất cả để nói chắc tôi mang tên Phước, mà là "Duy Phước" nữa, nên đi đâu cũng gặp may như có quý nhân phù trợ, việc gì cũng trôi chảy, từ công ăn việc làm đến vấn đề gia đạo. Và mỗi khi nghĩ lại tôi vẫn còn rùng mình đã thoát được "địa ngục" nước Bỉ và nhóm bạn bè trụy lạc để gầy dựng lại tương lai, sự nghiệp có thể nói là từ "tay không".
Chưa hết. Con người của tôi cũng đã thoát thai, lột xác, từ một tay ăn chơi bệ rạc trở thành một nhân vật đàng hoàng trong giới cộng đồng N.V đến nỗi các bạn cũ của tôi ở Bỉ không thể ngờ.
Cần biết khi tôi từ Bỉ qua Pháp thì cũng đi kiếm dân V.N cư ngụ ở đây để kết bạn và học hỏi đường đi nước bước. Thì có một nơi lúc đó quy tụ rất nhiều giới trẻ Việt du học là Tổng Hội Sinh Viên V.N tại Paris. Và cũng vào thời đó, chủ tịch của Tổng Hội là anh Trần Văn Bá, một sinh viên hải ngoại đã hiên ngang đi về nước kháng chiến nhưng sau đó thì bị bọn V.C bắt và xử tử vào năm 1985.
Tôi bắt đầu quen biết và chơi với anh ta và từ đó con người tôi thay đổi hẳn, thay vì rong chơi lêu lỏng chẳng tích sự gì, thì tôi tham gia vào các hoạt động chống cộng và xã hội nhất là sau biến cố 1975 mà người tị nạn đến xứ Pháp cũng như mọi nơi rất nhiều. Đây cũng là một phần đóng góp của tôi cho quê hương sau khi đã bỏ ra đi một cách quá thờ ơ, vô trách nhiệm, khiến tôi ân hận mãi.
Con đường xây dựng cộng đồng N.V của tôi tiếp tục khi tôi vì công việc phải về thành phố Orleans (cách Paris khoảng 120 cây số) cư ngụ và ở đây thì tôi đứng ra điều hành Hội Ái hữu N.V vùng Loiret trong một thời gian kỹ lục gần 20 năm. Tôi không ngới đi liên kết các hội đoàn N.V chống cộng, trước hết ở Pháp và các tỉnh lân cận vùng Trung, và sau đó thì nối vòng tay lớn, cùng với các anh em trong Liên Hội N.V Canada và một số các CDNV trên khắp thết giới, thành lập Tổng Liên Hội N.V Hải Ngoại. Và phải nhắc lại mọi chuyện được vậy cũng nhờ có bà xã tề gia nội trợ nên tôi mới có thể vắng nhà thường xuyên để đi "lo chuyện thiên hạ"...
Sự nghiệp thơ văn của tôi
Bây giờ trở lại vấn đề thơ văn của tôi. Như đã nói, tôi không rành tiếng Việt, đối với tôi chỉ là "ngoại ngữ" so với tiếng Pháp mà tôi sử dụng thường xuyên hơn, con người tôi lại là dân toán học khô khan, không phải loại văn chương lãng mạn, cũng chẳng phải thuộc loại thất tình để mà có được những câu thơ lâm ly, tình tiết. Thế thì làm sao tôi biết "mần thơ"
Nhưng cũng nhờ phải tham gia các sinh hoạt hội đoàn, cần đi giao thiệp, ăn nói chững chạc trước công chúng, tranh luận các vấn đề chính trị, xã hội v.v... nên tôi đã có thể học hỏi và trao dồi thêm tiếng Việt. Và từ đó vốn liếng chữ nghĩa của tôi dần dần khá hơn. Thường thì cái gì sắp mất thì lại thấy tiếc, khi thấy bọn V.C ngoại lai và một đám Việt kiều hiện nay đi phá hoại tiếng mẹ đẻ thuần túy, thì tôi lại thấy yêu mến tiếng Việt vì nhận ra là thực sự quá phong phú, từ những cách nói lái đến thơ văn, kho tàng văn chương quá giàu không thiếu chữ nghĩa gì đến nỗi phải đi du nhập những tiếng ngoại lai, dị hợm bắt chước V.C...
Còn nhớ tôi đã bắt đầu bập bẹ làm thơ "con cóc" khi đang làm chủ tịch Hội N.V vùng Loiret, và vào dịp Tết nhất phải ráng làm một bài thơ cho tờ báo Xuân năm 1987. Thế là sự nghiệp thơ văn của tôi bắt đầu qua bài thơ "Táo Quân" sau đây (bài rất dài nên chỉ trích vài câu đầu):
Khải tâu Thượng Đế, Thần Táo Loiret
Tết đến Xuân về, Chỉnh tề hia mão
Sửa sang quần áo, Lấy Columbia
Từ chốn quên nhà, Về không chậm trễ
Dập đầu trước bệ, Kính chúc Ngọc Hoàng
Long thể an khang, Trước thềm năm mới
Táo thần xin nói, Về chuyên dân gian
Ở nước Việt Nam, Cùng khắp thế giới
Thề không nói dối, Cũng chẳng nói thêm
Thành thật tâu lên, Để ngài thấu rõ
Chuyện to chuyện nhỏ, Chuyện gần chuyện xa
Những gì đã qua, Trong năm con Cọp (năm Bính Dần)
Công trình gom góp, Không xót một ai
Ngài hãy rửa tai, Hầu nghe cho hết
Nghe nhiều phát mệt, Vì nỗi oái ăm
Bao điều thương tâm, Kể sao cho xiết
Nói về nước Việt, Dân chúng lầm than
Nước mất nhà tan, Vì quân cộng sản
Theo bác và đảng, Mười hai năm qua
Thống trị dân ta, Lao tù bắt bớ
Vùng kinh tế mới, Đày người dân lành
Làm ruộng làm ranh, Hầu dễ cuớp giựt
Lao động cùng cực, Khiến bao triệu người
Thịt nát xương phơi, Nguyền rủa Chinh, Duẩn (Trường Chinh và Lê Duẩn)
Một lũ ngu xuẩn, Cõng rắn về nhà
Dày xéo quốc gia, Cam tâm luồn cúi...
Lúc đó bà con đã khen là hay, ít khi thấy một bài thơ Táo Quân dài và có ý nghĩa như vậy. Nhưng rồi tôi ngưng ở đó. Rồi bỗng một hôm, vào khoảng đầu năm 2000, tự nhiên ngồi không một mình (vào lúc bà xã đang đi về V.N thăm nhà), không biết có "ma nhập" hay không, lại bắt đầu "thơ với thẩn". Rồi tôi gửi cho một anh bạn có một tờ báo "lá cải" ở Pháp, khi đọc xong thì anh ta cho biết là thơ rất khá, có cái gì khác lạ, đọc nghe được lắm và khuyến khích tôi tiếp tục. Thế là tôi hứng chí và từ đó bắt đầu sự nghiệp thơ văn thực thụ. Và dần dần thì tôi gửi đăng các báo chí người Việt hải ngoại khác như blog NPN mà quí vị đã biết:
https://nguoiphuongnam52.blogspot.com/
hay trang báo HNPD có rất nhiều đọc giả, xem link sau đây:
https://haingoaiphiemdam.com/p121/than-huu-tiep-tay.
Và không phải tự đề cao nhưng tôi nghĩ là nếu tôi gửi những bài thơ cho một số trang báo N.V ở hải ngoại khác thì họ cũng đăng.
Thế thì thơ của tôi có gì là đặc sắc không? Người thì cho là khác lạ, người thì cho là "có hồn" và ngạc nhiên về khiếu thơ văn của tôi tuy theo học chương trình Pháp từ nhỏ đến lớn, như bà chủ nhiệm blog NPN...
Thật ra về thơ văn, khác với các ngành cần học hành đỗ đạt thành danh, có bằng cấp đàng hoàng như bác sĩ, kỹ sư, thì chẳng có quy luật hay tiêu chuẩn nào ấn định tầm độ hay dỡ của một bài thơ. Bất cứ ai cũng có thể tự cho là thi sĩ, khi hứng chí rặn ra vài câu thơ, rồi tự vỗ đùi khen "rằng hay thì thật là hay"... Do đó hay hay không thì tùy thuộc vào người đọc nhận xét và phê phán.
Thế thì để thu hút được người đọc, theo tôi, nhưng chỉ là ý kiến riêng của một người không hề học làm thơ, thì cần tôn trọng những nguyên tắc sau đây:
1/ Âm điệu của bài thơ
Đối với tôi thơ như là một bản nhạc, nhạc có note "do, ré, mi, fa, sol, la, si" thì thơ có âm điệu "bằng bằng trắc trắc" với các dấu "huyền, sắc, hỏi, ngã" và không dấu. Một bài thơ còn mang tính vần giữa câu nọ với câu kia và tổ hợp của các câu gây ra âm hưởng nhạc tính trong bài.
Như đã nói, khi học môn Việt văn ở Trung học thì lâu lâu có ông thầy đọc cho nghe một vài bài thơ của những thi sĩ rất nỗi tiếng thời xưa cũng như thời nay, chẳng hạn bài thơ Đường "Qua Đèo Ngang" của Bà Huyện Thanh Quan, một nữ sĩ yêu nước, như sau (chỉ đăng 4 câu cuối):
Nhớ nước đau lòng con quốc quốc
Thương nhà mỏi miệng cái gia gia
Dừng chân đứng lại trời non nước
Một mảnh tình riêng ta với ta...
hoặc khi nghe một bản nhạc được sáng tác qua bài thơ "Chân Quê" của Nguyễn Bính, một thi sĩ mà tôi rất ưa thích:
Hôm qua em đi tỉnh về
Đợi em ở mãi con đê đầu làng
Khăn nhung, quần lĩnh rộn ràng
Áo cài khuy bấm, em làm khổ tôi
Nào đâu cái yếm lụa sồi
Cái dây lưng đũi nhuộm hồi sang xuân
Nào đâu cái áo tứ thân
Cái khăn mỏ quạ, cái quần nái đen...
Tôi nghe những bài thơ này, diễn tả nỗi niềm đối với quê hương cũng như tất cả vẻ đẹp mộc mạc, bình dị của vùng thôn quê, tự nhiên thấy có gì lâng lâng trong tâm hồn và từ đó tự nhiên tôi bắt đầu yêu thích thơ. Khi nào đọc được bài thơ nào hay thì cứ nhớ, và lâu lâu lại "ê a" cũng như những ai khi thích một bản nhạc thì cứ ngân nga, riết rồi tự nhiên âm điệu và cách đặt vần thơ của các loại thơ dần dần ghi vào ký ức... Chắc nhờ vậy mà khi tôi làm thơ, âm vận bằng bằng trắc trắc không sai tuy rằng chẳng bao giờ học làm thơ và cũng chẳng biết là loại thơ gi. Và để chắc rằng bài thơ đúng âm điệu thì khi làm xong một bài thơ, tôi cứ đọc to lên nhiều lần để nghe xem có lọt tai hay không.
2/ Ý của bài thơ
Ý là cái hồn của bài thơ, như người ta thường nói bình rượu ngon không phải vì cái vỏ bề ngoài mà là những gì được chứa đựng trong bình. Ý có trong sáng, mạch lạc và hấp dẫn thì bài thơ mới thu hút người đọc. Do đó, chọn một đề tài cho bài thơ rất là quan trọng vì chỉ cần một ý tưởng nào đó thể hiện được tâm tình của người đọc là bài thơ được cho là hay. Khi nói về đề tài thơ thì tôi lại trở về với âm nhạc. Nhiều khi làm thơ riết rồi không biết viết gì thêm, nhưng nhờ lâu lâu nghe được một bản nhạc hay nào đó thì lại giúp tôi có thêm ý để sáng tác. Các nhạc sĩ, tuy rằng không phải là thi sĩ thật sự, nhưng cũng có những sáng tác đủ loại, từ nhạc quê hương, chiến chinh đến tình tiết éo le, và nhiều khi có những lời nhạc không thua gì các thi sĩ như Phạm Duy, Trịnh Công Sơn, Nguyễn Văn Đông, Lam Phương v.v... Thường thì muốn có ý dồi dào để làm thơ thì cần phải có trải qua những tình huống lâm ly bi đát, "nước mắt lã chã", riêng tôi thì cuộc đời quá "bằng phẳng" nên nhiều khi phải cố moi óc tưởng tượng những hoàn cảnh này.
3/ Đề tài của bài thơ
Đề tài thì rất nhiều, chẳng hạn về tình yêu, quê hương, chiến tranh, các mùa v.v... Nhưng phải nói thường thì những bài thơ lôi cuốn và thu hút đọc giả là những bài có đề tài tình tiết éo le, thật là ướt át so với những đề tài về chiến tranh, có hơi khô khan...
Thật vậy tôi yêu thích thơ là nhờ những bài thơ yêu đương lãng mạn như sau:
Trời hỡi, bao giờ tôi chết đi?
Bao giờ tôi hết được yêu vì,
Bao giờ mặt nhật tan thành máu
Và khối lòng tôi cứng tựa si?
Họ đã xa rồi khôn níu lại,
Lòng thương chưa đã, mến chưa bưa...
Người đi, một nửa hồn tôi mất,
Một nửa hồn tôi bỗng dại khờ.
("Những Giọt Lệ" của Hàn Mạc Tử)
***
Em cứ hẹn nhưng em đừng đến nhé
Tôi sẽ trách cố nhiên nhưng rất nhẹ
Nếu trót đi, em hãy gắng quay về
Tình mất vui lúc đã vẹn câu thề
Đời chỉ đẹp những khi còn dang dở
Thơ viết đừng xong, thuyền trôi chớ đỗ
Cho nghìn sau lơ lửng với nghìn xưa...
("Ngập Ngừng" của Hồ Dzếnh)
***
Vì em là một bài thơ
Vì em là một giấc mơ khôn cùng
Tôi xin ôm lấy vào lòng
Tôi xin giữ lấy trọn vòng thời gian
Tôi xin sung sướng vô vàn
Để ca ngợi, để mơ màng em luôn
Tôi xin dành một chiếc hôn
Đặt lên tất cả tâm hồn thơ ngây
Tôi xin dâng cả bàn tay
Nhẩn nhơ ràng buộc chuỗi ngày lơ thơ...
("Vì Em" của Nguyễn Bính)
4/ Chữ nghĩa dùng trong bài thơ
Cũng cần phải biết tiếng Việt nhiều để thể hiện được một cách chính xác ý bài thơ. Tuy nhiên không cần phải dùng chữ bóng bẩy, khó hiểu cho lắm, mà cần những chữ diễn tả đúng tâm trạng, đi vào lòng người. Chẳng hạn bài thơ "Hai sắc hoa tigôn" của T.K.T.T sau đây, các chữ dùng có gì là cầu kỳ đâu nhưng rất thấm thía:
Nếu biết rằng tôi đã lấy chồng,
Trời ơi! người ấy có buồn không?
Có thầm nghĩ tới loài hoa vỡ
Tựa trái tim phai tựa máu hồng?
hoặc
Làm sao cắt nghĩa được tình yêu!
Có nghĩa gì đâu, một buổi chiều
Nó chiếm hồn ta bằng nắng nhạt,
Bằng mây nhè nhẹ, gió hiu hiu...
("Vì Sao" của Xuân Diệu)
5/ Vần thơ
Có người cứ tưởng thơ phải có vần. Không, theo tôi tuy rằng thơ cần có vần để khác với văn suông, nhưng đừng để ý thơ bị hạn hẹp bởi vấn đề vần. Nhiều người vì vậy mà cứ cố đi tìm vần đến nỗi phải lật lộn, chế biến chữ nghĩa ngược ngạo như V.C, thấy rất gượng gạo, gò bó đánh mất hồn thơ. Vì vậy, một bài văn không cần vần cũng có thể là một bài thơ hay nếu sự chọn lọc các từ trong đó súc tích và gây cảm xúc cho người đọc. Và khi nói về vần thì cũng tùy thuộc vào các thể loại thơ như đề cập sau đây.
6/ Các thể loại thơ
Thi văn V.N rất phong phú và có rất nhiều thể loại, từ thơ cũ (của những thi sĩ thời xưa) đến thơ mới, có nào là thơ Đường Luật, Thất Ngôn Bát Cú, thơ Lục Bát, thơ 4 câu 7 chữ, thơ 8 chữ v.v.... Mỗi loại thơ đều có một đặc điểm tùy theo thị hiếu và sở thích của mỗi người.
6.1/ Thơ Đường Luật
Trong các thể loại thơ, thì thơ Đường Luật là khó thực hiện nhất, vì không những cần có vần mà các chữ phải đối với nhau (đặc biệt của thể thơ này là câu 3 đối với câu 4, và câu 5 đối với câu 6) , chưa kể là phải đúng luật bằng bằng trắc trắc như định nghĩa trong link sau đây:
https://vi.wikipedia.org/wiki/%C4%90%C6%B0%E1%BB%9Dng_lu%E1%BA%ADt
Rất nhiều những bài thơ thời xưa đúng luật lệ hẳn hòi của những thi sĩ như Trần Tế Xương, Nguyễn Khuyến, Tản Đà, Bà Huyện Thanh Quan, Hồ Xuân Hương v.v... đã đi vào kho tàng thi văn V.N, chẳng hạn các bài thơ sau:
Ao thu lạnh lẽo nước trong veo
Một chiếc thuyền câu bé tẻo teo
Sóng biếc theo làn hơi gợn tí
Lá vàng trước gió khẽ đưa vèo
Tầng mây lơ lửng trời xanh ngắt
Ngõ trúc quanh co khách vắng teo
Tựa gối buông cần lâu chẳng được
Cá đâu đớp động dưới chân bèo.
(Thu Điếu, Nguyễn Khuyến)
Đọc bài thơ này mới thấy là văn chương và chữ nghĩa tiếng Việt quá phong phú và phải ngả nón bái phục tác giả đã dùng những từ như: "trong veo", "tẻo teo", "đưa vèo", "vắng teo" rất độc đáo...
hoặc trong một địa hạt khác:
Một đèo, một đèo, lại một đèo,
Khen ai khéo tạc cảnh cheo leo.
Cửa son đỏ loét tùm hum nóc,
Hòn đá xanh rì lún phún rêu.
Lắt lẻo cành thông cơn gió thốc,
Đầm đìa lá liễu giọt sương gieo.
Hiền nhân, quân tử ai là chẳng ...
Mỏi gối, chồn chân vẫn muốn trèo.
("Đèo Ba Đội" của Hồ Xuân Hương)
Trong bài thơ trên cũng phải thán phúng bà Hồ Xuân Hương, bà chúa thơ Nôm, đã biết sử dụng một cách tài tình các chữ có nhiều nghĩa bóng gió, vừa thanh vừa tục như: "cửa son đỏ loét", "đầm đìa lá liễu", "lún phún rêu"...
Riêng tôi thì không tài ba như vậy, nhưng cũng ráng sáng tác vài bài thơ "Song Thất Bát Cú", không biết có đúng luật lệ hay không, sau đây:
Chẳng mấy khi gặp lại bạn hiền
Mừng mừng tủi tủi cảnh đoàn viên
Chén anh chén chú cho thỏa chí
Ly cụng ly nâng cạn nỗi niềm
Cách biệt bao năm giòn câu chuyện
Sum vầy giây chốc mãi hàn huyên
Rượu thắm men nồng càng quyến luyến
Tiệc tàn chưa trọn mảnh tình riêng.
***
Tết lại về đây gợi nhớ thương
Chia ly vời vợi cách đôi đường
Người xưa biền biệt, sầu đơn bóng
Chốn cũ mù khơi, xót dặm trường
Xuân sương bàng bạc, màu tê tái
Mây ngàn giăng mắc, áng thê lương
Trông Tết, trông Xuân càng tiếc nuối
Nghìn thu chất ngất nỗi hoài hương.
Và cũng bắt chước Tú Xương mà tôi rất thích vì số phận long đong tuy tài thi phú tuyệt vời, với các bài thơ biếm như sau:
Lẳng lặng mà nghe chúng nó khoe
Hết khoe nhà cửa đến khoe xe
Chồng khoe danh vọng, quan với tước
Cậu khoe bằng cấp, cử với nghè
Bà khoe châu ngọc đeo hào nhoáng
Chị khoe xiêm áo mặc sum xoe
Đất nước lầm than, dân thống khổ
Ai chết mặc ai, chúng cứ lòe.
***
Anh em đừng chê tớ lai căng
Ngày Tết cữ kiêng cứ lằng xằng
Giao thừa xông đất, không người hạp
Mồng một lo cầy, ngại chủ hăm
Lũ trẻ tây u luời mừng tuổi
Bu nó đầm lai sợ chay rằm
Năm mới điệu này e chẳng khá
Thôi thời còn cách... rán xin xăm!
6.2/ Thơ Lục Bát
Thơ lục bát là loại thơ đã thấm nhuần trong tâm hồn người Việt vì đó là thể thơ thường thấy trong ca dao, tục ngữ, truyện Kiều của Nguyễn Du, và cũng mang đậm tính chất bình dân, tình tự.
Ca dao, tục ngữ như:
Thương người như thể thương thân
Ở sao có nghĩa có nhân mới là
hoặc
Đố ai biết lúa mấy cây,
Biết sông mấy khúc, biết mây mấy từng
Đố ai quét sạch lá rừng,
Để ta khuyên gió, gió đừng rung cây
Rung cây, rung cội, rung cành,
Rung sao cho chuyển lòng anh với nàng...
(Khuyết danh)
Thơ Kiều của Nguyễn Du, chẳng hạn bài thơ "Gia Đình Họ Vương":
Đầu lòng hai ả tố nga,
Thúy Kiều là chị em là Thúy Vân
Mai cốt cách tuyết tinh thần,
Mỗi người một vẻ mười phân vẹn mười...
Và một vài câu thơ tôi sáng tác như:
Em đi thu tím gót buồn
Tôi về nghe tiếng mưa tuôn trong lòng
Em đi thổn thức dòng sông
Tôi về canh vắng đèn chong nhớ người...
***
Dáng em gót ngọc thiên kim
Thướt tha tà áo trinh nguyên tuyệt vời
Nghiêng nghiêng bóng ngã đường mơ
Để anh thơ thẩn, ngẩn ngơ sớm chiều...
Và từ loại thơ lục bát lại đẻ ra thêm một số loại phụ như 2 câu 6 chữ đi với 2 câu 7 chữ, như:
Đầu năm tớ cũng như ai
Chúc mừng cô bác trong ngoài gần xa
Trước chúc thọ cụ già trăm tuổi
Thú điền viên rong ruổi tiêu dao
Sâm nhung tẩm bổ dồi dào
Cháu con hầu thiếp thay nhau nâng chiều...
hoặc 2 câu 6 chữ đi với 2 câu 8 chữ, như:
Ta rong ruổi nơi xứ người đơn bóng
Nghe hư không vang vọng tiếng tơ sầu
Tâm tình biết gởi về đâu
Niềm thương nỗi nhớ dạt dào quê hương...
6.3/ Thơ 4 câu 7 chữ
Lọai thơ này cũng rất thịnh hành và theo tôi là loại thơ nghe rất "êm tai", đi vào lòng người, chẳng hạn bài thơ "Hai sắc hoa tigôn" của T.K.T.T đã đề cập ở trên và vài câu thơ sau đây:
Đôi tám yêu đương em biết gì
Thơ ngây còn quyện bước chân đi
Riêng ta sầu đã dâng đầy ngõ
Lòng nghe tràn lấp mối tình si.
***
Một nửa vầng trăng rủ chơi vơi
Còn nửa vầng trăng đã vỡ rồi
Gánh trăng đổ xuống gieo sầu nhớ
Ngậm ngùi sóng nước ánh trăng rơi
Một thể loại khác của thơ 4 câu 7 chữ, như:
Ai còn mơ tưởng mùa xuân mới
Riêng tôi đợi mãi tóc pha màu
Xuân qua đất khách buồn vời vợi
Cứ mỗi mùa xuân một nỗi sầu!
6.4/ Thơ 8 chữ
Loại thơ này gần như thơ tự do và có thể diễn tả ý nghĩ một cách sâu sắc và đầy đủ hơn, như trong các bài thơ sau đây:
Quê tôi đó, bốn nghìn năm văn hiến
Bao cuộc bể dâu, chinh chiến buồn vui
Khiến mẹ già dòng lệ mãi sụt sùi
Khóc vận nước, ngậm ngùi cho số kiếp...
***
Thời gian hỡi có nghe xin dừng bước
Đưa ta về tìm mộng ước xa xưa
Dù quê hương nắng sớm lẫn chiều mưa
Ta vẫn thấy nặng tình dưa với muối...
Đến đây lại phải nói sự thay đổi hoàn toàn trong con người của tôi, từ một tay chữ nghĩa tiếng Việt "ba xí ba tú" đến biết làm thơ, khiến các bạn tôi khi xưa lại một phen giựt mình, không thể ngờ. Và cũng để nói lên mối duyên tao ngộ của tôi và thơ văn khó có thể giải thích như đã đề cập lúc đầu. Thơ văn giờ đây là lẽ sống của tôi vì qua đó mà tôi không ngớt tìm thấy những cái hay cái đẹp của nền văn chương ngàn đời của nước Việt.
Để kết luận về cuộc đời thăng trầm, "sóng gió" của tôi thì tất cả đều do số phận định mệnh an bài và không có gì là trường cửu trong cuộc đời này:
Ngẫm kiếp nhân sinh thế sự đời
Định mệnh an bài phải chịu thôi
Giàu sang quyền quý rồi tay trắng
Trí thức tài cao cũng lỡ thời
Tranh chấp hơn thua hao tổn sức
Đua đòi so sánh mất công toi
Sự nghiệp công danh như gió thoảng
Chẳng qua chỉ là giấc mơ thôi.
Nguyễn Duy Phước
Chú thích: Tất cả những câu thơ trong bài này là do tôi sáng tác ngoại trừ những câu có để tên các tác giả khác.
No comments:
Post a Comment