
(bài này viết theo tinh thần những phát biểu của Lm Antôn Lê Ngọc Thanh trong 
video clip: https://www.youtube.com/watch?v=AlvcRZayaSI)
Ma quỉ, trong một số tôn giáo, được coi là những tên cám dỗ, chuyên tìm cách 
thúc đẩy,  quyến dụ con người làm điều xấu. Nổi tiếng về việc này, đó là chuyện 
Chúa Giêsu bị cám dỗ. Sau khi ăn chay 40 đêm ngày, Ngài  cảm thấy đói. Ma quỉ 
bèn đến cám dỗ Ngài, nó xui giục Ngài dùng quyền phép biến đá thành bánh mà ăn, 
rồi cám dỗ Ngài biểu diễn “thần thông” để chứng tỏ Ngài là Con Thiên Chúa, đồng 
thời thử thách Ngài về lòng ham muốn quyền lực, nhưng nó hoàn toàn thất bại (xem 
Luca 4:1-13).
Nhiều tín hữu tôn giáo xác tín rằng ma quỷ là một thế lực vô hình thường xui 
khiến con người làm điều xấu ác. Người viết bài này cũng tin như thế. Tuy nhiên, 
nếu mọi tội ác của con người đều quy trách nhiệm hết cho ma quỉ, làm như không 
có ma quỷ thì con người không hề phạm tội, thì quả thực là quá sai lầm và có 
hại. Nếu thế, người phạm tội sẽ được coi là vô tội vì trách nhiệm chủ yếu là do 
ma quỷ gánh chịu hết. Con người chẳng cần phải tự xét mình để sửa lỗi. Do đó, 
tình trạng phạm tội sẽ chẳng bao giờ được cải thiện. Vì chỉ khi nào con người tự 
nhìn nhận lỗi về phía mình thì họ mới cố gắng sửa chữa và sự việc mới trở nên 
tốt đẹp. Chính “Kinh Cáo Mình” trong Kitô giáo cũng giúp các tín hữu tự nhận lỗi 
về mình qua câu: “Lỗi tại tôi, lỗi tại tôi, lỗi tại tôi mọi đàng”. Điều 
này rất phù hợp với câu “Tiên trách kỷ, hậu trách nhân” (Hãy trách mình 
trước đã, rồi mới trách người sau).
Thật ra, có biết bao người trong rất nhiều trường hợp bị cám dỗ mà đâu có 
phạm tội. Nếu ai cũng bị cám dỗ, nhưng có người phạm tội, có người không, thì rõ 
ràng chuyện sa chước cám dỗ không chỉ tùy thuộc vào ma quỷ, mà còn tùy thuộc vào 
con người. Nếu con người không có những khuynh hướng xấu trong bản thân, như 
tham lam, đố kỵ, ghen tương, ham danh, ham lợi, ích kỷ, v.v… thì ma quỷ có cám 
dỗ thường xuyên và mạnh đến đâu, con người cũng khó mà sa ngã.
Cũng vậy, tình trạng chia rẽ trong các cộng đồng người Việt hải ngoại, nhiều 
người cho rằng chủ yếu là do kế ly gián của cộng sản, do nghị quyết 36, do bọn 
nằm vùng được cài cắm trong hàng ngũ đấu tranh dân chủ… Quan niệm như thế thì 
hóa ra ngoại trừ bọn cộng sản được cài cắm, chẳng ai trong cộng đồng phải chịu 
trách nhiệm về tình trạng chia rẽ nội bộ của cộng đồng, vì thế chẳng cần ai phải 
quan tâm sửa lỗi cả. Quan niệm như thế ắt nhiên sẽ đi đến chủ trương: muốn chấm 
dứt chia rẽ trong cộng đồng để cộng đồng mạnh lên thì phải diệt trừ những tên 
cộng sản nằm vùng trong cộng đồng, chứ không ai phải xét lại xem bản thân mình 
có gây nên chia rẽ không. Và như thế thì hẳn nhiên ngoài những tên cộng sản  
đích thực, sẽ có nhiều người bị nghi ngờ và bị tố cáo oan ức là cộng sản.
Thật vậy, kinh nghiệm cho ta thấy, trong cộng đồng, ngoài số ít bọn nằm vùng 
tìm cách đánh phá cộng đồng (chắc chắn là có), không thiếu gì những người hàm hồ 
sẵn sàng chụp mũ cộng sản cho người khác mà không cần đủ bằng chứng, nhất là khi 
họ bị cảm tính (tức tham, sân, si cùng hỷ, nộ, ái, ố, dục) chi phối. Họ giống 
như người mới thấy một đôi nam nữ rủ nhau uống càphê hay khiêu vũ với nhau đã 
vội kết luận như đinh đóng cột rằng đôi nam nữ ấy có tình ý với nhau. Nói theo 
kiểu toán học thì mới thấy hai tam giác có một hay hai cạnh bằng nhau đã kết 
luận chúng bằng nhau rồi. Và trong cộng đồng cũng không thiếu gì những người dễ 
tin, sẵn sàng tin những gì mình đọc thấy trên báo, trên net, nhất là khi chúng 
hợp với quan niệm hay thành kiến của mình mà không cần lý luận xem điều đó có 
lý, có đáng tin không. Do đó, có rất nhiều người bị nghi ngờ hay kết án là cộng 
sản một cách oan ức, cụ thể như trường hợp của Nhà thơ Nguyễn Chí Thiện. Có 
những trường hợp hai người hay hai nhóm nghi ngờ hay tố cáo lẫn nhau là cộng 
sản, mặc dù cả hai bên đều là những người chống cộng quyết liệt. Rất nhiều 
trường hợp chỉ cần một chút suy nghĩ, một chút lý luận là thấy ngay những điều 
xác quyết ấy không có chút cơ sở nào.
Hậu quả là mọi người trong cộng đồng trở nên hoang mang, không thể tin tưởng 
nhau, không dám liên kết với nhau để trở thành sức mạnh, chỉ vì sợ mắc bẫy cộng 
sản. Thậm chí còn thù oán và đánh phá lẫn nhau khiến cộng đồng trở nên suy yếu 
hoặc tan nát.
Như vậy, thái độ đổ lỗi hết cho cộng sản về mọi tình trạng chia rẽ trong cộng 
đồng chỉ làm cho cộng đồng ngày càng chia rẽ, cho dù cộng sản chưa cần tác động 
gì cả hoặc mới chỉ ra tay chút ít.
Chúng ta thử nhìn vào trong nước, nơi mà cộng sản có đầy đủ mọi điều kiện 
thuận lợi, nào là nhân lực, quyền lực, tài lực, v.v… để thực hiện kế ly gián đối 
với các nhà đấu tranh dân chủ. Nhân lực của chúng đông gấp rất nhiều lần số 
người tham gia đấu tranh. Hơn nữa, tại Việt Nam, người dân nói chung tương đối 
nghèo với mức sinh hoạt khá thấp, nên với số tiền tham nhũng và cướp đoạt được 
của dân chúng, cộng sản quá dư tiền bạc để có thể mua chuộc người dân vốn nghèo 
và cần tiền làm tay sai cho chúng, kể cả những người trong hàng ngũ đấu tranh 
dân chủ. Với những điều kiện khách quan rất thuận lợi để thực hiện kế ly gián 
đối với lực lượng dân chủ trong nước, thế mà chúng không thành công.
Thật vậy, trong khi tại hải ngoại, có vô số trường hợp người này công kích 
hay chụp mũ người khác là cộng sản, thì ở trong nước, chúng ta chỉ có thể kể ra 
được một vài trường hợp các nhà đấu tranh dân chủ nghi ngờ và công kích lẫn nhau 
mà thôi. Nói chung, các nhà đấu tranh dân chủ trong nước vẫn đoàn kết, tin tưởng 
lẫn nhau nên đã kết hợp với nhau thành nhiều tổ chức dân sự có độ bền chặt, bất 
chấp cộng sản chủ trương tiêu diệt bằng mọi cách. Nếu có tổ chức nào bị tan rã 
thì hoàn toàn không phải do khả năng ly gián của cộng sản, mà do cộng sản chủ 
trương “đánh rắn phải đánh vào đầu” nên bắt bớ, bỏ tù những người lãnh 
đạo và những người hoạt động tích cực trong những tổ chức ấy.
Còn tại hải ngoại, chắc chắn số cán bộ cộng sản nằm vùng ít hơn cán bộ cộng 
sản trong nước hàng ngàn lần. Thế nhưng dư luận trên các diễn đàn của người Việt 
ở hải ngoại khiến người ta dễ hiểu rằng cộng sản nằm vùng đầy dẫy ở hải ngoại, 
và nghị quyết 36 của chúng đang tác động hữu hiệu và thành công. Thật ra tỷ lệ 
giữa cán bộ cộng sản và số người đấu tranh chống cộng hoàn toàn ngược lại với tỷ 
lệ ấy ở trong nước. Nếu có tên cộng sản nằm vùng nào bị vạch mặt chỉ tên, lập 
tức hắn bị cô lập ngay, thậm chí cả những người bị chụp mũ oan là cộng sản cũng 
bị cô lập. Chắc chắn số cộng sản nằm vùng tại hải ngoại rất ít, không thể nhiều 
được, vì nếu nhiều thì cộng sản lấy tiền đâu mà trả lương cho bọn chúng khi mà 
mức sinh hoạt tại hải ngoại rất cao, đòi hỏi phải trả lương cao gấp bội so với 
mức lương trong nước. Vả lại, nếu là cán bộ cộng sản, chắc chắn chúng không bao 
giờ chấp nhận sống thanh bạch để hy sinh cho lý tưởng cộng sản vốn không còn mấy 
ai bị ảo tưởng là cao đẹp. Lý tưởng ấy hoàn toàn không còn khả năng thúc đẩy 
chúng hy sinh như thời trước 1975 nữa. Chắc chắn là như thế!
Người viết bài này không thể tin rằng CSVN lại có đủ tài năng để đào tạo hay 
mua chuộc được quá nhiều người làm việc cho chúng tại hải ngoại. Lại càng không 
có khả năng quyến rũ hay chiêu hồi được những người chống cộng tại hải ngoại về 
với chúng, làm tay sai cho chúng. Trái lại, tôi còn nghĩ rằng những người đã 
từng làm việc cho chúng ngày càng ít đi khi họ được sống trong một thể chế dân 
chủ với đầy đủ thông tin để thấy rằng chế độ cộng sản là một chế độ vô cùng tàn 
bạo, phản dân hại nước, hèn với giặc ác với dân, nhất là khi cộng đồng Người 
Việt hải ngoại luôn luôn vạch rõ tội ác của chúng. Cộng sản chỉ có thể giữ lại 
được những người đang bị chúng nắm tẩy hoặc “cấy sinh tử phù”, hoặc một 
số rất ít người đang hưởng ơn mưa móc của chúng.
Những tên này được đào tạo có bài bản để lường gạt chúng ta, bằng cách dùng 
kế “củi đậu nấu đậu”, “nồi da sáo thịt”, “gậy  ông đập lưng 
ông”, mượn tay chúng ta đánh phá chúng ta, dùng chính chúng ta chụp mũ chúng 
ta. Tuy rất ngu xuẩn trong điều thiện, nhưng chúng vô cùng khôn lanh trong việc 
lợi dụng tính “tham, sân, si” (tham lam, giận dữ, ngu xuẩn), và “hỷ, 
nộ, ái, ố, ai, cụ, dục” (mừng, giận, thương, ghét, buồn, sợ, tham vọng) vốn 
có trong bản tính con người để biến những người thường chống cộng theo cảm tính 
thành công cụ cho kế ly gián của chúng. Trở thành công cụ ly gián của chúng mà 
không biết, những người này vẫn cứ tưởng mình là những người chống cộng hết sức 
quyết liệt.
Những cộng đồng người Việt tại hải ngoại bị chia rẽ có thể phần nào vì đã quá 
“thần thánh hóa” bọn cộng sản nằm vùng, bị nghị quyết 36 hù dọa, trong khi chúng 
thật sự không có “thần thông biến hóa” hay “ba đầu sáu tay” như chúng ta nghĩ 
lầm. Từ đó, chúng ta tưởng tượng rằng số người thân cộng hay hoạt động cho cộng 
sản đầy dẫy ở hải ngoại, khiến chúng ta nghi ngờ lẫn nhau và dễ kết án lẫn nhau. 
Có thể chính cộng sản cố tình tạo ra sự lầm tưởng này nơi chúng ta khi chúng có 
quá ít người tại hải ngoại. Trong những trận tuyến trước đây, khi ra trận với số 
quân quá ít, chúng thường dùng kế nghi binh để làm cho đối phương tưởng chúng 
rất đông bằng cách bắn ở chỗ này một vài phát, rồi chạy sang nhiều chỗ khác mỗi 
chỗ bắn vài phát.
Chúng ta cần tỉnh táo nhận định, đừng để mắc bẫy chúng. Khi có ai vốn nằm 
trong hàng ngũ chúng ta bị một ai đó kết án là cộng sản, hay là đảng viên một 
đảng nào đó không được quần chúng tin tưởng, chúng ta cần bình tĩnh suy xét. 
Đừng quá dễ tin.
Hãy suy nghĩ rằng chế độ cộng sản trên thế giới đang trên đường suy vong 
trước làn sóng dân chủ hóa toàn cầu. Chế độ cộng sản trong nước đang run sợ 
trước sự căm phẫn ngày càng gia tăng của dân chúng. Viễn cảnh bị lật đổ bởi 
những cuộc cách mạng như ở Đông Âu, hoặc như ở Tunisia, Ai Cập, Lybia… đang làm 
chúng bấn loạn. Người Việt có đầu óc tại hải ngoại, nhất là những người có địa 
vị tương đối vững chắc và cuộc sống tương đối bảo đảm không ngu gì lại đi “phù 
suy” chứ không “phù thịnh”. Điều đó lại càng đúng đối với những người đã từng có 
thành tích chống cộng vững mạnh trong quá khứ.
Theo Linh mục Lê Ngọc Thanh phát biểu trong một video clip nọ thì nguyên nhân 
của sự chia rẽ trong các cộng đồng người Việt hải ngoại do kế ly gián của cộng 
sản thì rất ít, mà chủ yếu là do tâm lý đố kỵ của người Việt: “Trâu cột ghét 
trâu ăn”, “con gà tức nhau tiếng gáy”, “hai ca sĩ có bao giờ ưa 
nhau?” Tương tự như trường hợp Chúa Giêsu bị các tư tế và người Pharisêu nộp 
Ngài cho quan tổng trấn Philatô để nhờ tay ông giết Ngài,  nhưng “ông thừa 
biết chỉ vì ghen tị mà họ nộp Ngài” (Matthêu 27,18).
Nhiều người cho rằng tính phe phái của người Việt rất nặng, nó chính là 
nguyên nhân gây chia rẽ nội bộ. Một số người khác cho rằng việc đặt quá nặng 
“cái tôi” cá nhân hay “cái tôi” tập thể, coi quyền lợi cá nhân hay tập thể mình 
lớn hơn quyền lợi tổ quốc góp phần rất lớn vào tình trạng chia rẽ trong các cộng 
đồng. Có người cho rằng thủ phạm của tình trạng chia rẽ chính là tính độc tài 
độc đoán, luôn luôn cho mình là duy nhất đúng nên muốn ép buộc tất cả mọi người 
phải quan niệm như mình, chủ trương và hành động như mình, ai khác với mình là 
sai, là phá hoại, là cộng sản.
Thiết tưởng nếu chúng ta thật sự yêu nước, yêu dân chủ, thì chúng ta phải thể 
hiện tinh thần yêu nước, yêu dân chủ ấy bằng những hành động cụ thể.
Trong Kinh thánh có câu:  “Nếu ai nói: “Tôi yêu mến Thiên Chúa” mà lại 
ghét anh em mình, người ấy là kẻ nói dối; vì ai không yêu thương người anh em mà 
họ trông thấy, thì không thể yêu mến Thiên Chúa mà họ không trông thấy” (xem 
1Gioan 4,20).
Tương tự như vậy: Nếu ai nói: “Tôi yêu đất nước tôi”, mà lại sẵn sàng 
mạt sát, chụp mũ, chỉ trích cách bất công những người cùng tổ quốc, cùng chống 
cộng, cùng đấu tranh cho tự do dân chủ với mình chỉ vì họ khác đường lối chống 
cộng với mình, người ấy là kẻ nói dối. Ai nói “tôi quyết đấu tranh cho tự do 
dân chủ nhân quyền” mà chính họ lại không thể hiện tinh thần dân chủ, không 
tôn trọng nhân quyền người khác, đấy là kẻ nói dối. Người cùng chiến tuyến với 
mình, sống cụ thể bên cạnh mình, cùng chống cộng sản với mình mà mình không thể 
hiện tình yêu thương được, thì làm sao mình yêu được quê hương đất nước, vốn là 
một thực thể khá trừu tượng?”
Còn tình trạng chia rẽ trong cộng đồng, chúng ta cần tự xét xem nguyên nhân 
từ đâu? Do cộng sản nhiều hơn hay do chính chúng ta nhiều hơn? Nếu chúng ta 
không đố kỵ nhau, không bực bội lẫn nhau, không đặt nặng tính phe phái, không tự 
ái dởm, không quá coi trọng “cái tôi”, thì cộng sản có thể ly gián chúng ta được 
không?
© Nguyễn Chính Kết
 
Bài viết có nhiều nhận định khá chính xác. Tuy nhiên, đối với Cộng đồng người Việt hải ngoại phải hãnh diện được quyến tự do ngôn luận, chia rẻ kể cả chưởi bới đố kỵ dưới mọi hình thức, hơn người dân trong nước đăng bị kềm kẹp bởi chế độ CSVN hoàn toàn không có tự do được phát biểu. Xin đừng bi quan vì chúng ta bị chia rẻ trong cộng đồng. Tôi tin rằng luật đào thải và chính nghĩa sẽ chiến thắng. Người chống Cộng chân chính hãy gạt bỏ ngoài tai đối với kẻ chống cộng vì hám danh hay đố kỵ thiếu kiến thức và trách nhiệm của người tị nạn CSVN.
ReplyDeleteLập luận của Ô Ng Ch Kết rất tinh vi. Dẩn chứng kh́a chính xác. Các quý vị lảnh đạo các tổ chức Cộng Đồng có thể tự soi gương và tự hỏi "có phải lổi tại tôi" không. Ước mong rằng có nhiều vị trả lời "không".
ReplyDeleteNg X Sơn