Bàn thờ ông trời ngoài sân trước
1. Bạn trẻ
thắc mắc:
Người ở từ
đâu đến địa cầu?
Rồi khi
mãn kiếp lại về đâu?
Mênh mông
chỉ thấy bầu trời rộng!
Mù mịt
như ngồi đáy giếng sâu!
Hỡi ơi sống
để làm chi vậy?
Mà cứ đua
nhau chuốc việc sầu?
Người già suy tư:
Ngồi mà
ngẫm nghĩ thân tôi,
Đâu là ý
nghĩa cuộc đời chóng qua?
Nơi đây
ai dựng tôi ra?
Nơi đây
tôi sống để mà làm chi?
Đời qua
còn lại những gì?
Xuôi tay
nhắm măt tôi thì đi đâu?
Hai bài thơ
trên của một trẻ, một già, nhưng cùng một nỗi khắc khoải: Tôi từ đâu đến? Cuộc đời này có ý nghĩa gì? Tôi sẽ về đâu, khi vĩnh
biệt cõi tạm trần gian? Mấy câu hỏi đó bộc lộ con người có linh hồn.
Suc vật
không có linh hồn, chúng
có nhu cầu ăn, uống, đòi hỏi của thân xác. Súc vật không có tôn giáo, không có khoa
học, văn chương, hội họa, âm nhạc... Mỗi loài vật có bản
năng khác nhau, do Trời ban cho chúng, và suốt đời chúng sống theo
bản. Từ khi có loài vật trên mặt đất, cho đến tận thế, chúng không
có sự tiến bộ: cá lớn vẫn nuốt cá bé; cọp, sư tử vẫn
vồ nai, dê, bò..; ngựa vẫn kéo xe; trâu, bò kéo cầy; chim
làm tổ bằng rơm, rạ; loài khỉ vẫn chỉ biết kêu en éc và hái
trái trên cây để ăn v.v.. Loài vật là rôbô của Trời.
Loài người có linh hồn, có tình
yêu, có giận hờn, có tôn giáo, có khoa học, âm nhạc, hội họa, văn
chương...Loài người là sinh
vật siêu đẳng, hơn rất xa loài vật và cỏ cây.
2. Người
Việt tin có Ông TRỜI
Khi Khổng,
Lão, Phật giáo... chưa
du nhập nươc ta, người Việt đã tin có ÔNG TRỜI là Đấng Chí Cao bảo tồn vạn vật;
ban ơn cho người lành, phạt kẻ gian ác. Người Việt còn gọi Ông Trời là Ông
Thiên, Thượng Đế, Đưc
Chúa Trời, Thiên Chúa, Đấng Tạo Hóa, Đấng Sáng Tạo ....
Nhiều gia
đình có bàn thờ tổ tiên trong nhà để tưởng nhớ đến ông bà, cha mẹ đã khuât; và
một bàn thờ ngoài sân để cầu khẩn với Trời. Các vua cũng bày tỏ sự
tôn kính, biêt ơn và cầu khẩn với Trời, như Lễ Tế Trời (Lễ Nam Giao) để tạ ơn
Trời khi đất nươc thịnh vượng, bình an. Tạ lỗi với Trời, xin mưa khi hạn hán.
Ca dao, thơ văn, chuyện tích nói lên niềm tin này:
*Trời cao có
măt
*Trời sinh
voi, Trời sinh cỏ
*Trời sinh,
Trời dưỡng
*Trời đánh
còn tránh miếng ăn.
*Cha mẹ sinh
con, Trời sinh tính.
*Trời cho ai
nấy hưởng; Trời gọi ai, nấy dạ
*Sống nhờ ơn
Trời, chêt về chầu Trời.
*Trời cho
không ai thấy, Trời lấy không ai hay.
*Trời nào có
phụ ai đâu; Hay làm thì giàu, có chí thì nên.
*Trời cho
hơn lo làm. Chỉ có Trời cứu.
*Mong đèn Trời
soi xét. Có Trời chứng giám.
*Không có Trời,
ai ở với ai?
*Trời quả
báo, ăn cháo gẫy răng,
Ăn cơm gẫy
đũa, xỉa răng gẫy hàm.
*Phí của Trời,
mười đời chẳng có,
Biêt ơn Trời,
mười đời chẳng khó.
*Chê của
nào, Trời trao của ấy.
*Trời đánh
còn tránh miếng ăn.
*Trời sinh
con măt là gương,
Người ghét it
ngó, người thương ngó hoài.
*Trời cao đất
rộng, em vọng lời nguyền:
Đất trời còn
đó, em nguyện giữ tròn thủy chung.
*Lưới Trời lồng
lộng, thưa mà không lọt.
*Thiên bât
dung gian. (Trời không dung thứ kẻ gian ác)
*Thiên sinh
vạn vật, duy nhân tối linh (Trời sinh ra muôn loài, loài người là khôn hơn hêt)
*Đại phú do
Thiên, tiểu phú do cần (Giàu to do Trời cho, giàu nhỏ do cần kiệm)
*Mưu sự tại
nhân, thành sự tại Thiên. (Người mưu kế, thành bại do Trời định đoạt)
*Thuận Thiên
giã tồn, nghịch Thiên giã vong (Theo Trời thì sinh tồn, nghịch Trời thì diệt
vong)
*Ở hiền thì
lại gặp lành, những người nhân đức Trời dành phúc cho.
*Hoàng Thiên
bất phụ hảo tâm nhân (Trời không phụ người có lòng tôt)
*Duyên ba
sinh Trời đã dành sẵn (duyên vợ chồng do Trời săp đặt)
*Lòng Trời
lượng cả bao dung
Biêt rồi
không lẽ mà không trở về
Xưa kia chỉ
biêt kêu ‘Trời’
Ngày nay lại
biêt rằng: ‘Trời là Cha’
Trần gian
chưa phải là nhà
Thiên đàng
vĩnh phúc mới là chính quê.
*Chữ rằng
sinh ký tử quy
Nghiã là sống
gửi thác về đời sau.
Biêt Trời
thưởng phạt sau này
Muốn sau được
thưởng thì rầy phải lo
Gắng công,
Trời giúp công cho
Đạo lành gây
dựng cơ đồ mai sau.
*Mọi sự ở
trên đời
Rồi mai rồi
cũng hêt
Việc lành dữ
mà thôi
Sẽ theo ta
khi chêt.
*Thiên đàng
địa ngục hai bên
Ai khôn thì nhờ, ai dại thì sa
Đêm ngày nhớ Chúa là Cha
Đọc kinh cầu nguyện kẻo sa linh hồn
Linh hồn phải giữ linh hồn
Đến khi lià xác được lên Thiên đàng...
An Tiêm là một
người thông minh lanh lợi, được Vua Hùng Vương thương mến và gã con gái nuôi.
An Tiêm khéo trang hoàng nhà cửa xinh đẹp. Cac quan khen thì An Tiêm khiêm tốn
nói là do ơn Trời ban. Các quan có lòng ganh tị, nên trình với Vua: “An Tiêm là kẻ vô ơn, được Vua ban cho
nhiều của cải, bổng lộc mà không biết ơn, lúc nào cũng bảo là ơn Trời ban.”
Vua nghe được
thì nổi giận và đày vợ chồng An Tiêm ra đảo hoang. Đến đảo, vợ An
Tiêm nói với chồng: “Thưc ăn Vua cho chỉ đủ trong vài tháng, sau đó
thì làm sao mà sống?”
An Tiêm đáp:
“Trời sinh, Trời dưỡng”.
Một ngày nọ
nge tiếng chim kêu, An Tiêm chạy đến thì chúng bay đi và nhả lại những hạt đen.
An Tiêm đem vùi xuống đât và tưới nươc. Thời gian sau chúng mọc thành những dây
bò lan xanh tôt và có những trái lớn. An Tiêm bổ ra, thấy trong ruột đỏ; ăn
thì thấy ngon ngọt. An Tiêm nói với vợ: “Đây là của Trời cho”.
Từ đó, vợ chồng
trồng nhiều để làm của ăn.
Một hôm có
thuyền đánh cá vì gío lớn phải tấp vào đảo. An Tiêm cho người trên thuyền ăn những
trái họ trồng. Vì thich trái cây của An Tiêm, nhiều người đã mang gạo, thịt, vật
dụng... ra đổi. Vợ An Tiêm nói với chồng, “Trời nuôi chúng ta”.
Ít năm sau,
Vua sai người ra hoang đảo để xem vợ chồng An Tiêm sống chết ra sao, thì được
biêt: vợ chồng An Tiêm sống sung túc. Vua cho là chuyện lạ, bèn cho hai vợ chồng
trở về thuật lại những gì đã xảy ra. Nge xong, Vua nói: “Trời đã
nuôi chúng nó thật”.
Trong lúc
khát nước, Vua ăn trái cây do vợ chồng An Tiêm mang từ đảo về thì thich lắm. Vua cho là
trái cây qúy, nên truyền trồng ở nhiều nơi. Trái cây đó là qủa Dưa Hấu mà chúng
ta được hưởng ngày nay, đặc biệt là món ăn không thể thiếu trong mấy
ngày Tết.
NguyễnHyVọng
No comments:
Post a Comment