Người Tàu kiểm soát gần như toàn bộ các vị trí kinh tế quan trọng, và đặc biệt
nắm chắc 3 lĩnh vực quan trọng: sản xuất, phân phối và tín dụng. Đến cuối năm
1974, họ kiểm soát hơn 80% các cơ sở sản xuất của các ngành công nghiệp thực
phẩm, dệt may, hóa chất, luyện kim, điện… và gần như đạt được độc quyền thương
mại: 100% bán buôn, hơn 50% bán lẻ, và 90% xuất nhập khẩu. Hoa kiều ở miền Nam
gần như hoàn toàn kiểm soát giá cả thị trường. Cũng vì thế, ở Sài Gòn có câu
mỉa mai: “Sống phá rối thị trường, chết chật đường chật xá” để ám chỉ người Tàu
khi còn sống lũng đoạn nền kinh tế và đến lúc chết lại tổ chức những đám ma một
cách rình rang. Cũng như người Tàu ở Hồng Kông và Macao, người Tàu ở miền Nam
đa số nói tiếng Quảng Đông (Cantonese) chứ không nói tiếng Quan Thoại(Mandarin)
mà ngày nay gọi là tiếng Phổ Thông. Cũng vì thế, ngôn ngữ Sài Gòn xưa vay mượn
từ tiếng Quảng Đông được khoảng 71 triệu người Hoa trên khắp thế giới xử dụng.
Người Sài Gòn thường ví những người “ăn nói không đâu vào đâu” là “nói hoảng,
nói tiều” thực ra là “nói tiếng Quảng Đông, nói tiếng Triều Châu”. Điều này cho
thấy tiếng Quảng Đông xuất hiện rất nhiều trong ngôn ngữ miền Nam trước năm
1975, kế đến mới là tiếng Triều Châu. Trên thực tế, người Tàu có đến 5 nhóm Hoa
kiều, được gọi là Ngũ Bang tại miền Nam: Quảng Đông, Triều Châu, Phúc Kiến, Hải
Nam và Khách Gia (người Hẹ). Trong lĩnh vực ăn uống của Sài Gòn xưa, ảnh hưởng
của người Tàu gốc Quảng Đông rất đậm nét. Người ta thường nói về 4 cái thú: “Ăn
cơm Tàu, ở nhà Tây, lấy vợ Nhật Bản, đi xe Huê Kỳ”. Bên Tàu lại ví von: “Thực
tại Quảng Châu, Y tại Hàng Châu, Thú tại Tô Châu, Tử tại Liễu Châu” (Cơm ngon
ăn tại Quảng Châu, Áo đẹp may vải Hàng Châu, Vợ xinh cưới ở Tô Châu, Hòm chết
chôn không bao giờ mục ở Liễu Châu ). Quảng Châu chính là thủ phủ của tỉnh
Quảng Đông.
Kết hợp ý nghĩa của hai câu nói Việt-Trung ở trên ta có thể kết luận: ăn uống
theo người Tàu gốc Quảng Đông là hết xảy hay số dzách (số một), những từ ngữ đã
quá phổ biến trong xã hội miền Nam. Về sau, vào thời chiến tranh Việt Nam, “số
dzách” được cải biên theo kiểu Mỹ thành “nâm-bờ oăn” (number one)! Hành trình
của ngôn ngữ xem ra rất thú vị. Nói cho công bằng, bên cạnh số đông các tửu
lầu, cao lâu của người Tàu gốc Quảng Đông, ở Sài Gòn Chợ lớn cũng có lai rai
một số tiệm Tàu khác như tiệm Hủ tíu Triều Châu ở đối diện Chợ Lớn Mới, Cơm Gà
Hải Nam ở Chợ An Đông...Nổi tiếng tại Sài Gòn xưa có các nhà hàng Đồng Khánh,
Arc-en-ciel (sau này đổi tên là Thiên Hồng), Soái Kình Lâm, Bát Đạt, Á Đông,
Đại La Thiên, Triều Châu… Tại đây còn phục vụ loại “ăn chơi” theo cung cách nhất
dạ đế vương. Quả thật người viết bài này chưa bao giờ được “làm vua một đêm”
nên đoán trong những bữa tiệc như thế phải có mỹ nữ hầu tửu, thực đơn chắc chắn
phải có nhiều món huyền thoại danh bất hư truyền về cái chất bổ dương khích dục
đi đôi với các thứ rượu quí như whisky, cognac và Mao Đài tửu
Cơm chiên Dương Châu cũng là món ăn du nhập từ Quảng Đông. Nhiều người rất
khoái cơm chiên nhưng ít người biết từ khởi thủy đây chỉ là món tổng hợp các
thức ăn dư thừa được chế biến lại. Này nhé, cơm vốn là “cơm nguội” nấu dư từ
hôm trước, các phụ gia khác như jambon, trứng tráng, đậu Hòa lan, hành lá…còn
dư được xắt lát rồi trộn với cơm mà chiên lên!
Cũng thuộc loại thức ăn dư thừa có món tài páo (bánh bao). Bạn không tin ư?
Nhân bánh bao là thịt vụn được xào lên, trộn với lạp xưởng và trứng (sau này
được thay bằng trứng cút kể từ khi dịch cút lan truyền khắp Sài Gòn, nhà nhà
nuôi cút, người người ăn trứng cút). Vỏ bánh bao được làm bằng bột mì, sau khi
hấp chín bột nở phình ra trông thật hấp dẫn. Có người bảo cơm chiên Dương Châu
và bánh bao thể hiện tính tằn tiện và tiết kiệm của người Tàu, không bỏ phí
thức ăn thừa! Nói cho vui vậy thôi chứ từ cơm chiên, bánh bao đến các loại sơn hào
hải vị như bào ngư, vi cá, yến sào… đều đòi hỏi cách chế biến, đó là nghệ thuật
nấu ăn. Các tiệm “cà phê hủ tiếu” của Tàu lan rộng ra nhiều nơi chứ không riêng
gì trong Chợ Lớn. Khắp Sài Gòn, Gia Định rồi xuống đến Lục Tỉnh đi đâu cũng
thấy những xe mì, xe hủ tiếu, chỉ nhìn cách trang trí cũng có thể biết được chủ
nhân là người Tàu. Họ có kiểu cách riêng biệt với những chiếc xe bằng gỗ, thiết
kế một cách cầu kỳ. Phần trên xe là những tấm kính tráng thủy có vẽ hình các
nhân vật như Quan Công, Lưu Bị, Trương Phi, Triệu Tử Long… trong truyện Tam
Quốc.
Ăn điểm tâm thì có mì, hủ tíu, bánh bao, há cảo, xíu mại…Khách thường gọi một
ly xây chừng, đó là một ly cà phê đen nhỏ hay tài phế (cà phê đen lớn). Cà phê
ngày xưa còn có tên “cá phé vớ (dzớ)”, pha bằng chiếc vợt vải nên còn được gọi
là “cà phê vợt” tựa như chiếc vớ (bít tất). Cà phê đựng trong “dzớ” phải được
đun nóng trong siêu nên còn có tên là “cà phê kho”, có điều “kho” nước đầu thì
có mùi cà phê nhưng những nước sau có vị như… thuốc bắc. Sang hơn thì gọi phé
nại (cà phê sữa) hoặc bạt sửu (nhiều sữa nhưng ít cà phê) với sữa đặc có đường
hiệu Ông Thọ hoặc Con Chim . Có người lại dùng bánh tiêu hoặc dầu-cha-quẩy
nhúng vào cà phê để ăn thay cho các món điểm tâm đắt tiền.
Người bình dân còn có lối uống cà phê trên đĩa. Mỗi tách cà phê thường được để
trên một chiếc đĩa nhỏ, khách “sành điệu” đổ cà phê ra đĩa, đốt điếu thuốc
Melia chờ cà phê nguội rồi cầm đĩa lên… húp. Nhà văn Bình-nguyên Lộc trong Hồn
Ma Cũ mô tả cách uống cà phê của người xưa: “…Người cha đứa bé rót cà phê ra
dĩa cho mau nguội, rồi nâng dĩa lên mà uống”. Đây là cách uống của một số người
Sài Gòn vào những thập niên 50-60, đa số họ là những người lớn tuổi, “hoài cổ”
nên vẫn duy trì cách uống đặc trưng của Sài Gòn xưa. Vào một quán nước bình dân
trong Chợ Lớn ta có thể gọi một ly suỵt xủi và người phục vụ đem ra một ly đá
chanh mát lạnh. Có người gọi nước đá chanh là “bất hiếu tử” vì dám cả gan “đánh
cha” nhưng nói lái lại là… đá chanh! Tại các tiệm “cà phê hủ tiếu” luôn luôn có
bình trà để khách có thể nhâm nhi nhậm xà (uống trà) trước khi gọi phổ ky đến
để thảy xu (tính tiền). (Nhậm xà còn có nghĩa là tiền hối lộ, tiền trà nước).
Người sành điệu còn “xổ” một tràng “broken Cantonese”: “Hầm bà làng kỵ tố?” (Hết
thảy bao nhiêu tiền?).
Những từ ngữ vay mượn của người Tàu dùng lâu hóa quen nên có nhiều người không
ngờ mình đã xử dụng ngôn ngữ ngoại lai. Chẳng hạn như ta thường lì xì cho con
cháu vào dịp Tết hoặc lì xì cho thầy chú (cảnh sát) để tránh phiền nhiễu, cũng
là một hình thức hối lộ. Lạp xưởng là một món ăn có nguồn gốc từ bên Tàu, tiếng
Quảng Châu là lạp trường: ngày lễ Tất niên và ruột heo khô. Cũng vì thế vào dịp
giáp Tết các cửa hàng nổi tiếng như Đồng Khánh, Đông Hưng Viên trưng bày la
liệt các loại lạp xưởng, nào là lạp xưởng mai quế lộ, lạp xưởng khô, lạp xưởng
tươi…
Chế biến lạp xưởng là nghề của các Chú Ba trong Chợ Lớn. Lạp xưởng được làm từ thịt heo nạc và mỡ, xay nhuyễn, trộn với rượu, đường rồi nhồi vào ruột heo khô để chín bằng cách lên men tự nhiên. Lạp xưởng màu hồng hoặc nâu sậm vì chắc hẳn có thêm chút bột màu. Lạp xưởng ở Sóc Trăng thuộc miền Lục tỉnh cũng rất nổi tiếng cùng với món bánh pía, một món đặc biệt của người Tiều gốc từ Triều Châu. Đôi khi bánh pía còn được gọi là bánh lột da, thực chất có nguồn gốc từ bánh trung thu theo kiểu Tô Châu nhưng khác với loại bánh trung thu mà ta thường thấy. Đây là loại bánh có nhiều lớp mỏng và nhân bánh có trộn thịt mỡ.
Bánh pía do một số người Minh Hương di cư sang Việt Nam từ thế kỷ 17 mang theo.
Trước đây, việc làm bánh pía hoàn toàn mang tính thủ công và phục vụ cho nhu
cầu của từng gia đình. Bánh pía ngày trước cũng khá đơn giản, vỏ ngoài làm bằng
bột mì có nhiều lớp da mỏng bao lấy phần nhân, lớp da ngoài dày thường để in
chữ, nhân làm bằng đậu xanh và mỡ heo chứ không có lòng đỏ trứng muối và các
loại thành phần khác như ngày nay. Do thị hiếu của người tiêu dùng mà các lò
bánh mới thêm các thành phần hương liệu khác như sầu riêng, khoai môn, lòng đỏ
trứng muối… Tại Sóc Trăng hiện có gần 50 lò chuyên sản xuất bánh pía. Tuy
nhiên, số lò bánh và cửa hàng buôn bán tập trung đông nhất tại thị tứ Vũng Thơm
(xã Phú Tâm, huyện Mỹ Tú, tỉnh Sóc Trăng) nơi được xem là khởi thủy của làng
nghề bánh pía.
Vịt quay Bắc Kinh và vịt quay Tứ Xuyên là những món “đặc sản” nổi tiếng của
Tàu. Đặc trưng của món vịt quay là da vịt mỏng, giòn, màu vàng sậm. Tại miền
Nam, vịt quay và thịt heo quay cũng được người Quảng Đông đưa vào danh sách ẩm
thực. Bí quyết gia truyền của các món này là ướpngũ vị hương rồi quay sao cho
da giòn tan trong khi phần thịt vừa mềm lại vừa thơm. Vịt quay hoặc heo quay
theo đúng kiểu Tàu là phải ăn với bánh bao chay (không nhân) nhưng người Việt
cũng chế thêm món bánh hỏi thịt quay ăn với các loại rau, chấm nước mắm cho hợp
với khẩu vị. Ngày xưa, trong Chợ Lớn, nổi tiếng về heo quay, vịt quay có khu
vực đường Tôn Thọ Tường, ở Sài Gòn thì khu Chợ Cũ có vài tiệm heo quay của
người Tàu.
Hết “ăn” giờ lại sang đến “chơi” trong ngôn ngữ vay mượn của người Tàu. Chuyện
cờ bạc trong ngôn từ của người Sài Gòn xưa đã xuất hiện không ít những từ ngữ
từ tiếng Tàu. Tài Xỉu (phiên âm từ tiếng Tàu có nghĩa là Đại – Tiểu) là trò
chơi dân gian có từ rất lâu. Chỉ cần 1 cái đĩa, 1 cái bát và 3 hạt xí ngầu cũng
có thể lập sòng tài xỉu nên còn có tên là sóc đĩa. Hột xí ngầu có sáu mặt, mỗi
mặt có từ một đến sáu chấm, tương đương từ một đến sáu điểm. Khi ráp sòng,
người ta để cả ba hột lên chiếc đĩa sứ, chụp bát lên trên rồi lắc. Tổng số điểm
của ba hột từ mười trở xuống gọi là xỉu, trên con số mười là tài. Sau khi chủ
sòng lắc đĩa, người chơi đoán hoặc tài hoặc xỉu mà đặt cược. Chuyện thắng thua
trong tài xỉu tùy thuộc vào tay nghề của người xóc đĩa, còn được gọi là hồ lỳ.
Xác suất chủ sòng là từ 60 đến 70% thắng nhưng vì lỡ mang kiếp đỏ đen nên con
bạc vẫn bị thu hút vào sòng xóc đĩa.
Các loại bài và hình thức chơi bài cũng có xuất xứ từ tiếng Tàu. Binh xập xám
(13 cây) có những thuật ngữ như mậu binh (không cần binh cũng thắng), cù lủ
(full house) là 3 con bài cùng số và một cặp đôi, ví dụ như 3 con chín + 2 con
K (lớn nhất là cù lủ ách (ace), nhỏ nhất dĩ nhiên là cù lủ hai), thùng (flush)
là 5 con cùng nước (suit) mà không theo trật tự liền nhau, ngược lại là sảnh (straight)
là 5 con theo trật tự liền nhau nhưng không cùng nước. Kho từ vựng trong xập
xám còn có xám chi (3 con cùng loại – three of a kind), thú (two) hay thú phé (two
separate pairs) là 2 cặp và 1 con bất kì nào khác. “Thứ nhất tứ quý (4 con bài
cùng số) thứ nhì đồng hoa (cùng một nước như cơ, rô, chuồn, bích)” là một trong
số cả rừng từ ngữ của dân binh xập xám.
Nghề nghiệp được xếp thấp nhất của người Tàu là nghề lạc xoong hay nói theo tiếng
Việt là mua ve chai, người miền Bắc gọi là đồng nát. Chú Hỏa (1845-1901), người
Phúc Kiến, xuất thân từ nghề này nhưng về sau lại là một trong 4 người giàu
nhất Sài Gòn xưa: “Nhất Sỹ, nhì Phương, tam Xường, tứ Hỏa”. Bốn triệu phú ngày
xưa gồm các ông Huyện Sỹ (Lê Phát Đạt), Tổng đốc Phương (Đỗ Hữu Phương), Bá hộ
Xường (Lý Tường Quan) và Chú Hỏa (Hui Bon Hoa hay Hứa Bổn Hòa). (Xem Triệu phú
Sài Gòn xưa)
Một số người Tàu hành nghề bán chạp phô với các mặt hàng thuộc loại tả pín lù
nhưng sẵn sàng đáp ứng được mọi nhu cầu hàng ngày của người lao động trong xóm.
Tiệm chạp phô chỉ có mục đích lượm bạc cắc từ cây kim, sợi chỉ đến cục xà bong
Cô Ba, quả trứng, thẻ đường. Người Tàu kiên trì trong công việc bán tạp hóa,
ông chủ ung dung đếm tiền mỗi tối và ẩn dưới tiệm chạp phô là cả một gia tài
được tích lũy. Người ta chỉ phát hiện điều này khi có phong trào vượt biên.
Tính rẻ “3 cây một người” thế mà cả gia đình chủ tiệm chạp phô vẫn thừa sức
vượt biển để tìm đến bến bờ tự do.
Cao cấp hơn là những xì thẩu, những người thành công trong kinh doanh mà ngày
nay ta gọi là „đại gia“. Điển hình cho giai cấp xì thẩu là Trần Thành, bang
trưởng Triều Châu, với hãng bột ngọt Vị Hương Tố rồi các mặt hàng mì gói Hai
Con Tôm, nước tương, tàu vị yểu đã chinh phục thị trường miền Nam từ thập niên
60 để trở thành “ông vua không ngai trong vương quốc Chợ Lớn”. Xì thẩu Lý Long
Thân làm chủ 11 ngành sản xuất và dịch vụ, 23 hãng xưởng lớn: hãng dệt
Vinatexco, Vimytex, hãng nhuộm Vinatefinco, hãng cán sắt Vicasa, hãng dầu ăn
Nakyco, hãng bánh ngọt Lubico, Ngân Hàng Nam Việt, Ngân Hàng Trung Nam, khách
sạn Arc en Ciel, hãng tàu Rạng Đông…
Xì thẩu Lâm Huê Hồ được nhiều người gọi là “chủ nợ của các ông chủ”. Ông là
người giữ nhiều tiền mặt nhất miền Nam, số tiền ông có tay bằng vốn của nhiều
ngân hàng tư nhân cỡ nhỏ như Nam Đô, Trung Việt gộp lại. Lâm Huê Hồ còn nổi
tiếng là vua phế liệu, chuyên thầu quân cụ và võ khí phế thải rồi bán lại cho
những doanh nhân trong ngành luyện cán sắt hay bán lại cho Nhật Bản. Người Sài
Gòn thường nói: “Trần Thành, Lý Long Thân chỉ có Tiếng nhưng Lâm Huê Hồ lại có
Miếng”.
Xì thẩu Vương Đạo Nghĩa, chủ hãng kem Hynos, là một người có óc làm ăn cấp
tiến. Ông là người có rất nhiều sáng kiến để quảng cáo sản phẩm trên các cửa
hàng ăn uống, chợ búa, hệ thống truyền thanh và truyền hình. Ông cũng là người
đầu tiên biết vận dụng phim võ hiệp và tình báo kiểu Hồng Kông vào quảng cáo.
Người dân miền Nam không thể quên hình ảnh tài tử Vương Vũ giải thoát các xe
hàng do đoàn bảo tiêu hộ tống thoát khỏi quân cướp: mở thùng ra chỉ toàn kem
đánh răng Hynos! Có rất nhiều xì thẩu được Sài Gòn xưa phong tặng danh hiệu
Vua. Trương Vĩ Nhiên, “vua ciné”, là chủ hãng phim Viễn Đông và gần 20 rạp ciné
tại Sài Gòn – Chợ Lớn: Eden, Đại Nam, Opéra, Oscar, Lệ Thanh, Hoàng Cung, Đại Quang,
Palace, Thủ Đô…; Lý Hoa, “vua xăng dầu”, là đại diện độc quyền các hãng Esso,
Caltex, Shell phân phối nhiên liệu cho thị trường nội địa; Đào Mậu, “vua ngân
hàng”, Tổng giám đốc Trung Hoa Ngân Hàng (một trong hai ngân hàng châu Á lớn nhất
tại Sài Gòn cùng với Thượng Hải Ngân Hàng).
Không biết tác giả
Một bài viết hay cho biết nhiều về người Hoa sinh sống ở VN từ xưa và nhiều điều mình ko biết đến hay hiểu sai như về chữ chệc và ba tàu…
ReplyDeleteCám ơn tác giả vô danh và cảm ơn chị Tố Kim chuyển tiếp.