
Xa … xa lắm, mãi tận bên xứ Nhật Bản, 
xưa có một chàng họa sĩ nghèo. Hôm đó họa sĩ đương ngồi buồn thiu trong 
căn nhà nhỏ của chàng, chờ bữa ăn trưa. Người vú già đi chợ chưa về, 
chàng lim dim ngồi đó, thở dài nghĩ đến những thức ăn mà người vú có thể
 mua về.  Chàng ngóng đợi từng phút từng giây bước chân hấp tấp của vú, 
tưởng tượng vẻ khúm núm khi vú kính cẩn trình lên chủ những thứ mua về 
đựng trong chiếc lẳng nhỏ, phải đảm đang lắm mới có thể với mấy xu tiền 
chợ mà mua về ngần bao nhiêu thứ. Họa sĩ quả đã nghe thấy tiếng chân trở
 về. Chàng nhỏm vội dậy. Chàng đói lắm rồi.
Nhưng sao vú lại e dè dừng bước trước cửa thế kia? Lẵng thức ăn đậy kín.
“Vào đi chứ, vú,” chàng nói lớn, “xem vú mua được những gì nào”.
Người vú run run, hai tay ôm 
chặt lấy chiếc lẵng tre. “Bẩm cậu,” người vú nói, “cháu nghĩ rằng nhà 
mình quạnh quẽ quá.” Những nét nhăn trên khuôn mặt già nua của vú vừa 
phiền muộn, vừa thoáng vẻ cương quyết. 
“Quạnh
 quẽ!” họa sĩ nói, “thì tất nhiên là quạnh quẽ rồi! Vú bảo làm sao mà 
khách khứa tấp nập vào ra nhà này được, chúng ta có gì đãi họ đâu? Ngay 
như ta đây, đã từ lâu chẳng được nếm miếng bánh trôi bánh chay nào, 
hương vị những thứ đó cơ hồ ta cũng quên phứt đi rồi!” Và họa sĩ lại thở
 dài, bởi quả tình chàng thích những loại bánh chưng, bánh trôi, bánh 
chay vô cùng.  Ôi bánh chưng nhân đậu có mỡ ngậy, bánh trôi bánh chay 
nhân đậu đường nhuyễn thả ngập trong màu chè đường đặc sánh và tinh 
khiết. Chàng còn thích uống trà với vài người bạn thân, trà pha và rót 
vào chén men sứ trắng phau, vừa thưởng thức trà vừa cùng bạn đàm đạo về 
một cành đào hoa nở chẳng hạn, cành đào đẹp như một nàng công chúa khép 
nép trong khuê phòng.
Nhưng
 đã từ lâu rồi, tuần này qua tuần khác, tháng này qua tháng khác chẳng 
có ma nào tới mua cho một bức tranh nhỏ. Đã từ lâu rồi chàng họa sĩ 
nghèo nàn cam phận với bát cơm hẩm ăn với chút tép kho, nhưng nếu cái 
điệu chẳng ai tới ngó ngàng mua tranh này, còn kéo dài thì đến cơm hẩm 
tép kho cũng chẳng có được nữa. Đôi mắt chàng trở về với chiếc lẵng xinh
 còn đậy kín. Có thể là vú đã khéo thu xếp mua được một hay hai củ xu 
hào cũng nên, biết đâu lại chẳng thêm cả một quả đào chín mọng. 
“Bẩm cậu,” người vú vừa nương theo hướng nhìn của chủ vừa nói, “cháu lại còn nhớ hình như đêm đêm cứ bị thức giấc vì chuột.”
Nghe tới đó chàng họa sĩ bật tiếng cười lớn.
“Chuột?”
 chàng nhắc lại khôi hài. “Chuột? Vú ơi, chuột nào mà đậu được ở cái nhà
 quanh năm không có lấy một hạt cơm vãi trên chiếu?”
Và chàng chăm chú nhìn người vú, trí thoáng gợn nghi ngờ:
“Vú không mua gì ăn về thì phải!”. Chàng nói.
“Dạ!” người vú ngượng ngùng đáp.
“Và vú mua về con mèo thì phải.”
Người vú vội cúi thấp đầu hơn nữa khúm núm: “Bẩm cậu thực sáng suốt, cái gì cậu cũng biết!”
Tới
 đó thì chàng họa sĩ dậm chân đánh rầm một cái. Rồi vừa vò đầu bứt tai 
vừa đi đi lại lại trong phòng, chàng tưởng như mình chết đến nơi rồi, 
vừa chết đói vừa chết tức.
“Mèo! Trời ơi, mèo!” – chàng nói như 
hét – “vú mua mèo làm gì cơ chứ, vú điên sao? Mình chết đói đến nơi rồi,
 vú biết đấy, vú lại đi rước con quỷ này về, rồi phải nuôi nó chứ, biết 
đâu nó chẳng còn hút máu mình nữa. Phải rồi, đêm đến khi tôi sực dậy, 
khi vú sực dậy đã thấy răng nó cắn ngập cuống họng mình, chỉ còn biết 
nhìn vào đôi con mắt to bằng hai cái đèn lồng của nó, thật tuyệt! Ờ mà 
có lẽ vú có lý! Nghèo khốn đến thế này thì thà chết quách cho xong, thây
 cho con quỷ quặp lấy xác mình ta đi trên nóc nhà”.
“Bẩm
 cậu” vú ngước đầu kêu lớn, “nhưng cũng có nhiều con mèo thật tốt. Bẩm 
cậu, cậu quên rồi sao chuyện thằng nhỏ vẽ toàn mèo trên tấm bình phong 
tại ngôi đền bỏ hoang nọ, rồi nó vào ngủ vùi trong căn phòng nhỏ, nửa 
đêm phấp phỏng nghe như có tiếng mèo gào? Rồi sớm hôm sau tỉnh dậy nó 
thấy xác một con chuột khổng lồ ở ngay trước bực cửa. Tất nhiên là con 
chuột định đến ăn thịt nó. Bẩm cậu, ai đã giết con chuột khổng lồ đó? 
Chính là những con mèo của chú bé, những con mà chú đã vẽ trên bình 
phong chúng vẫn ngồi nguyên trên bình phong kia, nhưng móng vuốt đầy máu
 me. Bẩm cậu, có nhiều mèo tốt lắm chứ!”
Nói tới đấy vú khóc nức nở, chàng họa 
sĩ dừng lại, nhìn những giọt nước mắt chảy liên tiếp trên khuôn mặt nhăn
 nheo của vú già. Sao chàng nỡ nổi đóa lên như vậy? Đâu phải là lần đầu 
chàng bị đói!
“Thôi
 được rồi, vú,” chàng nói, “đôi khi có một con quỷ trong nhà cũng là 
điều hay, nó sẽ đuổi hết những con quỷ khác ra khỏi nhà. Rồi con mèo của
 vú tất nhiên cũng muốn có cái ăn chứ, biết đâu nó lại chẳng run rủi cho
 ta gặp vận kiếm được chút tiền. Phải, biết đâu! Mình đã khổ cực đến như
 thế này, thì cũng chẳng thể khổ cực hơn được nữa.”
Người vú khúm núm cúi đầu cảm tạ. 
“Thực cả vùng này hiếm có người nhân đức như chủ ta,” vú nói đoạn toan cắp chiếc lẵng còn đậy kín nắp xuống bếp. 
Nhưng chàng họa sĩ làm hiệu cho vú dừng lại. Như mọi nghệ sĩ khác, chàng tò mò.
“Nào để ta xem con mèo ra sao nào”, chàng nói như thể rửng rưng xem hay không cũng được.
Người
 vú vội đặt rổ xuống, khẽ nâng chiếc nắp lên. Thoạt không một chút động 
tĩnh. Rồi một chiếc đầu … một chiếc đầu tròn, xinh lông trắng muốt từ từ
 nhô khỏi miệng rổ tre, rồi hai con mắt ánh vàng mở lớn e dè nhình quanh
 phòng, rồi một chiếc chân trắng muốt từ từ đặt lên miệng rổ. Rồi bỗng 
nhiên cả con mèo xinh trắng muốt thoắt dời khỏi đáy lẵng nhảy lẹ lên 
chiếu, cái lẵng không hề động đậy. Nó đứng đấy y hệt một người vẫn chưa 
hề được biết là mình có được đón tiếp nồng hậu hay không. Bây giờ thì 
mèo đã nhảy hẳn ra ngoài rồi, họa sĩ thấy hai bên sườn nó có những đốm 
màu vàng, đuôi nó xinh như đuôi thỏ mà dáng dấp thì rất mực tao nhã.
“Trời
 ơi, một con mèo tam thể”, chàng reo vui “sao vú không nói ngay với tôi 
từ đầu? Nhà có được con mèo tam thể như thế này là hên lắm đó”.
Họa
 sĩ vừa dứt lời, con mèo như hiểu ý, nó tiến lên, tới trước chàng, hơi 
cúi chiếc đầu xinh xuống như để cảm ơn chàng, trong khi người vú già vỗ 
tay vì vui mừng. Chàng họa sĩ quên khuấy rằng mình đói, đã lâu lắm chàng
 có gặp được cảnh nào đáng yêu vừa ý như vậy đâu.
“Hààà..
 phải đặt cho nó một cái tên chứ”, chàng vừa nói vừa ngồi xuống manh 
chiếu cũ trong khi con mèo đứng nghiêm trang trước chàng. “Xem nào, nó 
trắng như tuyết mới rơi, lại lốm đốm điểm vàng, điểm nâu cánh gián; nó 
như bông hoa trắng tinh hàm tiếu lại có hai loại bướm vừa đậu xuống; nó 
như …”
Tới đây chàng họa sĩ ngừng lại, vì tiếng gù gù của con mèo ấm cúng như tiếng nước sôi trên bếp lửa chuẩn bị pha trà.
“Thật
 tuyệt!” Họa sĩ thốt khẽ. “Thế này còn hơn cơm hơn gạo nhiều”. Rồi chàng
 nói với người vú già, “Nhà ta trước đây quả là quạnh quẽ thật, vú nói 
đúng”.
“Bẩm
 cậu thứ lỗi cho”, người vú nói, “cậu nghĩ sao cháu xin đề nghị đặt tên 
nó là con Tài Lộc?”. Tài Lộc, dù sao thì cái tên đó cũng nhắc nhở dùm 
họa sĩ bao nỗi đắng cay hiện tại của chàng. 
“Thôi
 cũng được”, chàng nói, rồi đứng dậy thắt lại dải lưng cho chặt hơn 
quanh chiếc bụng lép kẹp, “nhưng bây giờ vú hãy mang nó xuống bếp ngay 
đi”. Chàng vừa dứt lời, con mèo đã đứng dậy theo vú ra khỏi phòng, bước 
nó đi vừa nhẹ nhàng vừa nhẫn nhục khiêm tốn làm sao!
BÀI HÁT CỦA NGƯỜI VÚ GIÀ
Xá chi nghèo túng già nua,
Xá chi mái tóc bạc phơ trên đầu.
Xá chi áo vải rách nhàu,
Xá chi giải lụa phai màu xác xơ.
Thần Tài Lộc vẫn chưa gõ cửa,
Khách khứa còn vắng vẻ nơi xa.
Không tiệc sớm, không trà trưa,
Nhện buồn mặc nhện trăng tơ giăng mành. 
Riêng ta vẫn vui cùng chủ cũ,
Đầu ngẩng cao, lòng nhủ lòng hay:
Tài danh lồng lộng xưa nay,
Thân hèn rồi cũng thơm lây ngại gì. 
BỨC HỌA
Sáng hôm sau họa sĩ thấy con mèo nằm cuộn tròn như trái banh trên chiếc đệm nhỏ của chàng. 
“À,
 ta biết, chỗ nằm êm nhất đó!” chàng nói. Con mèo – con Tài Lộc – lập 
tức đứng dậy, đi ra nơi khác tự lau chùi mặt mũi cẩn thận và khéo léo vô
 cùng. Khi người vú già đi chợ về, bắt đầu nhóm lửa nấu bữa ăn còm, Tài 
Lộc cũng không hề tiến tới gần, mặc dầu tia nhìn nó đôi lần có lãng đãng
 hướng về đấy, và hai hàng ria mép mướt như tơ của nó run rẩy vì đói. 
Cũng là vô tình nó có mặt đúng lúc người vú già bưng chiếc bàn gỗ vuông 
có chân thấp lên nhà đặt trước chủ. Rồi vú bưng lên bát cháo cá – có 
trời biết vú đã khéo ăn khéo nói thế nào để có thể xoay xở mua được cá 
nấu cháo như vậy – nhưng kìa con Tài Lộc lại biết hướng tia nhìn sang 
phía khác.
Họa
 sĩ rất hài lòng, chàng nói với vú: “Hình như con mèo cũng hiểu rằng 
nhìn người khác ăn là một thái độ vô lễ nên tránh. Nó được dạy dỗ đúng 
cách lắm. Vú mua của ai vậy?”
“Bẩm
 cậu cháu mua của một người đánh cá ở chợ,” người vú đáp. “Nó là con đầu
 lứa. Bẩm cậu cũng biết đấy, không một ngư nhân nào rong buồm ra khơi 
đánh cá mà không mang theo một con mèo trên thuyền để nó xua đi những tà
 ma hải quái.”
“Chà,
 tà ma hải quái với mèo là bà con thân thuộc với nhau, vú biết không,” 
họa sĩ nói, “tà ma hải quái không lập úp thuyền là vì thương con mèo chứ
 không phải vì sợ nó.” 
Vú không cãi lại, vú biết phận lắm. Tài Lộc thì vẫn ngồi ngay gần đấy quay mặt vào tường.
Húp thêm một, hai ngụm cháo nữa, họa sĩ nói với người vú già:
“Lát nữa khi vú mang cơm lên cho tôi, vú làm ơn mang cho Tài Lộc một bát, tội nghiệp chắc nó đói lắm rồi đấy vú ạ.”
Khi
 vú đã mang bát cơm lên cho mèo, khi đã được chủ chính thức gọi, Tài Lộc
 mới thôi quay mặt về phía bên tường mà thủng thỉnh tới ngồi bên chủ. Nó
 không hối hả vục miệng xuống ăn. Trái lại nó ăn nhỏ nhẻ, giữ cho cằm 
không bị dính cơm. Và mặc dầu nó đói lắm, nó vẫn chỉ ăn có nửa phần, nửa
 phần còn lại để dành cho ngày hôm sau, tựa hồ nó cũng biết hết sức 
tránh để khỏi là một gánh nặng cho người chủ nghèo. 
Cứ
 như vậy ngày lại ngày trôi qua. Một buổi sáng họa sĩ quỳ trầm tĩnh trên
 chiếc nệm nhỏ và vẽ những bức họa xinh thiệt là đẹp: khi thì là những 
chàng dũng sĩ đeo hai gươm; khi là những kiều nữ đương quấn mớ tóc mây; 
khi là mấy ông thần gió đương phùng mang trợn mép thổi; khi lại là mấy 
chú thỏ xinh chạy dưới ánh trăng hoặc mấy chú chồn mập thù lù tự vỗ lên 
bụng như vỗ lên trống. Vẫn chẳng có ai tới mua tranh cho chàng. 
Trong
 khi chàng làm việc như vậy thì vú già đi chợ, tiêu pha hết sức tần tiện
 với số tiền nhỏ nhoi còn lại, rồi làm cơm, giặt gịa, lau chùi, và khâu 
mạng để áo quần họ mặc, nhà cửa họ ở bớt vẻ tả tơi chừng nào hay chừng 
nấy. Con Tài Lộc tự biết chẳng thể giúp chủ được gì về những việc ấy nên
 ngồi lặng thinh sưởi nắng, cố ăn ít chừng nào hay chừng nấy, và rất 
nhiều khi nó ngồi hằng giờ trước tượng Phật đặt trên một cái kệ thấp gần
 đấy.
“Bẩm cậu, con miu đang niệm Phật,” vú nói bằng một giọng cảm mến. 
“Nó
 đương rình bắt ruồi đấy,” họa sĩ nói. “Vú có vẻ đặt quá nhiều tin tưởng
 vào con mèo tam thể của vú.” Ý chừng chàng họa sĩ trong thâm tâm cảm 
thấy hơi ngượng vì dạo này quả tình chàng rất ít niệm Phật. Đời sống có 
thư thái gì đâu.
Nhưng
 tới một ngày kia chàng phải buộc lòng công nhận con Tài Lộc quả không 
giống những con mèo khác. Hôm đó chàng đương ngồi trong căn phòng riêng 
của chàng, ngắm lũ chim sẻ bay ra bay vô từ một bụi hoa gần đấy. Bỗng 
chàng thấy con Tài Lộc tự một khoảng tối vụt nhảy tới, chụp được một con
 chim. Trong một giây đồng hồ đôi cánh nâu, chiếc đầu có chấm đen, đôi 
chân mảnh mai, đôi mắt ráo rác bị chụp gọn giữa hai chân mèo. Họa sĩ có 
thể vỗ tay ra hiệu bắt con mèo tha con chim nhưng chàng chưa kịp làm một
 cử động nhỏ nào, chàng đã thấy vẻ lưỡng lự của con mèo. Rồi từ từ, rất 
từ từ, nó nhấc một chân lên, rồi nhấc nốt chân kia nữa. Thoát nạn, con 
chim không hề bị thương vỗ cánh, thoạt lao đao một chút, rồi vút lên 
cao.
“Thật
 là nhân đức!”. Họa sĩ thốt lên như vậy và cảm thấy lệ rưng rưng lên 
mắt. Chàng hiểu là con miu đói lắm, chàng còn lạ gì cảnh đói nữa. “Ta 
thật tự lấy làm xấu hổ trước đây đã gọi nó là con quỷ”, chàng nghĩ vậy. 
“Nó thật còn nhân đức hơn một vị hòa thượng nữa.”
Chính ngay vào lúc đó vú già rón rén vào, khuôn mặt cố kìm giữ một niềm vui kích thích. 
“Bẩm
 cậu!” vú lắp bắp nói. “Bẩm cậu vị hòa thượng chủ trì ở chùa lớn đợi cậu
 tại phòng bên. Người nói người muốn gặp cậu ngay. Trời ơi, cậu có thể 
đoán được người đến đây tìm gặp để làm gì không?"
"Vị
 hòa thượng tự chùa tới đây tìm tôi?” họa sĩ nhắc vậy còn không tin là 
mình đã nghe đúng, bởi hòa thượng là một nhân vật vô cùng quan trọng, 
người làm gì có thì giờ đi thăm những loại nghệ sĩ nghèo chẳng ai buồn 
để ý tới như chàng. Khi thấy vú gật đầu lia lịa tới đó chàng cũng cảm 
thấy bị kích thích như vú vậy. Chàng phải cố giữ cho bình tĩnh. 
“Phải
 đi mau, vú!” chàng thốt lên. “Phải đi mau, mua trà và bánh ngọt,” và 
chàng trao cho vú vật có giá cuối cùng mà chàng còn giữ được, đó là 
chiếc bình cổ chàng vẫn dùng để cắm một cành hoa trang điểm cho căn 
phòng. Dù sau đây căn phòng riêng của chàng có bị trần trụi cũng không 
sao; quý khách giáng lâm tất phải được tiếp đón nồng hậu. Chàng tự trách
 đã để hòa thượng phải ngồi chờ chàng, dù chỉ một phút. Chàng tự trách 
đã không biết trước để ra đón người tự ngoài cổng vào. Khi chàng vội vã 
bước ra, chàng cũng không chú ý đến con Tài Lộc có giụi đầu vào gót chân
 chàng tỏ vẻ sung sướng.
Tại
 phòng bên vị hòa thượng đã ngồi đợi kia, vẻ lim dim như đang tham 
thiền. Họa sĩ cúi đầu kính cẩn chào và đợi người chú ý tới. Thực là cả 
một thế kỷ chờ đợi với chàng lúc đó cho tới khi vị hòa thượng từ từ 
ngẩng đầu lên, nhìn chàng với đôi mắt xa xôi của người. Họa sĩ cúi chào 
một lần nữa và kính cẩn thưa đây là một điều vô cùng vinh hạnh cho chàng
 được hòa thượng chiếu cố tới nhà.
Vị hòa thượng vào đề tức khắc: 
“Chúng
 tôi cần một bức họa cho ngôi chùa của chúng tôi,” người nói, “một bức 
họa vẽ đức Phật lúc Người tịch diệt. Chúng tôi đã bàn về cách lựa chọn 
họa sĩ và đã đồng ý viết tên từng họa sĩ trên từng mảnh giấy nhỏ rồi bầy
 hết trên bàn thờ chính điện. Sớm hôm sau gió đã lùa quét hết những mảnh
 giấy khác trừ mảnh giấy có ghi tên họa sĩ. Như vậy tôn ý đức Như Lai đã
 rõ. Chúng tôi lại cũng được biết đôi chút về hoàn cảnh hiện thời của 
họa sĩ nên có mang theo đây ít tiền đặt trước để họa sĩ khỏi phải lo 
lắng về vấn đề sinh kế trong khi vào việc. Mặt hồ có trong hình ảnh phản
 chiếu mới diễm lệ. Nếu họa sĩ thành công trong việc này, đó là điều 
chúng tôi kỳ vọng, họa sĩ sẽ giầu sang mấy hồi, bởi khi đã được chùa ta 
thẩm định giá trị, thì cả tỉnh sẽ nô nức thẩm định theo.” Nói đoạn vị 
hòa thượng rút bên mình ra một bọc tiền.
Họa
 sĩ cũng không nhớ là sau đó chàng đã cám ơn vị hòa thượng thế nào, đã 
mời vị hòa thượng dùng trà, dùng bánh ra sao, đã cúi chào tiễn biệt vị 
hòa thượng khả kính bên khung cửa hẹp của nhà mình ra sao. Dầu sao thì 
đây cũng là dịp giàu sang, danh vọng đến gõ cửa nhà chàng. Đẹp như một 
giấc mộng đẹp! Nhưng vì sao đức Như Lai lại chọn chàng kia chứ? Dạo này 
trái tim nặng u sầu lo lắng, chàng có mấy khi chú ý tới việc cầu nguyện,
 vú già cũng vậy, vú bận tối tăm mặt mũi suốt ngày mà. Không lẽ chính 
con Tài Lộc đã nguyện Phật cho chàng? Chàng e ngại đây chỉ là giấc Nam 
Kha bất bình, và khi bừng con mắt dậy lại thấy mình tay không thôi. Có 
lẽ chàng sẽ còn chìm trong giấc mơ suy tư lo lắng đó mãi nếu không có 
thứ tiếng chi là lạ nổi lên thức tỉnh chàng.
Không
 phải chỉ có một mà là hai thứ tiếng lạ, thiệt lạ, họa sĩ chưa hề bao 
giờ nghe thấy. Rất đỗi ngạc nhiên, họa sĩ lần mò xuống bếp xem đó là hai
 thứ tiếng gì. Tới nơi thì Trời Phật ơi, đó là vú già và con Tài Lộc, 
một thì đương khóc vì sung sướng, một thì kêu gù gù vì sung sướng, và 
thực khó mà biết rằng giữa hai kẻ đó, kẻ nào làm rộn lớn hơn kẻ nào. 
Họa
 sĩ bỗng cất tiếng cười lớn, không phải tiếng cười tủi thân giận đời 
thường có trước đây, mà là tiếng cười giống như tiếng cười của một chàng
 trai mới lớn, yêu đời, tin đời. Rồi họa sĩ ôm cả hai lên tay. Thế là 
trong gian bếp nghèo của chàng lúc đó có ba loại tiếng động hòa hợp với 
nhau để bày tỏ niềm vui. 
THAM THIỀN
Sớm
 hôm sau, trước khi vừng đông ló rạng, vú già đã trở dậy quét dọn cửa 
nhà. Vú giặt giũ lau chùi cẩn thận đến nỗi những chiếc chiếu trông láng 
tựa đồ cũ bằng bạc và các đồ gỗ thì bóng như được mạ lướt bằng vàng. 
Trong khi đó chàng họa sĩ cũng đã y phục chỉnh tề, tóc chải mượt để tới 
quỳ niệm trước tượng Phật. Tới nơi chàng thấy con Tài Lộc đã ở đó rồi, 
vẻ rất sùng kính, thấy chủ tới nó vội né sang một bên. Thế là cả hai 
thày trò cùng ngồi niệm Phật. Họa sĩ giơ cao hai cánh tay, đôi khi hai 
bàn tay vỗ khẽ vào nhau như để xá tạ một lần cuối rồi sang phòng bên 
ngồi xếp bằng tròn trên chiếc nệm nhỏ. Chưa bao giờ chàng cảm thấy mình 
sung sướng như vậy. 
Ngày
 hôm nay chàng sửa soạn vẽ đức Thế Tôn lúc Ngài nhập diệt. Bức họa sẽ 
được treo tại chùa làng để đời con, đời cháu, đời chắt, đời chút chàng 
được ngắm. Vinh hạnh biết bao! Tuy nhiên trước mặt chàng vẫn chưa hề có 
một cuộn lụa, một thỏi sơn, một chiếc bút lông, một bình nước suối trong
 mát. Chưa, chưa cần những thứ đó vội, chàng cần phải tìm hiểu cuộc đời 
thâm diệu của đức Như Lai đã, nhiên hậu mới có thể ca ngợi Người trên 
lụa. 
Thoạt
 tiên họa sĩ tưởng nhới tới Người khi còn là thái tử Tất Đạt Đa sống 
trên nhung dưới lụa trong cung, kẻ hầu người hạ tấp nập tưng bừng. Chàng
 nhớ lại Người đã thắng oanh liệt các tình địch ra sao trong cuộc thi 
tài cưỡi ngựa, bắn cung, múa kiếm để chiếm trái tim công chúa Da Du Đà 
La, trang tuyệt thế giai nhân con gái tiểu vương Thiện Giác. Và ngay 
trong phút chiến thắng đó, họa sĩ hiểu lắm, thái tử cũng không hề để 
lòng gợn một chút tự kiêu, khinh khi các tình địch chiến bại của mình. 
Thái tử quả là hiện thân của ý chí dũng mãnh, của Trí-huệ sáng suốt, của
 Từ-bi rộng lớn. Đó, tất cả những điều trên họa sĩ suy ngẫm ngày đầu. 
Sang
 ngày thứ hai họa sĩ tưởng nhớ lại thái tử đã cảm thương cho chúng sinh 
bị khu bách trong sinh, lão, bệnh, tử ra sao, người đã giã biệt vợ con, 
từ bỏ cuộc đời vương giả phù du, một mình lên đường đi tìm tình yêu 
trường cửu cho cả nhân loại như thế nào.
Sang
 ngày thứ ba họa sĩ ngồi tham thiền tưởng nhớ lại tất cả những nỗi gian 
lao thái tử đã trải trong những ngày khất thực tìm đạo giải thoát cho 
nhân loại khổ đau. Sau cùng nguồn trí huệ sáng láng đã tới với Người, 
giúp Người đạt được niềm yên bình vĩnh cửu. Người trở thành Phật, đấng 
Sáng Suốt, đấng Toàn Tri Toàn Năng. 
Chàng
 họa sĩ mệt lắm rồi. Chàng đã cố gắng sống lại cả một cuộc đời kỳ diệu 
trong ba ngày. Nhưng cũng vì vậy mà chàng thâm cảm được lúc sắp nhập 
diệt khuôn mặt đấng Từ Bi ra sao. Khuôn mặt Người hẳn là cao quý và 
cương nghị như khuôn mặt của một ông hoàng. Khuôn mặt Người hẳn cũng 
đượm niềm xót thương lũ chúng sinh còn trong bể khổ. Và đồng thời gương 
mặt người hẳn cũng tỏa ra một niềm thanh tịnh an lành.
Tìm
 hiểu tới đấy chàng hoàn toàn kiệt lực. Mắt nhắm nghiền, chàng ngủ liền 
hai mươi bốn tiếng đồng hồ. Thức giấc, chàng kêu mang lại nào bút lông, 
nào mực, nào nước suối và một cuộn lụa. Ngay đầu cuộn lụa chàng vẽ hình 
đức Phật nằm nghiêng trên giường, nét vẽ sắc lẹ và vững chắc.
Mấy
 ngày kế tiếp chàng vẽ các thiên thần, sơn thần, thủy thần, thổ thần 
cùng các đệ tử của đức Phật đến kính viếng trước khi Người nhập Niết 
bàn. Hết thần và người, chàng họa sĩ bắt đầu vẽ tới các loài cầm thú. 
Chúng cũng trên đường tới chào vĩnh biệt đức Phật tổ.
Chàng
 nhớ thuở sinh thời đức Phật, Người thương mến những vật hèn mọn biết là
 chừng nào. Nghĩ đến những con ốc sên mà chàng đã có dịp ngắm chúng đi, 
chiếc sừng xinh, chiếc vỏ ốc tròn, thân hình như chiếc lá lợt ướt, chúng
 sống thẹn thùng e lệ nhưng đầy thiện chí, chàng bèn nhúng bút vào bình 
nước suối, quệt mực, và vẽ một con ốc sên. Kế đến chàng nghĩ về con voi 
thân hình to lớn, dũng mãnh và khôn ngoan. Chàng nhớ voi rất được tôn 
trọng và là biểu tượng cho vương quyền tại Ấn Độ, quê hương đức Như Lai.
 Thế là chàng lại cầm bút tẩm mực vẽ hình con bạch tượng rất là uy nghi,
 đôi mắt nhỏ và hiền, đôi tai lớn với những đường gân hồng.
Những
 ngày kế tiếp chàng vẽ rất nhiều các giống vật khác. Chàng vẽ con ngựa 
cao quý và can trường với con bạch nga đẹp như mộng, con trâu trung hậu 
và tự trọng với con chó trung thành; cứ như vậy tới khắp các giống vật 
trên trần gian. Mỗi lần họa sĩ vẽ xong một con vật nào, con Tài Lộc, 
luôn luôn ngồi yên lặng sát đấy, lại ren rén bước lên chăm chú ngắm 
nghía rồi kính cẩn quay nhìn chàng như muốn nói, “Chao ôi, chủ nhân ngài
 thực là một đại nghệ sĩ.” Nó như lại thở dài với niềm lo âu biết rằng 
chủ nhân rồi có vẽ mèo giữa các giống vật khác?
TÁC PHẨM CỦA TÌNH THƯƠNG
Tới
 ngày kia họa sĩ ngồi trên nệm, tri lự bị giằng co bởi một vấn đề nan 
giải nhất tự trước đến nay. Vẻ nhũn nhặn của con ốc sên, sức lực và trí 
khôn cao quý của con voi, đức can trường của con ngựa, vẻ đẹp của con 
bạch nga, sức dẻo dai của con trâu, sự trung thành của con chó, và đức 
rộng lượng của con nai, tất cả đều dễ dàng giải thích trước đây chúng có
 thể đã phục vụ đức Phật tổ ra sao, hoặc ngay cả ở một tiền kiếp nào, 
Ngài đã từng sống dưới những hình thức đó. Với chim gõ kiến, thỏ rừng, 
ngỗng, dê, đười ươi cũng vậy chúng đều là những con vật vô hại; ngay cả 
sư tử cũng chỉ bắt con giống khi đói lòng thôi, có bao giờ sư tử lấy 
giết tróc làm thú tiêu khiển đâu. 
Nhưng
 họa sĩ lại biết rằng cả con hổ cũng đến chào vĩnh biệt đức Phật và cũng
 được Phật độ. Sao có thể thế được nhỉ? Chàng nghĩ đến thái độ hung dữ 
bạo tàn của loài hổ, chàng tưởng tượng chúng đương nằm dài dưới bóng 
rừng loang lổ mắt rực tia lửa. Chúng là mối nguy cơ khoảng gần vùng 
nước, chúng là quân sát nhân giữa vùng lau sậy. Đôi khi một con lần mò 
về làng cõng đi một người đàn bà đương trên đường tới giếng kín nước. 
Hoặc một con khác tới vồ người đàn ông đương làm đồng, tha đi đứa trẻ 
nhỏ đương chơi đất trước cửa nhà mình. 
Còn gì ở một con vật như vậy mà Phật độ?
Lâu,
 lâu lắm họa sĩ ngồi trầm tư, và sau cùng chàng nhớ ra rằng con hổ vốn 
vô cùng tận tụy với “bạn đường”, với con thỏ; nó dám đương đầu với bất 
cứ điều dị thường nào, trong trường hợp những thân tình đó gặp cơn nguy 
biến. Chàng nghĩ: “Đó chính là con đường hẹp đưa hổ tới đức Phật. Có thể
 có hung hãn trong thương yêu, và thương yêu trong hung hãn”.
Chính
 vì chàng đã mở rộng ý nghĩ để đi sâu vào thế giới Yêu Thương (và ngay 
loài hổ cũng có yêu thương) mà chàng bỗng sực nhớ ra một điều từ trước 
tới nay vẫn quên. Trong trí chàng lúc đó hiển hiện cảnh thái tử Tất đạt 
đa lúc thí võ để đoạt nàng Da Du Đà La. Trong cuộc thi tài với các hoàng
 tử tình địch khác thái tử đã trương cánh cung bằng đồng đen nặng lắm ở 
đền Simbahanou mà không ai trương nổi; thái tử đã cưỡi được con ngựa ô 
long hung hãn mà không ai trị nổi; thái tử đã lẹ đưa một đường kiếm tiện
 phẳng cả hai thân cây cổ thụ mọc song đôi. Nàng Da Du Đà La lúc đó vẫn 
ngồi nơi kiệu vàng để theo dõi thái tử, mặt nàng che một làn voan mỏng 
có những vằn vàng vằn đen.
Sau
 cùng đến lúc trao giải cho kẻ chiến thắng, Tiểu vương Thiện giác dẫn 
thái tử Tất Đạt Đa tới bên con gái mình. Chính vào lúc đó thái tử ghé 
bên tai nàng Da Du Đà La thì thầm: “Làn voan mỏng có vằn vàng vằn đen 
của nàng đã giúp ta nhớ lại một thuở tiền kiếp xa xưa nàng là hổ cái, và
 ta là hổ đực, ta cũng phải chiến thắng hết các tình địch như ngày hôm 
nay mới chiếm đoạt được nàng.”
Thế
 là trong muôn vàn kiếp tái sinh đức Phật đã hân hoan có lần được tái 
sinh làm kiếp hổ, chứng tỏ rằng ngay trong kiếp sống man rợ đó vẫn có 
một cái gì cao cả. Sau cuộc suy tư dài, họa sĩ bừng khám phá thấy vẻ đẹp
 riêng tư của kiếp hổ, hung hãn đấy nhưng cũng đầy tận tụy hy sinh. 
Chàng hoan hỉ chấm bút vào bình nước suối quệt mực và vẽ một con hổ trên
 mặt lụa.
Như thường lệ con Tài Lộc lại ren rén tới. Khi nhận ra hình con hổ, toàn thân nó run lên bần bật, và nó nhìn họa sĩ.
“Bẩm
 chủ nhân,” nó nhường như muốn nói với họa sĩ, “nếu đến như con hổ cũng 
được lên đường tới chào vĩnh biệt đức Phật khi Ngài sắp nhập diệt thì 
một con mèo nhỏ nhoi vô hại hẳn cũng sẽ được tới. Bẩm chủ nhân, con chắc
 chắn là nó cũng được Phật độ mà nhập Niết bàn.” 
Họa sĩ lộ vẻ buồn rầu vô cùng.
“Tài
 Lộc, con” chàng vừa dịu dàng nói vừa ôm nó lên tay, “ta cũng muốn vẽ 
một con mèo trong đám này lắm. Khổ thay tất cả mọi người đều biết là mặc
 dầu mèo đáng yêu thật, nhưng nhiều khi mèo lại kiêu căng, tự mãn. Cả 
muôn loài, riêng có mèo là không được Phật độ. Có lẽ điều đáng trách là 
mèo hay làm bạn đồng hội đồng thuyền với những loại tinh ma quỷ quái.”
Tới
 đó con Tài Lộc cứ giụi giụi chiếc đầu xinh của nó vào ngực họa sĩ, và 
ai oán cất tiếng kêu meo meo y như đứa trẻ khóc. Họa sĩ cố dỗ dành nó, 
rồi chàng gọi vú già lên.
“Vú
 hãy mua riêng cho Tài Lộc một con cá thật ngon,” chàng nói với vú già. 
“Và cho đến ngày bức họa được mang đi, vú đừng để nó lên đây nữa. Nó có 
thể làm chúng ta tan nát cõi lòng.” 
“A,
 bẩm cậu cháu cũng sợ nó làm hư bức họa,” giọng vú đượm vẻ lo lắng. Vú 
luôn luôn cảm thấy mình có trách nhiệm với con mèo đã mang về ngoài ý 
muốn của chủ, huống chi tài lộc của chủ từ nay về sau đặt cả vào bức 
tranh sẽ được ở chùa làng kia. 
“Không
 phải thế đâu vú ạ,” họa sĩ nói vậy rồi quay trở lại trầm tư. Trông 
chàng mệt mỏi, kiệt sức nhưng cũng thật đẹp. Bức họa của chàng gần hoàn 
tất rồi. Kia là hình đức Phật nằm dài lúc Người sắp nhập diệt, khuôn mặt
 vương giả, mệt mỏi, xót thương. Kia là hình chư thần cùng những đệ tử 
quây quần bên Phật; và kia là các giống vật. Cuộn lụa tưởng khó mà chứa 
đủ ngần bấy nhiêu cuộc đời khác nhau; tất cả sùng kính ngưỡng vọng hướng
 về đấng Đại Từ Đại Bi.
Nhưng
 vẫn còn một vật bị khai trừ. Họa sĩ nghe tiếng “miu miu” yếu ớt từ bếp 
vọng lên, và tiếng vú già đương cố dỗ dành con Tài Lộc ăn, nhưng vô 
hiệu. Chàng hiểu tâm trạng con mèo lắm, nó thật dễ yêu, thật hiền dịu 
nhưng vẫn mãi mãi bị thất sủng. Tất cả giống vật khác đều được Phật độ, 
và nhập Niết bàn, trừ có mèo. Chàng cảm thấy nước mắt rưng rưng lên mi.
“Ta không thể nhẫn tâm như vậy được,” chàng tự nhủ. “Nếu chư vị đại đức khước từ bức tranh, ta chịu chết đói cũng chẳng sao.”
Chàng chọn chiếc bút lông tốt nhất, nhúng vào nước, lấy mực, và con mèo được vẽ sau hết các loài vật.
Chàng gọi vú già.
“Vú
 hãy cho con Tài Lộc lên đây”, chàng nói. “Có thể chúng ta cam nhận thất
 bại, nhưng ít nhất ta cũng làm cho con Tài Lộc được hài lòng.”
Cánh
 cửa vừa được kéo mở, con Tài Lộc bước vào, nó chạy tới trước bức họa, 
và nó nhìn, và nó ngắm tưởng như suốt đời chẳng bao giờ nó được nhìn 
ngắm cho đã mắt như vậy. Rồi nó quay nhìn họa sĩ, ánh mắt biểu lộ niềm 
tri ân vô bờ. Rồi nó khuỵu xuống chết tức khắc. Nó đã quá mãn nguyện 
rồi, chẳng còn sống thêm một phút nào nữa. 
BÀN TAY PHẬT
Sớm
 hôm sau khi hay tin bức họa đã hoàn tất, vị trưởng lão hòa thượng tới. 
Họa sĩ ra tận cửa đón chào rồi dẫn người vào xem bức họa. Hòa thượng 
ngắm kỹ, lâu.
"Bức họa sao mà rực rỡ", người nói khẽ.
Khuôn mặt hòa thượng chợt nghiêm lại.
“Nhưng con vật nào họa sĩ vẽ sau rốt đây?” Người hỏi.
“Bạch hòa thượng đấy là con mèo,” họa sĩ đáp và cảm thấy lòng não nề tuyệt vọng.
“Họa
 sĩ há không hiểu rằng mèo đã chống lại đức Thế Tôn”, giọng vị hòa 
thượng càng trở nên nghiêm khắc, “không được Người độ và không thể nhập 
Niết bàn?”
“Dạ, bạch hòa thượng con hiểu”, họa sĩ đáp.
“Ai
 nấy hái lấy quả mà mình gieo nhân,” hòa thượng nói. “Con mèo phải gánh 
lấy hậu quả bướng bỉnh của mình, cũng như họa sĩ giờ đây vậy. Bởi chung 
con người không thể xóa bỏ những gì đã làm, nên ta muốn mang bức họa này
 về để ngày mai công khai hỏa thiêu. Sẽ có bức họa của một họa sĩ khác 
được treo trong chùa vậy.”
Cả ngày hôm đó vú già khóc trong bếp, vú cho rằng chính tại mình mang con mèo về mà sự nghiệp chủ sụp đổ như vậy.
Cả
 ngày hôm đó họa sĩ ngồi trong phòng bên bụi hoa nở hồng và suy tư. Bức 
họa đã được mang đi, mang theo một phần sự sống của chính chàng đặt vào 
đó. Mai đây chư vị đại đức sẽ thiêu nó giữa sân chùa. Chắc chắn từ nay 
sấp đi chẳng còn ai thèm bén mảng đến nhà chàng nữa. Tuy nhiên chàng 
không hề hối tiếc về điều mình đã làm. Trong bao nhiêu ngày qua chàng đã
 đắm hồn trong suy tư vẽ tình thương yêu cùng những gương hy sinh cao 
cả. Hy sinh để con Tài Lộc có những giây phút chói sáng cuối cùng đó, 
đâu có uổng!
Chàng
 ngồi suốt đêm đôi mắt thức tỉnh như vậy. Vú già không dám tới ngắt 
quãng dòng suy tư của chàng. Ánh bình minh lợt lạt đầu tiên đã lọt vào 
phòng, gió rạng đông khua nhẹ bụi hoa bên cạnh. Một giờ sau chàng nghe 
có tiếng ồn ào của dân chúng chạy về phía nhà chàng. Chư vị thượng tọa 
tới vây quanh chàng, vị hòa thượng kéo tay áo chàng. 
“Xin
 họa sĩ hãy tới, hãy tới”, mọi người tiếp tục cùng nói. “Xin họa sĩ hãy 
tới, thực là nhiệm mầu! Ôi lòng từ bi của đức Thế Tôn!”
Họa
 sĩ theo họ, tâm hồn choáng váng, không kịp thở nữa, chẳng để ý gì quanh
 mình trên đường tới chùa. Tiếng reo vui vang ầm bên tai, chàng liếc 
thấy vú già cũng đã có mặt ở đấy, giây lưng còn sộc sệch, đám đông xung 
quanh ai nấy há miệng ngạc nhiên. Bức tranh của chàng treo cao ngay 
chính điện, đèn nến sáng trưng, hương trầm nghi ngút. Nét vẽ y nguyên 
như cũ, ồ mà không … kia …
Họa sĩ bỗng quỳ xuống thốt lời kêu:
“Ôi lòng từ bi của đấng Chí tôn!” 
Vì
 chàng vừa nhận ra rằng khoảng lụa chàng vẽ con vật cuối cùng nay đã trở
 lại nguyên màu lụa bạch cũ tưởng như nét bút lông chưa hề một lần chạm 
tới. Còn hình đức Phật, hình đức Phật mà trước đây chàng vẽ nằm ngả trên
 giường, hai tay khoanh lại trước ngực, thì nay một cánh tay Người duỗi 
ra, và dưới bàn tay tế độ an lành, thanh tịnh của Người, hình con mèo 
nhỏ khép nép quỳ, chiếc đầu trắng xinh hơi cúi xuống trong một niềm sùng
 kính hân hoan.
Tác giả: Elizabeth Coatsworth • Dịch giả: Doãn Quốc Sỹ)
 
câu chuyện thật li kì và cảm động ... , nhưng không thấy nói vị hòa thượng này lấy tiền ở đâu ra nhiều thế...
ReplyDeleteYou không biết sao ? Hoà thượng thiếu gì tiền 🙏🙏🙏🙏
Delete