Trời chưa tắt nắng, những tia sáng màu vàng ối còn chiếu
dọi qua hàng cây cao trên con đường mùa Hè làm thành một
vũng ánh sáng chói lòa đan xen vào nhau, soi rõ từng đám bụi mù chen lẫn với
khói xe lãng đãng trên con đường chật cứng xe cộ đang di chuyển vào một chiều
thứ Bảy ở thành phố Westminster.
Tôi đi đến Nhà hàng The Villa nằm trên đường Beach để dự đám cưới của một đứa
cháu gái kêu vợ chồng tôi bằng Dì Dượng. Đây là một nhà hàng rất quen thuộc với
người Việt Nam lúc gần đây, nơi nầy thường được người địa
phương đến đặt tiệc cưới vì giá cả tương đối trung bình với thức ăn Việt hoàn
toàn và đặc biệt hơn nữa là nhà hàng tọa lạc trong một khu vườn cây cao bóng
mát, bãi đậu xe rộng rãi, nhất là nhà hàng thiết kế nhiều chỗ chụp hình được
trang hoàng cây cảnh rất đẹp.
Vì là người
thân trong gia đình họ nhà gái nên chúng tôi đến rất sớm, khi bên trong khu nhà
tiếp tân chỉ có một ít nhân viên đang sửa soạn quầy rượu cùng với các cô phụ
dâu đang sắp xếp bàn ghế trưng bày ảnh của cô dâu, chú rễ cũug như kê bàn đặt
phiếu dành cho khách mời đến lấy dễ dàng và dò biết mình thuộc bàn sổ mấy, tất
cả đều rất ngay ngắn, ngăn nắp sao cho mọi người đều có thể thấy rõ.
Đúng 6:00 PM
quầy rượu bắt đầu hoạt động, nhân viên nhà hàng bưng từng khay đựng thức ăn nhẹ
đi quanh khu nhà tiếp tân để mời mọi người thưởng thức những món ăn được ghim sẵn
để trên khay như chạo tôm, bánh bao nhỏ nhưn mặn, tôm chiên dòn, bánh nướng
.... Mọi người đứng quanh từng nhóm năm, ba người tụm nhau trò chuyện râm ran
chật kín cả khu tiếp tân. Âm thanh ồn ào, mọi người đi đi, lại lại thật là uyên
náo. Ở đầu cửa ra vào một số người đang xếp hàng để đến lượt ra đứng bên cạnh
cô dâu chú rễ chụp hình kỷ niệm lấy liền sau chừng nửa tiếng đồng hồ, hình được
đặt trên bàn ở gần chỗ chụp hình cho chủ nhân hình ai nấy tìm.
Đang còn đang
loay quay trò chuyện với nhiều người quen thân, bất ngờ có một người đàn ông
chen chân bước tới nhìn sững ngay trước mặt khiến tôi hơi ngờ ngợ, nhưng rồi
sau đó hai người chợt bùng lên một tràng cười như bể rạp. Người đàn ông ấy vẫn
gương mặt thật hiền lành, tuy có vài nếp nhăn nhưng không thể nào lầm lẫn vào
đâu được qua cặp mắt u uất, buồn rười rượi dài hơn thế kỷ. Anh Hòa! Tôi ôm chầm
lấy anh mà nước mắt muốn ứa ra. Gần 40 năm trời chưa một lần gặp
mặt. Biết bao nhiêu câu chuyện đời tưởng chừng như đã đi vào quên lãng, nay bất
chợt hiện về, rõ mồn một như một khúc phim quay chậm.
* * *
Hồi ấy tôi mới
lên Kontum nhận nhiệm sở về quận, anh là Tỉnh đoàn trưởng Xây Dựng Nông Thôn
nhiều năm trước đó, anh có gương mặt thật hiền như “thầy tu.” Tôi gặp
anh qua những lần họp hàng tháng ở Tòa hành chánh tỉnh. Trong buổi họp anh ngồi
im, ít nói nhưng khi trình bày công việc ở Ty sở thì anh lại nói năng rất mạch
lạc hấp dẫn. Tôi rất thích kiểu cách nầy nên bắt đầu làm quen thân với anh từ
đó. Cứ một vài hôm, chiều ở quận về sớm là tôi đến rủ anh ra quán bún thịt nướng
uống bia. Lâu dần tôi biết anh là người chăm sóc gia đình, một vợ 4 con, ba gái
một trai rất chu đáo đầy trách nhiệm với tình thương yêu hết mực. Trong
xứ đạo Tân
Hương (Kontum) gia đình anh là một gia đình công giáo thuần thành.
Lúc bấy giờ có
chương trình “ngủ ấp”, các viên chức và cán bộ tối về sinh hoạt ở nông thôn
theo lịch định kỳ cho nên tất cả đều mặc bộ đồ “bà ba” đen, xây dựng nông thôn,
vải ka ki dày cho tiện lợi. Anh tặng cho tôi hai bộ đồ để thay đổi, ngoài ra
anh còn tặng thêm một cái áo jacket hai lớp màu xanh trây dzi “mặc cho ấm” trên
đường đi xuống quận.
Anh em gần gũi
nhau qua những lần đi công tác chung, tiếp nhận các dự án xây dựng đường xá, cầu
cống hay trạm xá, trường học ở các xã, ấp. Có khi ngủ lại ở nơi đây, sáng cùng
lên trực thăng về lại tỉnh. Vui buồn đời công vụ ở tỉnh lẻ, thật thắm tình đồng
đội.
Mãi cho đến
tháng Ba năm 1975, tôi di tản về Sài Gòn an toàn, anh cùng vợ con chạy giặc tới
sông Ba, Phú Bổn bị địch pháo kích dữ dội nên cùng đường, hết lương thực cả gia
đình bèn trở về lại Kontum.
Khi về tới nơi
thì cộng sản đã chiếm được thị xã, anh và vợ con phải trốn ngược lên phía Đakto
ở nhờ nhà người bà con để rồi từ từ sẽ tìm đường vượt thoát vào Nam. Chưa được
bao lâu thì nhận được tin Sài Gòn thất thủ, tướng Dương Văn Minh đầu hàng, chiến
tranh kết thúc, anh đành thúc thủ tại quê nhà.
Ở địa phương
Kontum, một vài viên chức VNCH trở cờ, tham gia hăng hái vào hàng ngũ bộ đội cộng
sản làm kẻ chỉ điểm, ruồng bố vào từng nhà bắt giữ đồng đội cũ của mình. Anh bị
bắt trong đợt truy quét nầy do một viên chức trước đây từng là Chánh văn phòng
Tòa hành chánh tỉnh chỉ điểm.
Anh bị bắt đưa
đi nhốt ở Trung Tâm Cải Huấn cũ của VNCH. Đến khoảng trung tuần tháng Năm năm
1975 thì anh bị đưa ra Sân Vận Động tỉnh xét xử công khai cùng với hơn 20 người
khác được cho là có nợ máu với nhân dân.
Hôm ấy, dân
chúng tụ tập rất đông theo lệnh của cán bộ cộng sản. Chủ trì phiên tòa xét xử
là một cán bộ nằm vùng, tục gọi là chị Ba ngồi trên chiếc ghế sa lon màu đỏ huyết
dụ đặt ở giữa sân, phía sau lưng là 2 cái bàn dài dành cho 3 cán bộ miền Bắc đầu
đội mũ cối, bên hông giắt súng ngắn cùng với 4 nam, nữ dân quân du kích mặc đồ
bà ba đen đội mũ xanh tai bèo.
Mở đầu phiên
xét xử, chủ tọa gọi tên từng người ra đứng đối diện với chủ tọa đoàn khai tên họ
và chức vụ trong bộ máy chính quyền cũ, sau đó chỉ một mình chị Ba đứng lên nêu
tội ác của các đương sự một cách chung chung. Rồi cũng chính chị ấy tuyên án mà
không có tranh cải. Đến phiên anh, sau khi khai rõ họ tên chức vụ, chủ tọa buổi
xét xử đột nhiên rời ghế bước tới tát vào mặt anh liên tiếp và gầm lên, mắng
như mưa:
- Mày là đồ ngụy gian ác mang nợ máu với nhân dân, chống phá cách mạng triệt
để.
Sau đó trở về
chỗ cũ, chị đứng thẳng người lên dõng dạc đề nghị xử tử hình tên tỉnh đoàn trưởng
ngụy.
Đám đông dân
chúng im phăng phắc, không có một ai lên tiếng, rồi cũng giống như các trường hợp
vừa xử trước vì không có ai lên tiếng nên chị Ba giãm án dần xuống còn 20 năm,
15 năm, 10 năm ... và khi đến mức 5 năm thì cán bộ ra hiệu cho mọi người giơ
tay lên đồng ý. Lúc bấy giờ chị Ba mới ra lệnh cho tội nhân phải quỳ xuống chấp
nhận bản án và cúi đầu nói lời xin lỗi nhân dân. Tiếp theo sau đó, hai cán binh
đến kè xốc nách dẫn tội nhân đi nhanh để phiên tòa còn tiếp tục xử người
khác...
Kể từ sau ngày
đó, anh bị chuyển đi khắp các trại cải tạo từ Nam ra Bắc, thời gian kéo dài hơn
6 năm rồi mà vẫn chưa được thả, mặc dù đã có án 5 năm cải tạo như phiên tòa xét
xử năm 1975. Cho đến khi được chuyển về trại Gia Trung ở Plei ku anh mới có hy
vọng là sẽ được thả trong một thời gian ngắn chừng một, hai năm nữa, theo như lời
kể của các bạn tù ở đây, nhiều năm kinh nghiệm. Trong tù anh thuộc diện “mồ
côi” không có thăm nuôi, họa hoằn lắm đôi ba lần anh mới được người nhà gởi
theo thân nhân đi thăm tù cải tạo một gói quà chừng 5 kí lô, gồm một ít đường
tán và muối đậu.
Khi về tới Gia
Trung, tình hình cải tạo bớt căng thẳng, không còn hà khắc như ở miền Bắc, tù cải tạo được sinh hoạt thoải mái trong trại, nấu
ăn và tụ tập từng tụm 5,7 người trong những ngày nghỉ lao động. Lúc bấy giờ các
Cha, Thầy cũng được xả ra nhốt chung với ngụy quân, ngụy quyền. Đặc biệt là các
Cha còn bí mật làm lễ trong trại cải tạo, hình thức cũng đơn giản và kín đáo,
cũng có đọc kinh ban phép lành và cho rước bánh Thánh (Mình Thánh Chúa) được
lén lút đưa từ bên ngoài vào trại.
Không biết cán
bộ biết tin từ đâu, có thể là do “ăng ten” mật báo không chừng mà có một hôm
toàn trại được lệnh tập trung mang hết đồ đạc cá nhân ra sân thật khẩn trương,
ban đầu mọi người tưởng là chuẩn bị chuyển trại vì đã quen rồi với việc tập họp
đột biến như vậy, nhưng hôm nay khác, sau khi tập họp xong cán bộ quản giáo cho
biết trong trại có một số trại viên phản động đã cử hành bí mật lễ nghi tôn
giáo là điều cấm kỵ, vi phạm nội quy của trại và ra lệnh ai đã tham gia thì phải
khai ra để được khoan hồng còn bằng không thì sẽ bị thi hành kỷ luật tùy theo mức
độ nặng nhẹ.
Mọi người im lặng
không có một ai lên tiếng tự giác hay tự thú về sự vi phạm vừa nêu nên cán bộ
ra lệnh bắt đầu lục soát tất cả tư trang của tù nhân. Lúc bấy giờ anh em đều
kín đáo liếc nhìn về phía anh Hòa để xem anh phản ứng như thế nào. Tuyệt nhiên
không thấy có dấu hiệu gì lo sợ từ phía anh.
Thình lình loa
trại phát thanh “Trâu xảy chuồng! Trâu xảy chuồng!” và cán bộ trại yêu cầu
anh Hòa là người tù tự giác chăn đàn trâu hơn 40 con phải xuất trại gấp để lùa
trâu vô chuồng, vì không nói ra nhưng mọi người đều thừa biết rằng hơn 40 con
trâu mà lạc vào khu rẫy đang trồng hoa màu thì thiệt hại chắc chắn là không nhỏ.
Một số anh em
tù nhân trong trại thở phào nhẹ nhỏm vì chính anh Hòa là người cất giữ bánh
Thánh. Nếu không có bàn tay của Chúa phù trợ thì sự thể xảy ra không biết sẽ tồi
tệ đến mức nào khi mà cán bộ phát hiện ra chứng cứ. Hơn nữa bản chất con người của anh là rất tận tâm trong công việc được giao
phó, làm đến nơi đến chốn “từ khởi sự cho đến lúc hoàn thành”, biết kính
trên nhường dưới nên rất được mọi người kính mến từ xưa đến nay dù ở bất cứ nơi
đâu trong mọi hoàn cảnh
Thật ra anh
Hòa là một người công giáo thuần thành được nhiều người tin cẩn thì sẽ không dễ
gì anh tự mình tiêu hủy Mình Thánh Chúa. Chưa biết ra sao, nhưng rồi trong khoảnh
khắc linh thiêng ấy anh đã cầu nguyện và xin phó thác. Chúa đã nhậm lời cho anh
thời cơ có một không hai để giữ gìn được bánh Thánh và sau đó anh cầu nguyện
xin được giấu Mình Thánh Chúa trên trần nhà chuồng trâu.
Tất cả mọi việc
đều êm xuôi và anh em sau đó vẫn tiếp tục kín đáo cử hành thánh lễ ngay trong
trại cải tạo, duy chỉ có một điều là từ nay anh Hòa sẽ cất giấu Chúa ở ngoài
chuồng trâu.
Câu chuyện “Võ
Hòa giấu Chúa” được loan truyền rộng rải trong mọi người như là một phép mầu
khiến cho nhiều người tin vào quyền năng Thiên chúa nhiều hơn và có không ít
người đã xin rửa tội theo đạo công giáo ngay trong trại cải tạo Gia Trung kể từ
sau đó.
Sau gần 7 năm
cải tạo, anh được thả ra cho về nguyên quán tỉnh Kontum, ngày anh ra tù, nguyên
Chánh văn phòng Tòa hành chánh tỉnh theo cách mạng ngày 30 vẫn còn ở lại trong
tù, vẫn tiếp tục được ưu đãi “đoái công chuộc tội” là hàng ngày xách
tông đơ đi hớt tóc cho tù nhân, khỏi phải đi lao động ngoài ruộng rẫy. Có lẽ đến
giờ nầy ông ấy mới thấm thía câu nói của Tổng Thống Thiệu “Đừng nghe những
gì cộng sản nói mà hãy nhìn kỹ những gì cộng sản làm.”
Đã trải qua
muôn vàn khó khăn, ngày về của anh Hòa còn thãm thương hơn nhều, nhà cửa ở thị
xã bị cộng sản tịch thu, cả gia đình bị bắt đi vùng kinh tế mới tận trên Ngô
Trang (Đakto). Khi anh đi mấy đứa con còn nhỏ dại chưa quen đời sống kham khổ
nay đối diện với cuộc sống khó khăn, thiếu thốn vật chất đã đành giờ còn thêm
chấn thương về tinh thần. Cha đi tù, mẹ bỏ đi biệt xứ từ rất sớm, bốn anh chị
em thì đứa con gái thứ hai mất vì bệnh tật, đứa con trai kế đi chăn bò bị điện
giật chết, chỉ còn 2 đứa sống nhờ vào người bà con bên Nội ở khu kinh tế mới xã
Ngô Trang. Không còn gì để nói thêm nữa, tình cảnh thật vô cùng bi đát.
Nhưng trong mọi
hoàn cảnh anh đều tin có Chúa quan phòng nên rất vững tâm, phấn đấu xây dựng lại
cuộc sống. Trong những năm còn ở trong trại cải tạo, thỉnh thoảng anh có nhận
được những gói quà 5kg, giờ mới biết đó là do một phụ nữ láng giềng ở khu kinh
tế mới giúp đỡ gởi cho. Đồng thời chị cùng hết lòng trợ giúp 2 đứa con của anh,
kể từ khi vợ anh bỏ đi biệt không về. Người đàn bà tốt bụng nầy biết anh Hòa
trước đây, thời chế độ cũ. Nay thấy hoàn cảnh khó khăn của gia đình nên chị tự
nguyện đứng ra giúp đỡ vậy thôi. Riêng anh Hòa, không thể không nói lời mang ơn
nặng đối với người đàn bà có lòng từ tâm nầy khi anh trở về. Chỉ có một cách để
đền ơn là ngỏ lời cầu hôn với chị.
Ba tháng sau,
đám cưới của hai người đã diễn ra ở khu kinh tế mới Ngô Trang dưới sự chủ tế của
Cha sở tại cùng với đông đảo bà con, chòm xóm xung quanh. Kể từ sau đó vợ chồng
anh bắt đầu xây dựng lại một mái ấm gia đình thật hạnh phúc, sinh sống bằng nghề
nông, trồng lúa, làm rẫy ở nông trường Ngô Trang.
Đến năm 1989
anh nộp đơn xin đi Mỹ định cư theo diện HO, hồ sơ gia đình gồm hai vợ chồng bốn
đứa con, hai đứa đời vợ trước, hai đứa đời vợ sau, lại thêm một cháu trai, con
của đứa con gái lớn. Thật cũng hơi rắc rối.
Trong khoảng
thời gian anh còn ở trại cải tạo, hai đứa con anh sống côi cút ở khu kinh tế mới
Ngô Trang, có một anh bộ đội còn trẻ đóng quân ở Đakto thấy hoàn cảnh đáng
thương của hai chị em, ngày ngày ra đồng làm thuê, làm mướn sống qua ngày, cô
chị tuy đen đúa nhưng không giấu được nét trâm anh và duyên dáng của người thiếu
nữ mới lớn nên anh bộ đội ban đầu động lòng trắc ẩn chỉ muốn giúp đỡ thôi,
nhưng dần dần theo thời gian thấy vừa hợp nhãn lại vừa lòng nên hai người đã
yêu nhau và có với nhau được một đứa con trai. Sau đó anh bộ đội ra quân về
sinh sống luôn ở Ngô Trang với gia đình hai chị em trước khi anh Hòa về.
Đến khi có
chương trình đi Mỹ theo diện HO, anh Hòa quyết định là hai mẹ con cô con gái lớn
được liệt kê trong danh sách gia đình đi định cư với sự đồng ý ở lại của anh
con rễ. Khi lên phỏng vấn anh trả lời thật về hoàn cảnh gia đình riêng của mình
và được phái đoàn phỏng vấn chấp thuận. Năm 1992 cả gia đình lên máy bay đi Mỹ
còn anh bộ đội năm xưa đành trở về quê cũ, một làng quê xa xôi ở tận ngoài miền
Bắc. Trời Ngô Trang hôm ấy mưa bão sụt sùi ....
* * *
Sau khi tàn tiệc
cưới, gia đình tôi mời hết gia đình anh 6 người gồm cả con cháu hẹn nhau về
Long Beach chơi một bữa ba-bi-cue sườn bò Đại Hàn trước khi anh trở về thành phố Baton Rouge, Louisiana. Bữa ấy
vui lắm, rượu vào lời ra biết bao nhiêu câu chuyện đời của nhau được kể ra,
nhưng cảm động nhất là câu chuyện đứa con gái lớn của anh, sau khi đến Mỹ được
hai năm, có nhiều mai mối đàng hoàng đứng đắn, con nhà tử tế ở đây muốn kết
tình sui gia với anh nhưng anh để tùy con quyết định.
Một buổi tối,
sau khi cơm nước xong xuôi, cô con gái lớn quyết định dứt khoát xin phép Ba Má
cho về quê anh bộ đội năm xưa để làm đám cưới, mặc dù lúc bấy giờ liên lạc về
Việt Nam, nhất là ngoài miền Bắc còn rất hạn chế. Anh đồng ý... Và hôm nay
trong bữa tiệc tại nhà tôi có sự hiện diện của anh con rể ấy, rất hiền lành, ăn
nói thật lễ phép. Tôi nói đùa:
- Thế thì em
Trang làm sao quên được.
Nói chung gia
đình anh rất an vui hạnh phúc. À mà quên nữa, em Trang sau nầy còn bảo lãnh cho
mẹ ruột của mình sang Mỹ sum họp, ở với gia đình em. Thế mới biết con lúc nào
cũng thương Mẹ nên không bao giờ lên án mẹ. Tôi hỏi, còn riêng anh thì sao, có
gì lấn cấn không. Anh nói:
- Bây giờ mọi
chuyện xem như nước chảy qua cầu, tất cả mọi sự trên đời đều do Chúa xếp đặt.
Mình có biết đâu mà lấn cấn, còn chuyện vợ chồng còn duyên phận thì ở với nhau,
hết duyên thì xa nhau. Chỉ có vậy thôi.
Hiện nay tất cả
các con anh đều có gia đình nhà cửa riêng và công ăn việc làm tốt, ổn định. Hai
đứa con với người vợ sau, một đứa trai là Bác sĩ Y Khoa, một đứa gái là Tiến sỹ
Vật Lý cùng làm việc ở Louisiana, Hoa Kỳ.
Anh nói thêm,
sau nầy khi gia đình có đám tiệc mọi người đều cùng họp mặt chung với nhau rất
vui vẻ. Tôi hơi liếc khéo nhìn về phía anh vì tôi biết người vợ trước của anh
... cũng một thời sắc nước hương trời. Biết ý nhau anh nói nho nhỏ cho tôi vừa
đủ nghe:
- Già rồi tình
nghĩa là chính, sự đời đã tắt lửa lòng lâu rồi bạn ơi!
Nghe xong tôi
chợt nhận ra năm nay anh cũng đã U90 rồi, quỹ thời gian chắc không còn nhiều. Bất
giác tôi nhìn lên cổ áo, anh đang đeo một sợi dây chuyền vàng mặt cây thánh giá
to quá khổ. Tôi biết anh thường có trang sức dây chuyền mặt cây thánh giá lâu lắm
rồi kể từ thời trước nhưng sợi dây chuyền ngày xưa nhuyển hơn nhiều chứ không
to bản như bây giờ. Thấy lạ tôi hỏi như đùa
- Chắc bây giờ
ở Mỹ anh được ơn Chúa nhiều hơn chăng?
- Đúng vậy,
sinh hoạt chính hiện nay của tôi là tham dự các công tác thiện nguyện ở nhà thờ
giáo xứ nơi tôi cư ngụ.
- Anh có về Việt
Nam không?
- Có. Cách đây vài
năm tôi có về Việt Nam lo mồ mã cho cha mẹ, ông bà ở Bình Định.
Anh kể cũng là
một chuyện lạ. Anh rời Qui Nhơn (Bình Định) lúc còn nhỏ nên chỉ nhớ lờ mờ khu
nghĩa trang địa phương, sau nầy chính quyền giải tỏa biến thành khu đất canh
tác, phân lô cho dân chúng trồng trọt. Khi đến nơi quê xưa chốn cũ anh còn nhận
ra được khu mộ, một dãy 5 ngôi mộ gần liền nhau của cha mẹ ông bà, trong khi
chung quanh mọi người đã san bằng tất cả. Anh hỏi người chủ miếng đất có 5 ngôi
mộ sao vẫn còn y nguyên, chị kể
Khi được chia
đất về đây đã có sẵn 5 ngôi mộ nầy, thay vì để thành mã lạn, tôi giữ lại bằng
cách bồi đắp mỗi năm vì tin rằng sống trên đời có âm có dương có người sống
cũng có người khuất nên lòng thành tôn kính, biết đâu sẽ được người khuất phò hộ.
Nghe qua rất cảm
động, anh đề nghị mua riêng khu đất có 5 ngôi mộ này, chị trả lời là không cần
thiết, nhưng anh cũng xin một tờ giấy viết tay ghi rõ chu vi khu đất nhỏ
nấy dành riêng cho gia đình anh, người em của anh ở Sài Gòn sẽ giữ tờ giấy nầy.
Anh tặng cho chị chủ nhân miếng đất 5 ngàn đô la và xin được xây sửa lại
căn nhà của chị cho khang trang hơn, đồng thời hằng năm anh sẽ gởi về cho chị
chút đỉnh tiền coi như tiền trông nôm mã mồ cho gia đình anh.
Thế mới biết sống
hiền lành tử tế, biết giữ gìn nhân cách không có ác tâm, biết thờ kính người đã
khuất dù thân hay sơ, rồi ra sẽ được ơn trên phù trợ, giúp tai qua nạn khỏi,
chưa kể là sẽ được phúc lộc trời ban.
Chuyện đời của
anh đến đây xem như đã nhẹ, giờ đây anh chỉ còn sống theo câu châm ngôn thuộc nằm
lòng “kính Chúa yêu người” kể cả người cộng sản.
Trời càng lúc
càng khuya, tôi tiễn gia đình anh ra về mà lòng bâng khuâng khó tả, biết còn có
ngày gặp lại nữa không. Đời là vô thường mà.
Trần Bạch Thu
Long Beach 27/6/2025
No comments:
Post a Comment