Mấy đời bánh đúc
có xương
Mấy đời mẹ ghẻ mà thương con chồng“
Câu tục ngữ này đã
đi suốt hơn 50 năm trong lòng Ký, kể từ một cái đánh của bà mẹ kế mẫu. Cái danh
từ kế mẫu đã xuất hiện ngay từ lúc ban đầu khi trí khôn của Ký chớm nở bởi vì
không hài lòng với việc ba (pá: tiếng hoa) của Ký đã tiến thêm một bước với người
đàn bà này. Chưa bao giờ Ký kêu người này bằng Má (cấy Má: tiếng hoa) mặc dầu ba
đã bắt buộc và trước những cử chỉ thân thiện chăm sóc, hoạ hoằn lắm Ký mới thốt
lên tiếng Dì theo âm việt.
Gia đình Ký từ
Phúc Kiến, bên Tàu đã bỏ quê hương đến Sài Gòn trong những ngày đầu thế kỷ 20,
sống chật vật khó khăn tận miệt Chợ Lớn. Cuộc đời thay đổi kể từ khi những đứa em cùng cha khác mẹ ra đời và tình
yêu thương của ba cùng sự săn sóc của bà kế mẫu không còn được như ngày xưa.
Ở cái tuổi vừa mới lớn, Ký cảm thấy hụt hẫng vì không có ai quan tâm đến mình,
cái mặc cảm mẹ ghẻ con chồng lúc nào cũng ám ảnh trong đầu và nghe theo lời xúi
giục của bạn bè. Một buổi sáng Ký đem theo một bọc quần áo rồi bỏ nhà ra đi.
Từ Chợ Lớn xuyên
ngang qua Đất Hộ và buổi tối hôm ấy ngủ trong những túp lều chợ Bà Chiều. Những
ngày sau đó thân tự lập thân, Ký bắt đầu phụ việc trong chợ, có khi theo các
ghe chở hàng hóa dọc con kênh Nhiêu Lộc vận chuyển thực phẩm cho chợ Bà Chiểu rồi đến chợ Gò Vấp. Và từ chợ Gò Vấp đem đồ hàng bông,
hoa tươi rau quả mà các nhà vườn ở Hóc Môn, Mười Tám thôn vườn trầu chuyển trở
lại chợ Bà Chiểu.
Từ chợ Bà Chiểu có một con đường đất dẫn đến bờ kênh, một bến ghe nhỏ mà
hằng ngày Ký thường đi qua để vát lên vai những cần xé trái cây rau cải. Trong
con hẻm này, anh Mười là người bạn thân nhất của Ký. Anh làm công cho một hãng
xe hơi của Tây tận Sài Gòn và chờ đến lúc hãng xe cần người học nghề phụ việc,
anh xin được cho Ký một cái nghề ổn định rất sáng giá mà biết bao đứa trẻ bụi đời
như Ký từng mơ ước.
Kể từ đó Ký sống trọ chung gia đình anh Mười, hằng ngày anh chở Ký đi làm và đi
học việc. Buổi tối quây quần bên mâm cơm cùng gia đình anh, Ký nhớ đến ba và
các em của mình da diết. Nói nào ngay từ lúc con Ba vừa chào đời, Ký quấn quýt
với đứa em này như hình và bóng. Có khi nỗi nhớ dâng trào hình ảnh con Ba chập
chờn trong giấc ngủ đã làm cho Ký có một ý nghĩ là ngày mai sẽ trở về căn nhà
cũ để nhìn lại thằng Tư rồi quỳ xuống xin lỗi ba. Nhưng cái ấn tượng một đôi mắt
lạnh lùng cùng nụ cười nửa miệng của bà dì kế mẫu đã kiềm chế. Ký tự nhủ thầm
chỉ trở về nhà một khi mình giàu có, một khi tất cả mọi người phải nhìn mình bằng
một cặp mắt thán phục và ngưỡng mộ.
Dòng đời từ từ trôi. Năm 1939 chiến tranh được phát động trên thế giới, một vài người bạn đã hưởng ứng lời kêu gọi của chính quyền thực dân, phong trào tình nguyện sang Pháp bằng cách gia nhập vào đội quân Lính thợ Đông dương: Ouvier non specialise (O.N.S) tại Sài Gòn. Lúc này Ký đã trở thành một thợ máy chuyên nghiệp nên được ưu tiên khi vào ghi danh phỏng vấn. Nhưng có lẽ cái số của Ký không thể xuất ngoại hay là sao Thiên di lại nằm trong cung Triệt không biết chừng, Ký bị loại ngay vòng sơ tuyển bởi vì giấy tờ cá nhân không hợp lệ và nhất là không chứng minh được nguyên quán. Nhưng đó cũng là cái may mắn cho số phận của Ký, bởi vì trong tổng số 20.000 lính thợ Đông Dương, sau khi Pháp thua trận chỉ có khoảng một phần tư là được trở về lại Việt Nam. Số còn lại phải tự tìm đường sống hoặc tự tìm cách hồi hương.
Kể từ khi Pháp trở lại Việt Nam sau thế chiến thứ hai, bắt đầu từ Nam Kỳ lục tỉnh, tình hình chính trị càng ngày càng phức tạp. Miền Tây quê của anh Mười cũng vậy, ban ngày lính Pháp cùng quân đội Quốc gia thân Pháp hay quân đội Hoà Hảo thân Nhật bố ráp tra hỏi, ban đêm thì Việt Minh đốt đuốc lùng bắt người tình nghi chặt đầu rồi bỏ xác thả trôi sông.
Một người cháu gái
bà con của anh Mười bắt đầu xuất hiện trong căn nhà và trái tim của Ký cũng bắt
đầu rung động.
“Em đã đến giăng sầu trên mắt ngọc
Cửa tâm hồn vừa nhập tiếng yêu thương
Đôi môi chợt thẹn thùng sau suối tóc
Anh nghe lòng một tình cảm vấn vương
Xin đừng hỏi sao tình anh rào rạt
Đời anh nhiều nét chấm phá trong tim
Bao năm rồi lòng anh tan nát
Vì gia đình, tự ái tủi hờn
Giờ chỉ còn một tình yêu mộc mạc
Hãy vì anh vì hạnh phúc vô biên…“
Hai tâm hồn cô
đơn, không cha mẹ nên nỗi lòng càng gắn bó cùng nhau. Tuy tuổi tác hơi chênh lệch
bởi vì nàng chỉ mới hơn 16 và tiếng xưng hô đầu tiên là chú cùng con ngọt xớt.
Cô bé nhà quê
khoanh tay với câu:
-Dạ con chào chú.
Tự nhiên Ký bỗng
thấy mình chững chạc và lớn hẳn lên, nhưng kìa với nụ cười e thẹn, hàng lông
mày cong vút và đôi má đỏ hây hây. Một nỗi xao xuyến bất chợt nẩy mầm.
Cho mãi đến một
hôm chỉ một câu nói làm Ký sửng sốt, khi bàn luận về vấn đề giàu nghèo hay tài
giỏi với cái ý định hồi xưa vì muốn thoát cảnh nghèo, Ký đã xin tình nguyện xuất
ngoại sang Pháp bằng con đường Lính thợ Đông Dương để mưu cầu tương lai tươi
sáng.
Cô bé nhà quê chợt
lên tiếng:
-Xin đừng nói là
mình nghèo mặc dù mình tài giỏi mà phải tự hỏi rằng tại sao mình giỏi mà lại
nghèo!
Một câu nói thật
triết lý từ cái vốn liếng ít học mà thông minh của cô bé đã làm cho Ký đắm say
trong một tình yêu đầu đời. Anh Mười hoàn toàn ủng hộ nhưng cô bé chần chừ do dự
vì tuổi đời còn quá trẻ.
Nửa năm quen nhau,
sống cùng trong một căn nhà ba gian, chưa một lần nắm tay trò chuyện riêng tư,
chưa một lần hò hẹn. Nhưng “tình trong như đã, mặt ngoài còn e.” Một hôm, sau
buổi cơm trưa trong hãng, anh Mười đang chuẩn bị nằm giải lao thì Ký ngồi bên
thỏ thẻ:
-Anh là ân nhân của
cuộc đời em, em muốn gắn bó hơn một chút nữa. Xin anh cho phép em kể từ ngày
hôm nay được phép gọi anh là Cậu Mười.
Anh Mười ngồi nhỏm
dậy rồi cười nói:
-Uý mèn ơi! Tao chờ
tiếng cậu của mày dài đến mấy tháng rồi đó nha Ký. Nó không có người thân nào
ngoài một mình tao. Chuyện của tụi bây chị Mười của mày cứ lo canh cánh trong
lòng, được rồi tối nay hai mặt một lời, để tao hỏi ý kiến nó rồi quyết định.
Cô bé chỉ tủm tỉm
cười khi gặp mặt anh và thường lẩn tránh lúc đụng chạm trong bếp. Ký biết là
câu chuyện buổi trưa trong hãng, anh Mười đã thuật lại cho chị và dĩ nhiên cô
bé cũng đã biết, bởi vì cặp mắt bẽn lẽn nhìn anh bằng cái đuôi của con mắt.
Mâm cơm đã dọn ra
nhưng chờ hoài mà vẫn không thấy cô bé ngồi cùng bàn như thường lệ. Tiếng anh
Mười thúc giục:
-Thôi ăn đi, đừng
chờ nữa. Con gái nào cũng vậy, hở nhắc đến chuyện chồng con là mắc cỡ. Hồi đó
chị Mười mày cũng vậy thôi.
Tiếng chị Mười
nói:
-Tâm sự của con bé
chị biết rõ, nó mồ côi ba má, mà em Ký thì còn có gia đình, tại sao lại tự tay
cắt thịt của mình. Nó rất thương em và nhất là mong muốn em dẫn nó về nhà giới
thiệu với gia đình của em.
Ký ngồi ngây người
mà suy nghĩ, anh chị Mười nhắc khéo đến lần thứ hai mới cầm bát cơm mà nhai một
cách chậm chạp.
Dưới tàn cây mít,
buổi tối gió thổi hiu hiu từ bờ sông vào, Ký đưa tay đón nhận điếu thuốc của
anh Mười. Rít một hơi thật sâu vào buồng phổi rồi nhẹ nhàng thở ra, trong cái
không gian mát rượi những làn gió đã xua tan khói thuốc, Ký chậm rãi nói:
-Thú thật với anh
chị, cách đây vài năm khi em có ý định đăng vào lính thợ để được cơ hội sang
Pháp. Em tìm về nhà cũ ở Chợ Lớn để từ giã nhưng than ôi. Lối xóm cho biết là
sau khi em bỏ nhà thì một thời gian ngắn cả gia đình em cũng dọn nhà và không
biết đi đâu, có người nói rằng có thể đã quay trở về Trung Hoa. Bây giờ em cũng
là một người vô gia đình đúng nghĩa rồi anh chị ạ.
Chị Mười ồ lên một
tiếng và nói:
-Vậy thì hai đứa
cùng một hoàn cảnh, thôi thì để chị đi coi thầy xem ngày nào tốt làm một mâm
cơm, cúng vái ông bà tổ tiên cho danh chính ngôn thuận rồi từ từ kiếm lại gia
đình của em sau.
-Dạ, em cảm ơn anh
chị.
Anh Mười khẽ đập
vào vai nói:
-Cái gì mà anh chị,
từ rày về sau phải gọi là cậu mợ nghe chưa.
-Dạ, Em xin cảm ơn
cậu mợ Mười.
Chị Mười cười dòn
ran.
-Cái thằng này.
Thế chiến thứ hai chấm dứt, nước Pháp suy nhược vì chiến tranh. Muốn khôi phục lại kinh tế nước nhà thì cách nhanh chóng và hay nhất là lấy tiền của người khác làm tiền của mình. Bán đảo Đông Dương là một tài nguyên phong phú nên Thực dân Pháp không can tâm bỏ mất. Nhưng lúc này người dân Việt Nam đã có tầm nhìn khác trong thời gian Pháp đang bị Đức xâm chiếm và cai trị. Sự chống đối trực diện hay ôn hoà xảy ra và khiến nhiều Pháp kiều; người có đầu óc thực tế từ từ bán những tài sản hiện hữu tại Việt Nam để chuyển sang bên Pháp.
Ông phó giám đốc
hãng xe hơi tên Sạc (Charles) biết anh Mười ở gần hương lộ 15 (route provinciale
nr. 15) nên có ý định nhờ anh tìm người mua miếng đất của ông nằm trên hương lộ
này, toạ lạc giữa hai khu chợ Bà Chiểu và Gò Vấp.
Anh Mười giới thiệu hai vợ chồng Ký, đang tìm chỗ cất nhà , ông gọi vào văn
phòng hứa hẹn:
-Moa giữ đất dùm
cho toa, cất nhà ở bên hông còn bao nhiêu thì bán.
Ngay buổi chiều
hôm ấy, Ký và anh Mười vội vã đi coi đất. Vị trí rất thuận lợi gần đường rày xe
lửa xuyên nam bắc và nhất là cũng có một đường xe lửa nhỏ nội thành từ ga Gò Vấp
Xóm Thơm chạy thẳng đến Sài Gòn đi qua những giao lộ Bình Hoà, Bà Chiểu, Đất Hộ Đa Kao.
Vị trí đắc địa
nhưng không người nào dám bỏ tiền mua chỉ vì một lý do là phía trước khu đất, một
cái giếng đã lấp kín mà dưới giếng là xác 12 chiến sĩ trận vong đã bị quân Pháp
giết trong thời kỳ tầm vông vạt nhọn chống Pháp.
Trở về giai đoạn kể
từ khi Ký bỏ nhà ra đi, bà dì vô cùng hối hận vì một cái tát tai. Những năm
chung sống lúc nào bà cũng cố gắng chu toàn thương yêu chìu chuộng Ký, nhiều
khi hành động của Ký không làm bà hài lòng nhưng câu ca dao tục ngữ mà bà từng
biết qua văn chương Việt Nam:
“…Dì không mang nặng
đẻ đau
Đứt dây mà xót thương bầu bí ơi!
Kệ cho bánh đúc mấy đời
Người ăn người lại nói lời nghiệt cay
Sang ngang một chuyến đò đầy
Sông sâu run cả vòng tay đôi bờ
Đêm nay cánh cửa khép hờ
Dì không ngủ được nằm chờ bước con.”
(khuyết danh)
Mấy ngày nay cả
nhà rối tung lên vì sự bỏ đi của Ký, cái câu mẹ ghẻ con chồng cứ nghe xầm xì
vào lổ tai. Bà quyết định giao con cho chồng và cố tìm Ký cho bằng được.
Ngang qua khu chợ
đang xây dựng tại xóm Bình Tây. Một công viên nhỏ mà ở giữa là một vòi nước.
Khi bà ghé đưa miệng vào uống từng ngụm nước, mắt ngẩng đầu lên nhìn. Một bức
tượng bán thân mà phía dưới là hàng chữ Quách Đàm, người sáng lập chợ.
Mình cũng họ
Quách, bà thầm nghĩ trong đầu. Ông Quách Đàm chính là một đồng hương người Hoa
của dòng họ, ông đến Sài Gòn bằng một đôi ve chai thu mua vật liệu phế thải mà
bây giờ lại bỏ tiền xây chợ với mục đích đầu cơ một trung tâm buôn bán thương mại.
Cách làm ăn này bà biết rõ, lúa gạo miền nam thật là trù phú mình phải bắt chước
ông ta.
Thế là bà vội vã
quay trở về nhà, bàn luận với chồng. Trong thời gian đi dò hỏi tung tích Ký, bà
lặn lội tìm đến tận gốc thu mua lúa gạo ở miền Tây nhờ tàu bè chuyên chở đến Chợ
Lớn.
Ngày qua ngày khi
có một số vốn trong tay, cả nhà dời ra khu vực bờ sông Sài Gòn lập những chành
lúa gạo mà buôn bán và sinh sống.
Cuộc đời từ đó trở
nên thịnh vượng, những đứa con của bà, đứa em của Ký được học trường Tây. Một
tương lai sáng lạn trải thảm nhung sẵn sàng chờ đón. Những năm đầu, trong tuần
lễ ngày sinh của Ký bà thường đăng báo tìm kiếm trên những tờ Phụ Nữ Tân văn,
Nam Kỳ Thời báo…
Chuyện đời xảy ra
không một ai lường trước được, khi thật sự nhà của bà ở phía bờ sông Sài Gòn mà
bây giờ có tên gọi là Bến Chương Dương chỉ cách đại lộ Catinat, hãng xe của Ký
làm việc không đầy 2 cây số và đôi lúc Ký đã từng đạp xe ngang qua trường
Taberd mà không ngờ rằng em của mình đang có mặt trong trường này.
Thế mới biết:
“Chuyện đời thường,
không lường trước được Dòng thời gian, như nước chảy qua Đi tìm hạnh phúc thì
ra Gần trong gang tấc mà xa nghìn trùng“
(HND.)
Trong những tác phẩm
của nhà văn Hồ Biểu Chánh, nếu không viết về đất Sài Gòn Gia Định thì thôi. Quyển
sách nào mà nhắc đến đất Gia Định xưa, thì cái địa danh Xóm Gà là nơi dừng chân
an nhàn dưỡng già cho những nhân vật ông Đốc, ông Phủ.
Xóm Gà là một địa
danh quen thuộc đã có từ trước thực dân Pháp xâm chiếm miền Nam. Có một truyền
thuyết cho rằng nơi đây là trại nuôi gà đá của Đức Tả Quân Lê văn Duyệt.
Những hương lộ
mang số 15 (Lê Quang Định), 18 (Hoàng hoa Thám), 20 (Ngô tùng Châu)… bao quanh
Xóm Gà bằng những rừng tre, hàng cây sao, cây bàng to lớn tạo nên những khu rậm
rạp mà người dân phải gọi là rừng non.
Khi hai vợ chồng
Ký về cất một ngôi nhà tranh vách ván nền đất, chung quanh đã có nhiều nhà cư
ngụ nhưng đại đa số là chiếm đoạt đất công hay của những Pháp kiều mà họ không
biết ai là chủ đất.
Hằng ngày đi làm,
Ký không còn phải đạp xe bởi vì gần nhà là một trạm ga xe điện. Lúc này các
chuyến xe lửa nội thành không còn chạy bằng toa kéo đầu xe lửa mà đã thay thế bằng
xe điện.
Bắt đầu từ ga Xóm
Thơm Gò Vấp, đường rày xe lửa chia nhiều nhánh nhỏ tạo thành nhiều hướng khác
nhau. Hướng xe điện đi về phía những nhà ga: Đông Nhì, ngã chắn Xóm Gà, Bình
Hoà và ngừng tại chợ Bà Chiểu dọc theo đường làng số
15.
Từ chợ Bà Chiểu, xe điện lấy thêm khách chạy thẳng qua một cây cầu sắt để vào Đất Hộ-Đa Kao. Song song với chiếc cầu sắt xe điện này là cây cầu Bông, mà đã có một câu hát quen thuộc hầu như ai ai cũng biết:
“Ai đang đi trên cầu Bông.
Té xuống sông ướt
cái quần ni long…”
Xe điện rời ga Đất Hộ quẹo theo đường Rue de Bang kok (Mạc đĩnh Chi) để đến đường Norodom (Thống Nhất), rồi đi dọc đường Boulevard Luro (Cường Để) chạy thẳng tới Bến Bạch Đằng, đường Charne (Nguyễn Huệ); nơi Ký xuống để đi làm tại hãng xe ở đại lộ Catinat (Tự Do), xe điện chạy tiếp rồi quẹo vào đường De Somme (Hàm Nghi) và cuối cùng là chợ Bến Thành; ga Sài Gòn.
Sau khi ông Ngô
đình Diệm lên làm Tổng Thống, xe điện đã dừng hoạt động và việc chuyên chở công
cộng lại trở về bằng xe thổ mộ.
Những buổi chiều
đi làm về, một hạnh phúc tràn ngập trong lòng mỗi khi bước xuống ga Đông Nhì,
nhìn thấy vợ ẵm con ra chào đón. Tiếng bi bô của đứa trẻ, tiếng ríu rít mừng
vui hỏi thăm của vợ khi trao con cho chồng bế theo con đường nhỏ trở về căn nhà
hạnh phúc; có giàn mướp trước hiên, hàng chuối cao chạy dài bên hông và phía
sau những cây vú sữa cây mận cây mãng cầu trồng xen kẽ những bụi ớt đang ra
trái.
Rồi biết bao đêm
trăng sáng, lòng trằn trọc không ngủ được, Ký châm điếu thuốc ra ngồi ngoài
hiên nhà mà suy nghĩ mông lung. Không biết ba và các em cùng bà dì kế mẫu đang
lưu lạc phương nào, có ung dung thảnh thơi hưởng cái hạnh phúc gia đình, tuy
không giàu có nhưng cơm no áo ấm giữa chuyển biến chính trị của thế giới trong
khuynh hướng hai đàng Quốc gia và Cộng sản.
Nhìn những vì sao
trên trời lung linh ẩn hiện, không biết ngôi sao nào là vì sao bổn mệnh của
mình? Ngôi sao nào là của người thân? Phải chi ngày đó mình đừng quá tự ái, kềm
chế nóng giận. Hoặc mình khoanh tay xin lỗi hay phải chi mình đừng bỏ nhà đi
hoang. Ký tự nhủ thầm: Một thằng con trai trưởng trong gia đình, rồi bất ngờ Ký
chảy nước mắt khi từ trái tim vang dội những thổn thức Pá ơi! Dì ơi! Các em ơi!
Mọi người đang ở đâu.
Ký ức ngày xưa từ
từ trôi vào quên lãng, con cái lần lượt trưởng thành. Mỗi lần các con hỏi thăm
về gia cảnh dòng họ bên nội. Ông Ký chỉ giải thích vắn tắt:
-Ba cùng ông nội từ
bên Tàu đến Sài Gòn kiếm sống rồi bị thất lạc, không biết bây giờ ông nội còn sống
hay đã mất rồi.
Bốn mươi năm trôi
qua, tất cả đã chìm vào quên lãng. Ông Ký đã về hưu, mảnh đất của ông Tây tên Sạc
đã bị chia năm xẻ bảy, nhất là trong thời gian nền Đệ nhất Cộng hoà ra đời.
Người dân miền Trung đổ vào Xóm Thơm lập nghiệp mở hãng dệt, rồi hợp thức hoá
giấy tờ, không còn ai nhớ nổi cội nguồn của miếng đất này nữa.
Năm 1970, có một 2
vợ chồng từ Tây Ninh chạy loạn sau biến cố Tết Mậu Thân vào trú ngụ ở xóm
trong, buôn bán qua ngày. Một buổi sáng nào đó ông Ký từ trong nhà đẩy chiếc xe
gắn máy mà không cẩn thận làm người vợ ngã xuống đất, ông hốt hoảng xin lỗi và
đưa tay nâng chị đàn bà lên. Khi bàn tay của ông vừa chạm vào thì chị ta bỗng
chụp lấy tay ông thốt lên:
-Chú hai ơi chú
đang gặp vận may rồi đó, cháu thấy ánh sáng tỏa ra quanh người của chú giống
như hào quang trên toà Thánh Tam Kỳ Phổ Độ ở quê cháu đó chú hai.
Ông Ký ngạc nhiên
hỏi:
-Chị té có nặng
không, có đau nhức chỗ nào không? Chị nói gì mà tui không hiểu gì hết.
Người đàn bà tiếp:
-Có một sự may mắn
sẽ đến giúp đỡ, sẽ đem lại cho chú giàu sang tột cùng. Hay là chú phải đi mua
vé số liền đi chú.
Người chồng đứng kế
bên nói vào:
-Vợ con lâu lâu lại
bị bà nhập đó chú hai, mà nhiều lúc nói cũng linh nghiệm đó chú. Chiều nay nếu
chú rảnh, xin mời chú vào nhà tụi con để nó xem cho một quẻ.
Ông Ký cười thầm
trong bụng, chắc là muốn quảng cáo coi bói đây mà, nhưng ông cũng giả lả:
-Thôi được để tui
mua vé số hôm nay. Nếu mà trúng thì tui xin biếu chị một phần.
Vài tuần lễ sau,
trên đường từ Sài Gòn về nhà, ông không như thói quen mà bỗng dưng chạy dọc
theo con đường Phan đình Phùng, con đường có nhiều tàng cây me thoáng mát cho
buổi chiều vừa nhạt nắng
Chiếc xe gắn máy
đang chạy bỗng khịt khịt liên hồi rồi không chịu chạy tiếp nữa. Là một thợ máy
hơn 40 năm vật lộn với dầu nhớt, ông biết chuyện gì sẽ xảy ra. Tấp vội vào bến
xe lam bên vệ đường và cắm cúi quan sát nguyên nhân.
Một cánh cửa sắt
bên hông căn biệt thự sang trọng mở hé ra, tiếng chó sủa vang rền. Hai con chó
bẹt rê to lớn chạy về phía ông vội bị khựng lại vì sợi dây ghì từ phía sau bởi
một người đàn bà trung niên. Một ông già cầm cây gậy ba ton lững thững từng bước
chân chậm rãi bước theo. Ông Ký ngẩng đầu nhìn và đầu óc bỗng quay cuồng. Chẳng
lẽ là Pá của ông! Ông khóc lúc nào mà ông cũng không biết.
Năm mươi năm đã
trôi qua, nhưng những nét quen thuộc của ba ông không bao giờ phai nhoà trong
tiềm thức.
Ông cụ nhìn chăm
chăm vào khuôn mặt đầm đìa nước mắt của ông Ký rồi buông rơi cây gậy ba ton, ngồi
bệt xuống đất thở dồn dập, một tay chặn lồng ngực một tay như vẫy gọi ông lại gần.
-Nị là thằng Ký?
Thằng Ký có phải không?
Hai cha con ôm chầm
lấy nhau ở giữa đường đi bộ, chỉ có tiếng khóc thút thít, bao nhiêu lời nói
không thốt lên vì nỗi vui mừng rào rạt của hai trái tim già cằn cỗi, hai mái đầu
bạc xen lẫn vào nhau.
Từ xa người đàn bà
trung niên tay ghì hai con chó, dõi đôi mắt ngạc nhiên nhìn hai ông già đang ôm
khóc mùi mẫn cho đến khi ông cụ cất tiếng gọi:
-Con sen đâu rồi,
mầy chạy vô nhà kêu bà ra đây ngay, nhớ kêu luôn chú tài dẫn chiếc xe gắn máy
này vào nhà.
Một lúc sau, có tiếng
chân vội vã chạy ra
Hai mẹ con ôm chầm
lấy nhau trong tiếng nức nở nghẹn ngào: Ký ơi! Con ơi! Dì ơi!
Tất cả thành viên
trong nhà gồm đủ hai người đàn bà giúp việc và chú tài xế, không ai ngăn
được niềm xúc động tột cùng. Năm mươi năm, một nửa thế kỷ. Cuộc hội ngộ bất ngờ
vô tiền khoáng hậu vì chiếc xe chết máy ngay trước căn nhà của người cha đã thất
lạc đứa con trai đầu lòng.
Tiếng đầu tiên của
dì thốt lên:
-Đúng là thằng Ký
đây rồi, Trời ơi sao mà nó giống ông như in vậy kìa. Khuôn mặt chữ điền, râu
quai nón, tóc quăn và nhất là cặp lông mày rậm hơi chênh chếch. Ký con ơi, con
có biết là dì thương nhớ con biết dường nào không con.
-Dạ con biết, con
xin lỗi dì. Ông nghẹn ngào nói qua nước mắt.
Bà dì bỗng lớn tiếng
nói:
-Ông gọi điện kêu
con Ba thằng Tư bỏ hết công chuyện về đây ngay. Mà cũng gọi hết mấy đứa khác nữa
nha.
Đưa bàn tay vuốt
lên mái đầu bạc hoa râm của ông Ký, bà nói tiếp:
-Con sống hiện giờ
ở đâu, vợ con thế nào?
Ông Ký thuật sơ về
gia cảnh của gia đình trong khi bà dì lúc nào cũng nắm giữ bàn tay của ông, nắm
chặt như sợ rơi mất như năm nào vậy.
-Tội nghiệp con
tôi, tội nghiệp cho con tôi. Bà dì chép miệng nhìn ông Ký bằng một đôi mắt trìu
mến.
-Để từ từ rồi con
về đây ở chung nhà như ngày xưa nha con, nhà rộng lắm. Nhà này là của con Ba đó
con, chỉ có ba, dì và con Ba mà thôi. Mấy đứa khác đều ra riêng, ở nhà khác
cũng gần gần trong thành phố.
Ông Ký giật mình:
-Cái biệt thự này
là của em Ba? Chồng nó làm gì mà giàu quá vậy dì.
-Nó chưa có chồng,
lo học rồi lo làm kinh doanh nên không chịu lấy chồng. Nhà này tự tay nó bỏ tiền
mua lúc các em con thành tài. Bây giờ nó có một hãng bào chế thuốc tây nên cũng
gọi là thành đạt.
Ông Ký tỏ vẻ ngạc
nhiên:
-Hãng bào chế thuốc
tây? Em Ba là dược sĩ?
Tiếng ba ông xen
vào:
-Ừ, con Ba là dược
sĩ, thằng Tư là bác sĩ, còn thằng Năm là Kỹ sư, con Út sáu là giáo sư đại học.
Tất cả đều do dì của
con một tay đào tạo đó con.
Trong lòng Ký bất
chợt trào lên những nỗi niềm; mừng vui khi biết các em mình đều vinh hiển sang
giàu nhưng niềm tủi hổ bỗng nghẹn ngào cay đắng cho thân phận của mình. Cái dư
âm lời nói “Tất cả đều do dì của con một tay đào tạo,” nghe như một mũi dao đâm
thẳng vào lồng ngực.
Cái câu ca dao Việt
Nam mà từ nhỏ ông đã thuộc lòng, bây giờ tự đáy lòng của ông vẫn còn văng vẳng:
Mấy đời bánh đúc
có xương
Mẹ tôi, dì ghẻ
cũng thương con chồng.
MẸ ƠI! CẤY MÁ ƠI!
Hồ Ngọc Danh
Cám ơn chị Tố Kim, tác giả Hồ Ngọc Danh , một câu chuyện gia đình thật hay và ly kỳ , kết cuôc có hậu quá!
ReplyDeleteHồng Thúy