Wednesday, July 30, 2025

Bữa Cơm Miền Tây




Hấp dẫn quá phải không quý bạn?

Chuyện Tình Không Đọan Kết - Sỏi Ngọc

Photo: Thái Phúc Nguyễn


Nhìn các con tôi được sanh ra và lớn lên ở đất nước thứ hai đã xong đại học, cả ngày bôn ba, ban ngày đi làm, chiều về làm cơm nước lo gia đình con cái, tối lại lấy thêm course để kiến thức được luôn cập nhật, làm tôi chạnh nghĩ đến cuộc đời mình đã từng như thế trong suốt mấy chục năm qua.


Mới đó, một chớp mắt đã 40 năm ở xứ người mà tôi cảm thấy thân quen hơn quê hương thứ nhất nơi chôn nhau cắt rốn; 40 năm chưa một lần tôi quay trở về thăm nơi ấy, vì ba tôi, chú tôi, những người anh và các bạn tôi một thời sống ở chính nơi mình được sanh ra, đã bị bắt bớ, tù đầy mà không biết vì tội tình gì! Nay kẻ chết, người thành phế nhân…

Tuy nhiên, nền văn hóa Việt và truyền thống đạo đức đẹp đẽ Á Đông vẫn mãi chảy trong huyết quản của tôi.

Một cuộc tình không đoạn kết mãi mãi ghi dấu ấn trong trái tim tôi, đã chôn vùi tận sâu trong lòng, hôm nay bỗng hiện về:

Tôi bắt đầu làm ngân hàng Montreal ở tuổi 26 khi vừa ra trường 1990.

Tôi nhớ ngày đầu tiên, họ dắt tôi vòng quanh xuống basement của một tòa nhà hai tầng thật to và bề thế, lối vào là một sảnh rộng, sàn làm bằng ceramic trắng bóng loáng, soi thấy cả bóng dáng người. Bên trái sảnh là một giàn sáu cô tellers tiếp khách, rút và bỏ tiền vào công, cuối gian phòng cô thư ký ngồi cho bất kỳ câu hỏi nào của khách.

Công việc của tôi là xếp những tấm séc của khách hàng theo thứ tự của số tài khoản, thuở ấy, chưa có máy móc nên tất cả phải xếp bằng tay, chỉ ngồi xếp chi phiếu theo thứ tự thôi, cần đến ba người vì cả ngàn tấm, kế đến phải dò trên hồ sơ nhận từ head office mỗi sáng, chi phiếu nào bắt buộc hai chữ ký vì tài khoản hai người đứng tên, hoặc account nào bị vấn đề, phải đem tấm séc đó so sánh với chữ ký trên hồ sơ chính lần đầu mở tài khoản…

Những công việc này kéo dài hết hơn nửa ngày; sau đó chúng tôi mới ngồi vào máy bấm những tài khoản để rút tiền từ những tờ chi phiếu đó. Việc này tuy là thấp nhất, nhưng đòi hỏi rất nhiều sự tập trung chú ý, vì nếu bấm vào máy lộn một con số thì Nợ và Có sẽ không cân bằng, phải mất rất nhiều thì giờ để coi lại từng cái check với từng con số đã bấm vào máy.

Nhóm chúng tôi gồm 6 người, ba người xếp chi phiếu, hai người bấm máy, một người chạy việc phụ bên ngoài như coi hồ sơ, dò chữ ký… và xoay tua vào mỗi hai ngày.

Tôi học việc rất nhanh, hòa đồng với mọi người; làm được hai năm thì tôi nghỉ một năm sanh con, rồi trở lại làm việc. Vì công việc đã quá quen đến thuộc lòng, tôi định bụng sẽ thi lên một chức vụ mới.

Giờ cơm trưa được một tiếng, cả đám ngồi quây lại với nhau ăn uống, đứa nào cũng đem bánh mì sandwiches với trứng hay jam, chỉ mỗi mình tôi thường đem bún với thịt và rau để ăn cho nhẹ bụng, khi hâm lên mùi thịt xào hành tỏi bay khắp bếp. Từ đó ai cũng để ý đến tôi, và cũng chỉ có mỗi mình tôi là người Á Châu làm việc trong ngân hàng giữa những người tóc vàng và nâu. Chúng tôi nói chuyện với nhau thật rôm rả, ai cũng kể hoàn cảnh gia đình mình ra sao, rồi chia ăn thử đồ ăn của nhau, nhất là món ăn của tôi ai cũng muốn thử!

Thói quen của những người Tây phương là chỉ rửa bát vào cuối ngày, khi bồn đầy chén dĩa, chứ không như người Á Đông, rửa ngay và úp chén cho sạch sẽ. Bữa trưa hôm đó, chén bát bày bừa, tôi thấy khó chịu nên tự ý đi rửa để có cái sạch cho tốp sau vào ăn, từ một giờ đến hai giờ trưa thường là những cấp bậc cao như cố vấn, chuyên viên, giám đốc… Phần lớn hôm nào cũng chỉ một mình tôi đứng rửa bát và xếp vào tủ thật ngăn nắp vì như đã nói ở trên tôi làm việc rất nhanh vì thạo việc nên không cần nhiều thì giờ lắm.

Hôm nay vì chén bát hơi nhiều, tôi rửa mãi vẫn chưa hết, cho đến hơn một giờ, tôi nghe tiếng nói trầm ấm của người đàn ông vang lên sau lưng:

-Cô LiLy siêng năng quá!

Tôi quay lại bắt gặp Martin, giám đốc phân khoa cố vấn, tôi niềm nở chào :

-Chào anh, anh khỏe chứ?

Martin đứng bên cạnh tôi, tay cầm hộp cơm đem từ nhà, định hâm lại:

-Mình làm cùng một nhà băng, mà chẳng bao giờ có thì giờ nói chuyện với nhau, lâu lâu gặp nhau ngoài cửa hoặc vào những buổi họp, tôi chỉ biết nhóm các cô làm việc rất tốt, cho chúng tôi một hậu thuẫn rất đắc lực, nhờ nhóm làm việc cẩn thận nên khách tôi rất hài lòng, gởi lời khen đến các cô đấy.

-Anh đã quá khen thôi; chúng tôi chỉ làm việc theo yêu cầu của khách hàng, khi làm việc phải rất thận trọng, kỹ lưỡng, cũng muốn ngân hàng mãi giữ vị trí số một của Montreal chứ…. Vả lại công việc này tôi đã làm được ba năm nay rồi, nên rất rành, đến thuộc luôn những tên của khách “xộp”.

-Hôm nay tôi mới có cơ hội gặp cô để nói tiếng cám ơn… và đến cả nhóm cô luôn.

-Chúng tôi thường xuyên làm việc dưới basement nên chỉ biết các vị giám đốc, cố vấn … trên list tên của sở, chưa bao giờ được gặp trực tiếp và nói chuyện như vậy…. Hôm nay vì phải rửa đống chén này nên mới có dịp gặp anh!

-Oh mà sao không có ai giúp… em rửa hết vậy? họ ăn xong là bỏ đi hết như vậy sao?…thật bậy quá!

Anh ta lục lọi xung quanh chỗ tôi đứng, lôi ra một cặp găng khác, đeo vào tay và cùng giúp rửa với tôi. Tôi vội vàng xô nhẹ anh ta ra, nói:

-Anh hãy đi ăn cơm trưa đi, không đói hay sao mà đứng rửa chén chứ?… Coi chừng xỉu vì cái bụng rỗng đấy!

Chàng cười vui, để lộ hàm răng trắng đều:

-Tôi cũng muốn được hàn huyên với em một chút đó mà, chén không còn nhiều nữa, hai người rửa sẽ mau hết thôi.

Lần đó tôi mới biết người ta thường nói đàn ông tây phương ga-lăng quả là không sai. Martin vừa rửa chén, rồi lau và xếp vào tủ rất nhanh và thành thạo, còn khoe thành tích :

-Hồi tôi học trung học, đã từng đi làm ở những restaurant rồi nhé, từng khiêng đồ ăn, lấy menu, và rửa bát rất rành, đừng chê tôi đấy!

-Tôi đâu có dám chê, mà ngược lại, phục anh quá, thấy anh rửa là biết người có kinh nghiệm rồi, không có anh giúp thì chắc tôi phải đứng đây thêm nửa tiếng nữa đấy…Lại trễ giờ làm việc!

-Hôm nay nhóm em có nhiều công việc không?

-Cũng không nhiều lắm, chúng tôi rất quen và thạo việc nên cũng không bận lắm.

-…Ah mà em đã làm công việc này bao lâu rồi nhỉ? Nếu hơn hai năm rồi thì nên đổi việc đi!…Có thích công việc đầu tư không? …Nói chuyện với khách, cố vấn họ đầu tư vào loại nào…Em hãy gởi resume cho tôi, phân khoa chúng tôi đang cần người đó!

Chàng như đọc được ý định của tôi.

-Chắc chắn là tôi thích đổi việc rồi, mà …có nhiều người thi vào công việc này không?

-Khoảng vài người thôi, em cũng rất có cơ hội mà, đừng sợ nhé, hãy tự tin chứ!

Tôi nhìn thẳng vào cặp mắt Martin, giữa bóng tối của gian bếp, cặp mắt trong xanh lơ của anh ta thật sáng và đầy cảm tình, cho tôi thêm sự tự tin, chàng lập lại :

-Đừng lo, làm việc với tôi em sẽ tràn đầy năng lượng mỗi ngày…

***

Martin đã hỏi về cách làm việc của tôi rất nhiều qua giám đốc trực tiếp, nghiên cứu resume, nói chuyện với bà giám đốc nhân sự, ai cũng nói tôi rất chăm chỉ, có trách nhiệm và vui vẻ hòa đồng với mọi người.

Chức vụ đó có 4 người thi vào, tôi thật sự rất lo vì ngoài trình độ học vấn không kể đến, họ cùng là người bản xứ, cùng suy nghĩ và tiếng nói với nhau, lẽ nào lại chọn tôi? một người gốc Á, tỵ nạn ở nước họ chưa được bao lâu!… Thôi kệ cứ thi đại cho có kinh nghiệm.

Niềm vui vỡ òa khi một tuần sau đó tôi nhận được email người trúng tuyển vào chỗ trống đó là tôi! Các bạn dưới basement ôm hôn tôi và chúc con đường sự nghiệp của tôi được thăng tiến, nhiều may mắn. Tôi biết mình sẽ xa nhóm bạn cũ, nên trưa nào ăn cơm xong, tôi cũng đứng rửa bát cho mọi người, đến nỗi anh bạn Mario khuôn mặt rầu rĩ nói:

-Sau này cô sẽ bận làm việc lắm, sẽ không có thì giờ xuống dưới đây ăn cơm với tụi này đâu, cô sẽ phải ăn cơm với khách, với các giám đốc …nên bây giờ cứ rửa bát để nhớ đến chúng tôi đi!

Suzy cũng buồn buồn nói lời chia tay dí dỏm với tôi:

-Không biết sau này nhà bank có tìm được ai dễ thương giống Lily không nữa, vừa giỏi việc làm lại siêng năng rửa bát giúp tụi mình…

-Sẽ không còn người nào giống vậy nữa đâu!

Tôi ôm hôn từng người, từ giã họ để rời lên lầu hai làm việc, hứa sẽ xuống thăm mọi người khi có dịp.

***

Martin là giám đốc trực tiếp của tôi, chàng dành cho tôi một phòng làm việc ngay đối diện với phòng chàng, phòng tuy không rộng lắm, nhưng hai bên tường toàn bằng kiếng nên buổi sáng ánh nắng ấm áp chan hòa tràn vào cả phòng, tôi có thể thấy được những người khách đến từ sảnh chính dưới nhà.

Ngay khi bước vào phòng làm việc mới của tôi, đập vào mắt là một bức tranh vẽ bằng mực tàu núi non, có đồng cỏ và ruộng bậc thang, những đường nét đậm lạt cho thấy được không gian đa chiều và có cảm giác nhẹ nhàng thư thái. Tôi được biết bức tranh này do chính tay Martin đã chọn và nhờ người treo lên, tôi trang trí thêm cây trầu bà leo trên đầu tủ sách, hy vọng nó mang đến sự bình an và may mắn trong công việc.

Mỗi sáng, tôi phải xem trên list những khách hàng bỏ tiền vào trương mục của họ, một số tiền trên 10 ngàn đô, xuất xứ từ đâu, với mục đích gì; bấm vào tài khoản của người ấy, xem tất cả mọi dịch vụ của họ có đầy đủ chưa, nếu thiếu dịch vụ nào thì phải phone đến lấy hẹn với khách để mời chào họ, ngoài ra phải có đầu óc nhạy bén nhận biết người này nghề nghiệp gì, hoàn cảnh gia đình ra sao để giúp đỡ họ sâu sát hơn, tạo cho họ một niềm tin vào đội ngũ chúng tôi, lôi cuốn thêm gia đình, bạn bè…

Dưới sự chỉ huy đầy kinh nghiệm của Martin, nhóm chúng tôi gồm bốn người, giám đốc, cố vấn đầu tư, cố vấn cho vay tiền, và một người cho dữ liệu vào máy, chúng tôi làm việc phối hợp nhịp nhàng, lấy hẹn với khách, trình bày đầy đủ mọi chi tiết dịch vụ…nhóm chúng tôi là nhóm đầu tiên của ngân hàng nhận thêm một lượng khách lớn với khối tài sản khá cao.

Sau ba tháng cùng làm việc, sáng nào vào phòng dù sớm hay trễ, tôi cũng thấy ly cafe nóng hổi được pha sẵn với hai gói đường và sữa nhỏ bên cạnh. Lúc đầu tôi tưởng cả nhóm ai cũng được ông giám đốc để mắt lo cho, nhưng khi nói chuyện với họ thì mới biết chỉ có mình tôi được chàng « tốt bụng » thôi.

Có lúc đang bận rộn dán mắt vào màn hình xem từng trương mục của mỗi người khách trên một list dài, chợt khi ngước mặt lên, tôi thấy từ bên kia phòng đối diện, Martin đang ngồi nhìn tôi chăm chăm với một nụ cười đầy ẩn ý, mắc cỡ, cúi xuống, gục đầu vào máy mà trong lòng tự hỏi « tại sao ông ấy lại nhìn mình hoài thế kia! »

Buổi trưa mọi người đi ăn, tôi ngồi nán lại cho xong một hồ sơ, tôi nghe tiếng chân nhẹ của ai đó bước vào phòng, thì thầm :

-Tôi … mua đĩa bún với thịt này ở nhà hàng Việt gần đây, em ăn thử xem gu của họ có ngon như của em làm không nhé…Hãy ngừng tay nghỉ ngơi đi, đừng làm quá sức, còn nhiều ngày ở phía trước mà!

Khi tôi quay đầu nhìn ra, Martin đã để đĩa cơm ở góc bàn, khép cánh cửa phòng nhẹ lại để cho tôi biết ngừng công việc và ăn cơm.

Trong một tuần lễ, mỗi nhân viên phải ở lại một ngày trễ vào buổi chiều đến 8 giờ tối, Martin luôn tìm cách ở lại với tôi để cho tôi quá giang về nhà, nhất là khi trời mùa đông lạnh tuyết và trời tối nhanh.

Chàng rất hiểu hoàn cảnh tôi có hai con nhỏ, nhà trẻ đóng cửa vào giữa mùa hè, tuần gần cuối tháng bảy đến nửa đầu tháng tám, những nhân viên làm thâm niên thường hay lấy hè vào lúc này để được nghỉ hè cùng gia đình. Theo quy định ngân hàng chỉ cho phép hai người nghỉ cùng một thời gian thôi, nhưng chàng dùng « uy quyền » giám đốc cho phép tôi lấy ba tuần liên tiếp nghỉ ở nhà trông con vào thời gian nhà trẻ đóng cửa này; có lúc chàng còn nói với tôi :

-Có tôi ở đây, em hãy hưởng mọi đặc ân mà tôi có thể cho phép được… Đừng ngại!

Tôi chớp mắt tỏ lòng cảm ơn:

-Tôi thật may mắn gặp anh, anh đã nhận tôi vào chức vụ này, tạo điều kiện cho tôi học hỏi thêm, quen biết với nhiều người trong giới ngân hàng, những vị chức cao, cấp liên bang, tôi rất biết ơn!

-Đừng nói thế, nếu không có tôi, em cũng sẽ biết họ thôi, làm ở nhà bank em phải đi họp với họ mà… Làm việc với em, tôi rất thích, tôi cũng được học ở em rất nhiều thứ, mà điều quan trọng nhất là tính cẩn thận và sự khiêm tốn; đừng nói là em mang ơn tôi nhé, mà ngược lại đấy thôi.

Mỗi lần nói chuyện với tôi, chàng nhìn thẳng với đôi mắt trong xanh lơ, tôi có thể nhìn thấy tận đáy tình cảm của chàng dành cho tôi, như một thứ duyên lành câm nín không có dụng ý nào khác, giúp tôi bằng mọi cách, đem lại cho tôi nhiều lợi lộc là niềm hạnh phúc của chàng.

Những buổi tối cho tôi quá giang về, chàng kể về vợ và con trai, trạc bằng con tôi, vợ chàng là người phụ nữ mạnh mẽ, độc lập, ít hiểu nhau vì hai người lập gia đình hơi vội. Trước đó chàng có yêu một cô gái người Nhật, nhưng gia đình cô gái ấy không chấp nhận, cô phải vâng lời cha mẹ, lập gia đình với một người cùng xứ; mối tình đầu tan vỡ đã làm chàng suy sụp và hạnh phúc không trọn vẹn khi lấy người sau này do tình cờ gặp nhau trong một quán bar.

Tôi rất thương cảm những lời tâm sự chân tình của giám đốc, dốc lòng làm việc và trả ơn bằng những kết quả thât khả quan.

Luôn nhủ thầm là người phụ nữ Á Đông, dù xã hội có thay đổi nhưng thấm nhuần sự giáo dục của gia đình, tôi vẫn giữ gìn phẩm hạnh, tôn trọng giá trị gia đình như một cốt lõi đạo đức.

Tôi nhớ nhất vào ngày Giáng Sinh năm 2000, ngân hàng chỉ mời nhân viên thôi, không mời người phối ngẫu tham dự như những năm trước, để tất cả được nhảy nhót, vui chơi hết mình với nhau. Tổ chức ở một nhà hàng lớn sang trọng vùng Laurentide cách Montreal một tiếng rưỡi, khi xe chúng tôi chỉ còn cách nhà hàng chừng một cây số, hai bên đường được trang trí bằng những dây đèn vàng đỏ lấp lánh, hòa với những hạt tuyết trắng lấp lánh trên những hàng thông, có tiếng nhạc réo rắt, tạo thành một cảnh quang vô cùng ngoạn mục như đường vào thiên thai.

Bữa đó là ngày thứ sáu, chúng tôi làm xong lúc 4 :00 chiều, phụ nữ thay quần áo dạ hội, đàn ông mặc tuxedo, đi xe cùng nhau thẳng đến đó; tôi nhớ như in, chàng đã uống khá nhiều như muốn bỏ hết mọi chuyện buồn gia đình sau lưng, muốn vui chơi với các bạn trong công sở hết mình.

Khi tiếng nhạc valse nổi lên, chàng đã nghiêm trang ra trước mặt tôi, hạ người xuống thấp với một tay để sau lưng và một tay đưa ra phía tôi một cách rất lịch sự, mời tôi nhảy bản valse đầu tiên.

Tôi rụt rè và hơi chùn bước, ánh mắt chàng lấp lánh, trong xanh như vì sao đêm, chàng thì thầm bên tai :

-Hãy nhảy với anh… sẽ chẳng còn cơ hội nào khác nữa đâu!

Trái tim tôi thôi thúc, tôi nhận lời, để bàn tay mình vào bàn tay ấm áp của chàng, chàng siết nhẹ lấy tay tôi, kéo ra sàn, chúng tôi không nói với nhau một lời nào, chỉ say sưa đắm đuối nhảy với tất cả trái tim, phút giây ấy như chỉ có hai chúng tôi, gia đình và con cái không còn tồn tại trong đầu óc nữa; qua đó tôi hiểu chàng đã giành cho tôi một thứ tình cảm rất sâu đậm mà không thổ lộ được!

***

Những ngày tháng tiếp nối theo, năm này sang năm khác, thoáng một chốc bốn năm, chúng tôi vẫn tiếp tục làm việc chăm chỉ và đầy nhiệt huyết, chỉ tiêu của nhóm bao giờ cũng đạt hàng đầu, làm chàng thật vui và hãnh diện là đội tiên phong, lập nhiều công trạng nhất cho ngân hàng, cả nhóm tôi đều được hưởng những « bổng lộc » đặc biệt của nhà bank, dưới sự lèo lái tích cực của chàng; mỗi lần được thưởng bonus, chúng tôi lại kéo nhau đi ăn ở một nhà hàng khác nhau, nổi tiếng, để cả nhóm có thể nếm được những món ngon vật lạ của các nước trên thế giới.

Có những lúc làm việc căng thẳng, tôi nhìn sang phòng thấy chàng gục đầu xuống bàn, hai tay ôm lấy thái dương, mặt nhăn nhó, tôi text cho chàng :

-Anh hãy đi khám bệnh xem có bị gì không nhé, độ này thấy anh có vẻ mệt mỏi lắm!

-Chắc làm việc nhiều quá thôi, anh bị migraine từ nhiều năm nay rồi, khó ngủ nữa.

Tôi tiếp tục làm việc trên máy đến giữa trưa, bỗng nghe một tiếng « rầm » như ai bị té xuống đất! Hốt hoảng, vội đứng lên nhìn qua phòng đối diện, giám đốc mặt nhăn nhó, hai tay ôm lấy đầu, mồ hôi vã ra như tắm, chàng gục xuống bàn quằn quại, sắp té xuống đất, xô đẩy lọ đựng viết, bình hoa rớt xuống sàn nhà vỡ toang, rên rỉ :

-Nhức đầu quá! … tôi…tôi…

Tôi vội chạy bay qua phòng chàng, lo lắng gọi khẽ :

-Martin! Martin… anh có sao không? Có cần gọi ambulance không?

-Ôi nhức quá!… nhức…

***

Ba ngày sau, khi bước vào nhà thương, mùi ether nồng nặc, chúng tôi được chỉ lên lầu ba, phòng 304B, tầng này dành riêng cho những người bị bệnh thần kinh, óc não…Tôi thấy những người bệnh mặc những chiếc áo màu xanh lơ dài xuống dưới tận chân, đầu tóc rối bù, những cặp mắt vô thần, đôi môi xám ngoét, tay bị chích bởi những dây nhợ chằng chịt, kéo lê theo những bình nước biển, yên lặng di chuyển qua lại ở hành lang, họ có vẻ từ trong giường mới ra cho đỡ mỏi vì đã nằm lâu quá.

Vừa bước vào phòng giám đốc Martin, đầu chàng quấn băng trắng muốt, đôi mắt khép chặt, bàn tay phải bị chích một chai nước thuốc, vợ chàng ngồi ở ghế bên cạnh, trên bàn bình hoa glaïeul tươi đẹp làm át đi mùi khó chịu của nhà thương, nàng đang cắt cam để sẵn trên bàn, nàng ra dấu cho chúng tôi đi ra ngoài để cho chồng nàng tiếp tục được ngủ yên lặng.

Ra đến ngoài, Clara, vợ của Martin òa khóc nức nở, giọng run run kể cho chúng tôi nghe :

-Bác sĩ báo… báo… Martin bị cancer não, khối u đã lấn chiếm rất to, khó có thể cắt đi được, đôi mắt đã …mù 70% vì bị khối u chắn ngang tầm nhìn, mạng sống của anh ấy có thể tính theo ngày thôi! Hôm nay các bác sĩ đã mổ, chàng đang trong trạng thái bị say thuốc mê… Tôi không biết sẽ sống như thế nào đây… nếu…

Chúng tôi bàng hoàng ôm lấy Clara, đau xót, tôi không giữ được nước mắt, thấy cả người run lên bần bật, muốn té xuống đất, một con dao vô hình đâm thẳng vào tâm hồn, tôi đau cùng một nỗi đau với nàng, chàng còn quá trẻ để …giã từ cuộc sống này! Tại sao chuyện lại xảy ra nhanh như thế? Chàng đã hại ai? Đã làm gì sai để bị trừng phạt như thế chứ? Tại sao những chuyện không may lại xảy đến với người tốt vậy chứ! Trái tim tôi như nổ vỡ, tung ra khỏi lồng ngực!

Tin dữ này được Clara báo cho giám đốc phòng nhân sự, cả ngân hàng ai cũng chết lặng vì Martin là một giám đốc rất nhiệt tình, sôi nổi và làm việc rất hăng hái, đem nhiều tiền và lợi ích cho nhà bank.

Từ ngày không thấy bóng dáng chàng ở phòng đối diện, tôi như người mộng du, đôi mắt luôn hướng về nơi ấy; căn phòng thật trống trải, chiếc ghế da cao đầu được xếp quay vào bên trong, lưng quay về phía phòng tôi, có cảm giác như chàng vẫn ngồi ở đó, nhưng bóng lưng ấy sẽ không còn bao giờ quay lại nhìn tôi mỉm cười, đưa ngón tay cái lên động viên tôi nữa, sẽ chẳng còn ai như anh, chẳng còn cái cười nửa miệng, ánh mắt như nói với tôi vạn điều…

Tôi đem trả lại tượng Phật Bà Quan Âm nhỏ mà chàng đã mua tặng tôi khi chúng tôi cùng nhau đi gặp một người khách hàng người Hoa, ông ta có một tiệm tạp hóa bán những đồ lưu niệm dưới phố Tàu, đặt trên đầu tủ sách của chàng, để ngài phù hộ cho chàng sớm tai qua nạn khỏi, về làm việc lại với đội tôi.

Tôi nhớ khi chàng trao tặng tôi chiếc tượng Phật, chàng nói :

-Tôi mong sao em có thật nhiều may mắn trong cuộc sống, mong em đạt được mọi ước muốn, hạnh phúc! Phụ nữ cần nhất là hạnh phúc; làm gì được để đem lại hạnh phúc cho em, tôi cũng muốn làm, cho dù có khó khăn bao nhiêu…

Tôi đã rất xúc động, biết mình đã có gia đình, con cái, tôi không muốn đi quá giới hạn cho phép, cũng không muốn gây thêm sự hy vọng viển vông cho chàng, tôi chỉ biết nhìn chàng với cặp mắt đầy vẻ biết ơn và quay đi thật nhanh.

Tượng Phật Quan Âm mãi nằm ở ngăn đầu tiên trong tủ sách của tôi, tôi đều tâm sự với Ngài mỗi khi không tìm ra cách giải quyết với một khách hàng khó tính, hôm nay tôi đem trả lại phòng của Martin, mong Ngài sẽ giúp đem lại cho chúng tôi một Martin khỏe mạnh vui tươi hăng hái như xưa!

Điều ước này chắc có lẽ đã quá phù phiếm! Tôi không có phép màu để có thể níu giữ được sinh mệnh chàng!

Cho dù hình hài chàng không còn tồn tại nữa, nhưng trong tâm hồn và trái tim tôi mãi vẫn âm thầm để một ngăn trống cho hình bóng người!

Chờ đợi người về một kiếp mai!

Mơ màng tới câu « tình đừng phai »

Trần gian phũ phàng, buồn theo năm tháng

Tình duyên đành lỡ làng!  (chờ một kiếp mai- Xuân Tiên- Ngọc Bích)


(Montreal, Juil’25)

Sỏi Ngọc

Ai Cũng Có Nỗi Khổ Riêng - Đừng Vội Phán Xét - Youtube Phan Ngọc Thuận

Gả Thiếp Về Rừng! - Đoàn Xuân Thu


Ở đất miền Tây Nam Bộ, chuyện tình duyên không phải lúc nào cũng mượt như sợi tóc xức dầu dừa của em gái Bến Tre.

Gặp thời trái gió trở trời, có khi con gái đẹp như tiên vẫn bị… gả về rừng. Mà rừng đây đâu phải là rừng thơ mộng kiểu Đà Lạt. Rừng đây là Miệt Thứ, U Minh, rừng tràm, rạch dớn, chim kêu vượn hú, cá thì nhiều mà chồng thì lù khù như thằng Đậu!

Vậy mà ngày xưa, người ta chép lại câu ca dao nghe như lời ru em ngủ:

“Chiều chiều ra đứng ngõ sau
Nhớ người áo trắng, khăn quàng vắt vai.”

Tui nghi ông chép nhầm. Phải chi ông nhớ kỹ một chút, chắc ông đã viết đúng là:

“Chiều chiều lại nhớ chiều chiều,
Nhớ người áo trắng khăn điều vắt vai.”

Hai chữ “chiều chiều” đứng đầu nghe như bị cà lăm, vậy mà hay đáo để! Cái nhịp ru đó, nó gợi lên một nỗi nhớ lặp lại hoài, không nghỉ – như má nhớ con đi lấy chồng xa, như vợ lính ngóng chồng biền biệt. “Áo trắng” đối với “khăn điều” – mới chỉnh. Chớ khăn quàng là quàng… lủm củm vô duyên. Mà “khăn điều” mới đúng thiệt! Màu điều là đỏ – cái màu của nỗi yêu, nỗi nhớ, nỗi máu tim rịn rịn mỗi buổi chiều.

Khăn điều vắt vai anh Hai đi ăn trầu là hình ảnh dân dã đẹp thiệt tình. Miệt mình hồi đó ai cũng ăn trầu: gái ăn, trai cũng ăn. Nhai trầu đỏ cả răng, đỏ môi, đỏ luôn… cái áo trắng. Có vậy mới sinh ra cái cảnh “say trầu phê phê,” “mắt em trong veo,” răng chắc như đá – bởi vôi trong trầu là loại… thuốc đánh răng thiên nhiên, có “fluor” sẵn cho người đồng bằng.

Nhưng thôi, đừng nói chuyện răng lợi nữa. Trở lại với cái câu ca dao “lỡ chép” kia. Nó còn bị chép trật kiểu khác:

“Chiều chiều ra đứng ngõ sau
Nhìn về quê mẹ ruột đau chín chiều.”

Nghe “nhìn,” “ngó,” “trông” mà hổng thấm. Nó lạt như nước cơm không muối. Phải là “ngóng” mới đúng!

“Chiều chiều ra đứng ngõ sau
Ngóng về quê mẹ ruột đau chín chiều.”

Chữ “ngóng” là chữ thần. Nó gợi một nỗi chờ mòn mỏi, như em ngóng chồng đi ghe chưa về, như mẹ ngóng con lấy chồng rồi biệt xứ, tết cũng chẳng về chúc má câu nào. Ngóng là nhớ có chủ đích. Ngóng là yêu sâu đậm. Ngóng là đau tới tận ruột.

Bởi vậy mới có câu:

“Muốn má ơi đừng gả con xa
Chim kêu vượn hú biết nhà má đâu?”

Nhà văn Sơn Nam chia miền Tây làm bốn miệt: miệt vườn, miệt ruộng, miệt giồng và miệt thứ. Mà miệt thứ là vùng U Minh, sông Trẹm – nơi rừng rậm um tùm, lá tràm rụng xuống nhuộm nước đen như nước mắm. Chỗ đó mới là “rừng” thiệt.

Vậy mà gái miệt vườn nhiều quá, nhà nghèo không nuôi xuể, nên cha mẹ gả con gái về rừng. Lấy chồng xa như gả thiếp về rừng, vừa là chia bớt gánh nặng, vừa là… bỏ của chạy lấy người! Đem em về rừng, em cười, má khóc. Anh nói lấy em là chuyện đời, em nghĩ theo anh là chuyện trời!

Mà anh đâu biết, em thương anh, nhưng thương kiểu… tình nguyện có điều kiện. Lòng em thì để lại miệt vườn, nơi có má em, nơi có mấy đứa em còn nhỏ. Em nói “chia ngọt sẻ bùi,” mà mới vài tháng đã ra đứng ngõ sau, “ngóng về quê mẹ ruột đau chín chiều” là sao?

Chuyện này đâu phải bịa. Nó là tâm tình của cả một lớp người thời lưu dân khẩn hoang. Từ Quảng Nam, Bình Định, ông bà mình lặn lội vô tới tận Đồng Tháp Mười, U Minh Hạ. Đẻ một bầy như “giặc Tàu Ô,” phải chia đất, chia ao, chia ruộng. Mà đất đâu đẻ kịp với tốc độ sanh sản? Vậy là mấy thằng con phải tự tìm đường khẩn đất mới. Lập nghiệp nơi đất đỏ phèn chua, xong rồi mới về miệt vườn cưới vợ, đem lên làm… nội trợ U Minh.

Thế là mỗi chiều về, trong khi chồng hút thuốc rê uống trà quạu, vợ đứng ngóng ra bìa rừng, mắt ươn ướt, lòng trống vắng. Ngóng như muốn… đi bộ về miệt vườn.

“Sương khuya ướt đẫm giàn bầu
Bậu về Miệt Thứ bỏ sầu cho qua.”

Câu ca dao thiệt thà như tấm lòng. Chẳng giấu diếm chi hết. Nó nói hết cái cảnh tình tan nát của một cô gái lấy chồng xa. Mà hễ xa nhà là… nhớ nhà. Nhớ không chỉ vì má thương, mà còn vì đời chồng chẳng như mơ.

Vậy mà đàn ông miền Tây mình thương vợ lắm. Cưới về rồi thì cày như trâu. Làm lụng sớm hôm, tiền bạc đưa hết cho vợ. Má mình thì lâu lâu mới được vài đồng về thăm, phần còn lại là “má hiểu mà, phải không má?” Nhưng mấy bà má cũng hiểu. Miễn con có vợ có con, không đói là má vui rồi.

Vậy mà vợ thì sao? Cứ chiều chiều lại nhớ má, nhớ tới độ “ruột đau chín chiều”! Nhớ kiểu đó mà kêu là hạnh phúc hả? Mấy ông chồng nghe thấy là buồn thúi ruột, thiệt!

Tui nói rồi, gả thiếp về rừng là vậy đó. Về rừng không chỉ là về không gian. Về rừng là bước chân vô một thế giới xa lạ, đầy rắn rít, muỗi mòng, thiếu thốn và… cô đơn. Nhưng nếu lòng nhau rộng mở, thương nhau đủ đầy, thì có khi “gả về rừng” lại là khúc mở đầu cho một bản tình ca đẫm khói lam chiều.

Chớ như em đứng hoài ngõ sau, “ngóng về quê mẹ ruột đau chín chiều” thì… anh buồn biết mấy!


Melbourne

Đoàn Xuân Thu

Tuesday, July 29, 2025

Ca Dao Về Việt Cộng - Phần II - Nguyễn Duy Phước Sưu Tầm Và Sắp Xếp Lại

Một Thời Chinh Chiến Điêu Linh - Nguyên Nhung


Anh là một phóng viên chiến trường, ngoài phần lương khô và vật dụng cá nhân trong ba lô mang trên lưng như bao nhiêu người lính khác, anh còn phải đeo lủng lẳng cái máy quay phim và máy chụp hình trước ngực. Hành trang anh chỉ có thế, mũ sắt trên đầu, cuốn sổ tay trong chiếc túi áo có nắp gắn hai chữ “Báo Chí”, hai tấm thẻ bài, một bộ râu tua tủa vì đã mấy ngày anh theo đoàn quân tiến vào trận địa. 

Người lính ra chiến trường đã có cây súng làm bạn, riêng anh, người phóng viên chiến trường đi vào vùng lửa đạn, chỉ vỏn vẹn có chiếc máy quay phim, đã ghi lại biết bao nhiêu hình ảnh trung thực của người lính sống thời chiến chinh gian khổ, trên mọi nẻo đường  đất nước.

Tiếng đạn bay líu chíu ngang đầu, anh thầm nghĩ: "Không biết sống chết lúc nào". Chiếc máy quay phim đã thu vào bao nhiêu thước phim giữa mặt trận khi nóng bỏng, lúc âm ỉ đến lạnh người. Ðoàn quân lầm lũi tiến vào rừng dừa trước mặt, phân tán mỏng theo lệnh viên sĩ quan chỉ huy. Những bóng người lầm lũi bước, đôi giày vải ướt sũng trên thửa ruộng xâm xấp nước, đói và mệt, chiếc ba lô trên vai anh như nặng trĩu xuống. Trong bóng chiều nhập nhoạng, thần chết như rập rình chiếc lưỡi hái trên thân phận người lính, cơn mưa chiều luồn những giọt tái tê vào lòng người chiến sĩ. 

Anh nhớ lại trận đánh ở vùng Thới Lai, Cờ Ðỏ vào mùa mưa năm trước, trong một vùng dầy đặc cỏ lác và sông rạch. Không phải lần nào quân ta cũng thắng. Ðêm ấy, anh bị mất phương hướng, giữa bóng đêm chập chùng và ánh trăng khuya mờ ảo, anh lần mò ra được đường cái, ở đấy có một ngôi chùa nằm chơ vơ ven quốc lộ. Dưới ánh trăng mờ, ngôi chùa âm u không một ánh đèn, không một tiếng chuông tiếng mõ, chỉ có mùi dìu dịu của hoa sứ phảng phất giữa đêm khuya. Ðã mấy ngày mà trận đánh chưa kết thúc, sự yên tĩnh tạm thời để chờ một cuộc đụng độ tiếp theo, dân chúng hầu như đã tản cư ra quận lỵ, hoặc chạy theo phía bên kia vào những làng mạc xa hơn.

Ngôi chùa tương đối nằm ở khu khá yên tĩnh giữa hai lằn đạn, nhưng không có bóng dáng người dân nào ở đó. Trong bóng tối mờ mờ và yên lặng, anh lần mò men theo mấy bụi cây thấp trước cổng chùa, anh nhìn thấy nhiều thân người nằm la liệt trên sân, im lặng như một bãi tha ma. Họ đang ngủ, quá mệt mỏi cho nên anh chỉ kịp cởi ba lô vứt xuống đất, rồi cứ thế nằm vật xuống bên cạnh một người lính. Anh cần ngủ hơn tất cả mọi thứ trên đời, dù chưa ăn uống gì nhưng anh không cảm thấy đói, chỉ có giấc ngủ mới làm anh tạm quên đi tiếng đạn réo, tiếng bom rơi, tiếng đại bác rền rĩ trong những giờ phút căng thẳng của chiến trường. Anh thiếp đi thật mau, trong lúc ngủ mê hình như anh có đạp chân vào người lính kế bên nhưng không nghe tiếng chửi thề, hạnh phúc nhất của người lính có lẽ là những phút giây hiện tại, tạm quên đi nỗi nguy hiểm, cận kề với nỗi chết.

Chưa bao giờ anh có một giấc ngủ ngon lành đến thế. Không chiêm bao mộng mị, không giường, không chiếu, chỉ có một mặt đất ẩm lạnh và bầu trời nhấp nháy sao đêm. Gió đêm như được ướp mùi hương của những bông hoa sứ làm loãng đi mùi gì tanh tanh giống như mùi máu.


Sáng ra, ánh mặt trời rọi vào mặt anh khiến anh thức giấc, chim chóc hót líu lo chào một ngày vừa lên, sự sống của muôn loài vẫn diễn ra bình thường dù chiến tranh và sự chết đang hiện diện quanh quất, đó đây. Anh hoàn toàn tỉnh giấc, thèm một ly cà phê và điếu thuốc thơm buổi sáng, rồi lạ lùng ngó đám người nằm ngủ trên sân chùa, chợt một cảm giác lạnh toát chạy dài trên sống lưng người lính. Giờ thì anh đã hiểu, đêm qua anh đã ngủ một giấc ngủ tròn trịa và yên bình bên những người lính tử trận, xác họ ngày hôm nay sẽ được chở về nhà xác trên tỉnh lỵ, chờ thân nhân đến nhận. 

"Không phải lúc nào ta cũng thắng", anh nghĩ như vậy khi nhìn những tử thi nằm lạnh lẽo suốt đêm trên sân chùa. Chiến tranh là vậy, thắng hay thua thì bên nào cũng có người nằm xuống, có những giọt nước mắt của mẹ già, vợ dại, con thơ, chỉ có điều thật buồn khi tất cả đều là người Việt Nam. Anh nghe có tiếng bước chân nhẹ nhàng của một tà áo đà lướt bên hiên chùa, và mùi nhang thoảng bay trong gió. Một vị sư già có lẽ là người duy nhất còn lại nơi đây, đang cầm một nắm nhang ra cắm xuống trước những thây người nằm la liệt dưới sân chùa, miệng lâm râm niệm Phật. Ðôi mắt nhà sư thoáng một vẻ ngơ ngác và sợ hãi, khi nhìn thấy một người sống đang ngồi thu lu giữa đám người chết, cả hai cùng im lặng không nói được lời nào.

Năm 1969, anh theo cuộc hành quân miền biên giới giữa Campuchia và Việt Nam, Cộng quân đang cố thủ trong vùng núi Cô Tô, Châu Ðốc. Người phóng viên chiến trường hơn ba mươi tuổi, đang độ chín muồi của nghề nghiệp, hăng say lao vào vùng lửa đạn khi Cộng quân dùng Campuchia làm bàn đạp thôn tính miền Nam. 

Gia đình anh gốc gác miền Bắc, cả một thời ấu thơ và thanh niên anh gắn bó với quê nhà, may mà năm 1954 anh nhanh chân chạy thoát. Bố anh chết ngay năm đó, tất cả gia tài, sự nghiệp bỗng dưng mất hết trong một ngày khiến người cha phẫn chí mà chết. Mẹ anh dẫn ba đứa em dại, đầu quấn khăn tang lếch thếch lên chuyến tàu há mồm xuôi Nam. Một cuộn phim của dĩ vãng vừa hiện về trong trí anh, căn nhà gạch hai gian bề thế phố Cửa Tiền, rặng bàng trước cửa, hoa gạo đỏ mùa hè, giếng nước Tiền Hùng, cái ao sau nhà xanh um khóm chuối ngự, cả một tuổi thơ đầm ấm và mối tình đầu tuổi thanh xuân nằm lại sau lưng cho một tất tả bỏ chạy.

Từ trên máy bay trực thăng anh nhảy xuống theo gót chân người sĩ quan chỉ huy, máy quay phim chạy rè rè thâu vào hình ảnh núi non chất ngất, những người lính chạy lúp xúp nép vào những bờ đá cao tiến tới. Ðịch bắn ra như mưa, viên đạn đi ngọt như cắt từ một hốc núi bay thẳng tới ngực anh, anh chưa thấy đau vì tầm đạn đi nhanh quá khiến anh ê ẩm như bị một viên gạch ném tới đột ngột. Cho đến khi anh thấy ấm ấm và rát bỏng trên ngực áo, máu đã ướt thẫm hai chữ Báo Chí trên chiếc áo nhà binh. Anh loạng choạng ngã xuống với thước phim đang quay dở, chỉ kịp nhìn thấy loà nhoà hình ảnh người lính cứu thương bế anh lên chiếc trực thăng tải thương, đang phần phật đôi cánh quạt trên một vùng cỏ xanh.

Lần ấy viên đạn đi cách tim anh khoảng hai cm, nếu không giải phẫu kịp, máu ứ đầy phổi có lẽ anh đã nằm xuống ngay tuổi ngoài ba mươi. Anh thoát chết trong đường tơ kẽ tóc, phải nằm trong Quân Y Viện mấy tháng trời, để được nhìn thấy sự hy sinh và đau đớn tận cùng của người lính trong thời chiến. Những hình ảnh ấy vương vấn trong hồn anh, mãi mãi về sau, tim anh vẫn thắt lại khi bất chợt hôm nào nhìn thấy trên vỉa hè, người thương binh lê đôi nạng gỗ, khập khễnh bước khi đôi mắt chất chứa nỗi bất hạnh cho cả một tương lai.


Năm 1972, mặt trận lại sôi động ở vùng biển Long Toàn, Trà Vinh. Bom đạn rền rền át cả tiếng sóng biển rì rào, người dân Khờ Me sống ở những làng mạc hiền hoà với chùa chiền cổ kính, lại vội vã bỏ vùng quê đi lánh bom đạn. Nhà cửa đổ nát, vườn tược tan hoang, anh ứa lệ nhìn hai đứa bé lạc mẹ, mặt mày nhem nhếch nước mắt, nước mũi giữa cảnh khói lửa tơi bời. Giữa vùng giao tranh, chỉ có lằn đạn líu chíu trên đầu người thường dân vô tội, quê hương mình sao khốn khổ đến thế. 

Anh nhớ lại một ngày năm 54, năm ấy anh mới mười tám tuổi và đứa em út mới lên sáu, mẹ anh trắng hai bàn tay làm lại cuộc đời trên miền Nam tự do. Những buổi chiều gió mưa, mẹ con ngậm ngùi nhớ về quê nhà. Khu phố êm ả có rặng bàng trở màu khi mùa thu đến, những buổi chợ phiên người trong các làng quê kĩu kịt gánh hàng ra chợ Nghệ. 

Người phóng viên chiến trường đâu phải lúc nào cũng ngồi trên máy bay, đâu phải lúc nào cũng theo đuôi Tư Lệnh để quay cảnh chiến thắng, gắn huy chương lên ngực áo người chiến sĩ. Anh đã phải ngắm nhìn chiến tranh như phải xem một bức tranh vẽ bằng máu, thâu vào hình ảnh và sự chiến đấu cam go của người lính nơi vùng lửa đạn. Trong khi ấy, chiến tranh quả là khó hiểu, những bàn tay giấu mặt như mụ phù thuỷ đang vẽ vời những lời nguyền rủa sấm sét xuống quê hương anh. Chiến trường này tiếp nối đến chiến trường khác, những cuộc hành quân liên miên từ tháng này qua tháng nọ, nghĩ đến đời sống gian khổ của người lính trong vùng đóng quân đầy những rủi ro bất trắc, anh chỉ ao ước một ngày nào chiến tranh chấm dứt. Một ngày nào đó những thước phim của anh chỉ là hình ảnh nụ cười dễ thương của trẻ thơ, là nét mặt vui tươi của người lính giữa khung cảnh ấm cúng của gia đình, là đôi mắt hấp háy của mẹ già không ứa lệ, khi đêm đêm vẫn thì thầm cầu nguyện sự an bình cho những đứa con. 

Anh phóng viên chiến trường giơ ống kính lên, thâu bằng cận ảnh hai khuôn mặt ngây thơ, bốn con mắt ngơ ngác giữa khói lửa mịt mù của hai đứa trẻ thơ mà anh bắt gặp, khi cuộc chiến không bao giờ tính toán được sự bi thảm của nó. Những đôi mắt trẻ thơ sợ hãi, ngác ngơ khi địch quân dùng khu vực nhà dân làm bàn đạp để tiến quân, hai đứa bé còn lại khi cha mẹ chúng có thể đã ngã xuống bởi những lằn đạn vô tình. 

Tình cảm giữa người và người bắt anh phải quên đi những thước phim, những tấm hình giá trị khi lọt vào tay bọn thông tấn nước ngoài. Hai tay bế hai đứa bé anh băng ra khỏi khu nhà đang rần rật cháy, giờ phút ấy anh chỉ có một ý nghĩ phải mang hai đứa bé ra khỏi vùng giao tranh, dù có thể lãnh một viên đạn của đối phương. 

Suốt một đời làm lính và xông pha nơi những chiến trường nóng bỏng, anh phóng viên chiến trường đã bao phen đối mặt với tử thần. Anh còn bị thương một lần nữa trước khi chiến tranh kết thúc, chiếc máy bay trực thăng bị hỏa tiễn tầm nhiệt bắn trúng đằng sau đuôi, như một khối sắt khổng lồ rớt xuống cánh đồng ngập nước vùng Ðồng Tháp Mười. May là Thượng đế đã che chở anh, đã cho anh trở về với một xác thân lành lặn.


Ngày chiến tranh kết thúc, một kết thúc bi thảm khiến anh hụt hẫng. Người lính bại trận trở về miền quê với những vết đau âm ỉ mỗi lần nhớ đến bạn đồng đội cũ. Trong những chiều gió mưa, lòng anh bùi ngùi khi hồi tưởng đến một khoảnh khắc nào đó, bóng dáng những người lính năm xưa giờ như những bóng ma buồn bã trong dĩ vãng, và anh lặng lẽ nghe những giọt nước mắt buồn tủi chảy ngược vào tim buốt lạnh.

Từ đây cuộc đời bắt đầu là những chia xa, bạn bè anh tan tác mỗi người mỗi nơi mỗi ngả. Có những người nằm xuống trong giờ thứ 25 của cuộc chiến, đã bị quên lãng với mồ hoang mả lạc. Có những người ra đi làm  cánh chim cô đơn, gậm nhấm nỗi sầu vong quốc. Có những người đi vào chốn lao tù với đói khát triền miên, khi trở về chỉ là những chiếc bóng ngác ngơ, sợ hãi cả tiếng bước chân của chính mình.


Sau ba mươi năm ngày chiến tranh kết thúc, người phóng viên chiến trường năm xưa nay đã già, ngồi bán cá kiểng, cá đá cho trẻ con trước khuôn viên một trường Tiểu Học, cạnh ngôi giáo đường cổ kính. Mỗi lần nghe tiếng chuông ngân ban chiều, anh lại thì thầm đọc mấy câu kinh cho những linh hồn đã khuất. 

Gia tài của anh chỉ có một hồ cá bằng thủy tinh với những con cá đủ màu bơi lội nhởn nhơ. Cả một xã hội cá quây quần bên nhau lượn lờ tranh sống, những cọng rong xanh, vài con lăng quăng sót lại từ bữa ăn chiều. Anh chép miệng, bầy cá đã no rồi, chứ lúc đói chúng nó cũng tranh nhau đớp mồi như đám người khốn khổ chen nhau chờ phát chẩn. Lúc này anh đâm lẩn thẩn như thế, chuyện cá chuyện người cứ lẫn lộn trong con mắt người phóng viên đã hết thời 

Lúc ấy trời đã về chiều, hai đứa bé đánh giày độ trên mười tuổi vào hàng, ngắm nghía mấy con cá lia thia được rọng riêng trong những chiếc keo thủy tinh trên bệ gỗ, giữa mỗi cái keo đều có một tấm giấy cứng để che cho chúng khỏi nhìn thấy mặt nhau. Mỗi đứa chọn một con, chúng thò tay vào túi lôi ra những đồng tiền nhàu nát, đưa cho người bán cá. Hai thằng nhỏ bày ra cuộc đá cá ngay cửa hàng của người bán cá, tự nhiên anh cũng cảm thấy hào hứng muốn theo dõi trận đá cá của hai đứa trẻ con. Không biết ở đâu lố nhố mấy đứa trẻ nữa quần áo bẩn thỉu, chân đi đất, xúm vào bu xung quanh hai thằng nhỏ đánh giày, khiến anh tự nhiên hồi hộp như ngày xưa mỗi lần theo đoàn quân vào vùng lửa đạn.

Hai con cá trong một cái keo, không biết thù nhau tự kiếp nào xông vào nhau, hai cái thân cá mình xanh vây đỏ lúc ấy phồng lên những chiếc vảy óng ánh, mình chúng như to ra qua thành thuỷ tinh, xoắn lấy nhau đẩy ra những cú húc tơi tả. Lũ trẻ vây xung quanh nín thở, hai con cá lia thia mê mải tấn công nhau, thỉnh thoảng chiếc mỏ cá lại va vào thành keo đau điếng. Sau một lúc quần nhau dữ dội, một con như ngộp thở ngoi lên mặt nước hớp không khí, cái mình cá vảy óng ánh màu xanh nay đã nhợt nhạt như màu miếng vỏ dưa cố chạy thoát thân, lũ trẻ đứng bên ngoài vỗ tay hét rộ lên những tràng cười khoái chí.

Tan cuộc, hai thằng nhỏ đánh giày bỏ hai con cá cho người bán cá, bưng hộp đồ nghề đi về ngả thành phố, chỗ “hotel” và mấy quán rượu có đông người ngoại quốc và đám Việt kiều về thăm quê. Trời giăng giăng những đám mây đen khiến phố xá chừng như tối sầm lại, bất giác anh chợt nhớ đến cơn mưa đầu mùa của Tháng Tư năm nào làm lòng quặn lên một nỗi buồn. Tự nhiên, người phóng viên chiến trường năm xưa cảm thấy ngùi ngùi, tưởng mình như con cá bại trận manh giáp tả tơi, bị vứt lại bên lề đường một cách thảm thương.


Tội nghiệp anh, những cuộn phim của dĩ vãng như run rẩy theo làn khói thuốc, anh bập hoài điếu thuốc đen trên môi, những móng tay cáu vàng ám khói. Cơn mưa chiều đột ngột đổ xuống rơi lộp độp trên tấm Poncho nhà binh che trên vỉa hè, gõ những nhịp trống vào đầu khiến anh nghĩ đến những cơn mưa nơi vùng hành quân năm xưa, khi anh còn là một người lính. 

Anh tưởng tượng lát nữa đây khi về nhà, với âm thanh hùng hồn của một ngày nào rất xa, anh sẽ tường thuật cho đứa cháu ngoại nghe trận đá cá chiều hôm nay trước cửa trường học. Hai con cá cùng một loại đá nhau chí tử, một con thắng nhưng cũng ê ẩm, lòng vòng trong chiếc keo thủy tinh chật hẹp, không hy vọng đá nổi một trận nữa, một con bại anh quăng ra mặt đường, đã nát mình dưới những vòng xe lăn.


Phố đã lên đèn, anh thu dọn cửa hàng để về nhà mà lòng nặng trĩu một nỗi buồn không tên tuổi. Anh phóng viên chiến trường năm xưa thì thầm nói với mình, Hơn ba mươi năm rồi, chẳng biết còn ai nhớ đến mình không nhỉ?

 

Nguyên Nhung 

(Viết cho anh tôi, người phóng viên chiến trường)

Lính Già Ngồi Nhớ - Đỗ Công Luân

Monday, July 28, 2025

Đôi Mắt Người Thương - Nguyễn Cát Thịnh

 
Hình minh họa

Nó và tôi không xa lạ. Thời sinh viên, tôi là gia sư của anh em nó. Trái với đứa anh, nó thông minh, có cá tính, nhưng ham chơi biếng học. Tôi mất nhiều thì giờ dậy dỗ nên nhớ nó rất rõ.

Sau cuộc biển dâu, gặp lại nhau trên đất khách quê người. Dù nó đã lột xác, tôi vẫn nhận ra.

Thật là thích thú được nghe câu chuyện đời tư của nó.

Tôi chỉ viết lại theo lời kể, không thêm bớt. 

Ghi chú: nhân vật xưng “Tôi” chính là nó. 

                                                *** 

TÀI XẾ VÀ THÁNH NỮ

Tôi là một người Việt gốc Hoa. Nhà tôi có 3 anh em. Trên tôi là anh Hai, hơn tôi gần 2 tuổi. Dưới tôi là gái út, kém tôi 4 tuổi.

Thuở nhỏ, tôi và anh Hai học cùng lớp. Anh sáng dạ, học rất khá. Tôi lười học, chỉ giỏi mầy mò tháo ráp máy móc, thích đánh lộn.. 

Đến tuổi quân dịch, anh Hai nhận được giấy gọi nhập ngũ. Anh buồn lắm, nhìn thấy tương lai mờ mịt, suốt ngày than thở. Thương anh phải bỏ dở chuyện học hành, tôi ngỏ lời tình nguyện đi thay. Tôi và anh hoán đổi lý lịch.

Sau này, dù đáo hạn tuổi, anh vẫn được hoãn dịch, lý do gia cảnh, vì anh trở thành con trai duy nhất còn lại trong gia đình.

Cha mẹ đồng ý.

Phường khóm chỉ biết chúng tôi với những cái tên ở nhà nên khi tôi cầm giấy tờ của anh trình diện, không ai nghi ngờ. Vả lại, anh em tôi nhìn không khác nhau nhiều.

Sau khi mãn khoá quân trường, ông nội lo lót cho tôi về phục vụ trong ban quân xa của một đơn vị ngoại thành.

Một dịp ngẫu nhiên, tôi được điều động đi sửa chữa khẩn cấp xe jeep của một vị sĩ quan cấp tá chết máy khi đang trên đường công tác. Thấy tôi nhanh nhẹn, tay nghề vững chắc, vị sĩ quan rất hài lòng. Mấy tuần sau tôi nhận được sự vụ lệnh thuyên chuyển về làm tài xế cho vị sĩ quan đó. 

Cuộc đời tôi bước vào một ngã rẽ, và số mệnh đã được định đoạt từ đây.

Ngoài công tác lái xe, tôi được ông Tá (tên vị sĩ quan) xem như người nhà. Khi rảnh rỗi, tôi tình nguyện giúp sửa chữa những việc lặt vặt tại tư gia của ông. Thỉnh thoảng được mời ngồi ăn cơm chung với gia đình. 

Ông bà có 4 người con, 2 trai 2 gái. Tất cả đều học trường Pháp. Cô gái lớn tên Sylvie xinh đẹp, có dáng dấp khỏe mạnh tây phương, rất tự nhiên với tôi. Nhưng tôi thì không tự nhiên khi tiếp xúc, có cảm tưởng cô chỉ xem tôi như một gia nhân. Tự ti mặc cảm, tôi chấp nhận, không thắc mắc.

Một ngày nọ, bà Tá bận việc không đón cô tan học như thường lệ nên ông Tá nhờ tôi. 

Hôm đó trời mưa tầm tã suốt buổi.

Chiếc xe jeep nhà binh không có vạt che 2 bên, mưa tạt mạnh vào trong. Trông cô như một tài tử đang diễn cảnh vừa rơi xuống hồ bơi mặc nguyên quần áo, bước lên xe. Run rẩy.

Chiếc chemise trắng và chiếc jupe vàng dán sát làm phông, nổi bật nội y. Lồ lộ một bông hoa đang hé nở. Toàn thân phác họa sẵn những đường nét hình thành một thần vệ nữ tương lai.

Tôi không ướt nhiều mà cũng run rẩy. Mặt nóng bừng bừng, mê man trong cơn sốt ảo.

Chỉ đến khi cô nhắc cho xe chạy tôi mới sực tỉnh. 

Tôi cởi chiếc áo khoác lính đưa cô che đậy. Tránh ánh mắt nhìn hau háu, chiêm ngưỡng, ghen tỵ của những chàng trai qua đường.

Tôi sung sướng suốt mấy ngày. Cười nói huyên thuyên. Chiếc áo khoác tôi treo sát đầu giường, không bao giờ phơi, không bao giờ giặt. Hương thơm phảng phất cho tôi quên hết mệt nhọc sau ngày dài làm việc và ban đêm dìu tôi vào giấc ngủ dễ chịu êm ái nhất. 

Hình ảnh hôm ấy của cô khắc sâu trong tâm trí. Nếu là họa sĩ tôi có thể vẽ không thiếu một chi tiết.


DI TẢN VÀ ĐỊNH CƯ  

Ngày di tản. Dòng người hối hả chen lấn xô đẩy khi chiếc máy bay chưa kịp ngừng hẳn. Tôi xách 2 chiếc vali định trao cho ông Tá rồi trở về nhưng bị chèn ép, không thoát ra được. Bị nhét vào bên trong máy bay, trở thành người di tản bất đắc dĩ. 

Chúng tôi được định cư ở Grand Rapids thuộc tiểu bang Michigan. 

Tại Mỹ, tôi hội nhập dễ dàng hơn gia đình ông bà. Hội nhà thờ giới thiệu tôi và ông Tá làm công nhân trong một xưởng sản xuất phụ tùng xe hơi. Tôi học thêm nghề hàn, sống khá thoải mái. Bà Tá vẫn còn hoài niệm mệnh phụ phu nhân, không chấp nhận lao động chân tay. 4 người con được xếp vào các lớp học theo độ tuổi. 

Trong hãng xưởng có nhiều công nhân Việt Nam thuộc đủ mọi thành phần xã hội. Buổi ăn trưa chúng tôi thường tách thành nhóm riêng, nói tiếng Việt rôm rã. 

Một hôm, có một thanh niên không hiểu sao sừng sỏ, nói bóng gió, ở VN làm tướng làm tá hách dịch, qua đây thằng nào cũng như thằng nấy, cũng cu li như nhau. Tôi không dằn được cơn giận, định dậy cho anh ta một bài học nhưng ông can ngăn.

Tôi lớn tiếng, ông thầy tôi đã ngã ngựa nhưng vẫn khí khái. Không nề hà công việc nào, miễn là lương thiện, anh phải kính phục hơn là khinh thường. Hơn nữa tuổi của ông ta bằng tuổi cha chú của anh, anh không được hỗn xược gọi ông là thằng. 

Mọi người vỗ tay hoan nghênh, anh ta xấu hổ bỏ đi, từ đó bị tất cả xa lánh. 

Ông Tá lủi thủi bước, cúi mặt, nói với chính mình, “Thằng ông lưu vong ơi, đã đủ nhục chưa?”.

Cô Sylvie bỏ học, theo đám bạn bè cùng lứa, sống bầy đàn khiến ông bà phiền lòng không ít. Ông vốn sống lặng lẽ lại càng lặng lẽ. Tôi là người duy nhất hầu chuyện ông, giúp ông khuây khỏa.  

Có lần ông nói với bà mà tôi vô tình nghe được, phải chi con Sylvie chịu lấy thằng … thì đâu đến nỗi.

Bà trừng mắt nói, ông muốn gả con gái ông cho ai? Cho nó ư? Nó chỉ là thằng lính tài xế!

Ông nhỏ nhẹ, tuy thế nó biết trên dưới, biết lễ độ, biết chí thú làm ăn, không khá hơn cái đám bạn bè ăn chơi của con bà ư?  

Tôi không khỏi suy nghĩ. Tự nhủ, phải quyết tâm tìm chút công danh cho mở mắt với đời. Tôi dành thời giờ buổi tối, ôn luyện chương trình trung học. Sau đó nhờ bà láng giềng tốt bụng hướng dẫn ghi danh học ở Kalamazoo Valley Community College 2 năm và tiếp theo 2 năm nữa ở University of Michigan-Flint. 

Bốn năm học tập vất vả rồi cũng qua. Tôi nhận được văn bằng tốt nghiệp Cử nhân Khoa học Kỹ thuật Cơ khí. Ông Tá chúc mừng, đãi tôi bữa cơm thân mật. Ông nói với bà:

-Bà thấy chưa? Mỹ là đất nước của cơ hội. Mọi người đều bình đẳng. Có ý chí phấn đấu sẽ thành công. Từ thằng tài xế nó đã trở thành ông kỹ sư. Không tiến thủ, ỷ lại, sẽ bị bỏ rơi phía sau như con gái bà. Đấy! Cô tiểu thư của bà, dân trường tây trường đầm bây giờ có ra gì! 

Bà Tá tỏ vẻ bất cần, không đáp trả.


Tôi tìm được công việc mới, phù hợp với khả năng. Ông Tá thay đổi công việc vài lần rồi tới tuổi hưu trí. 

Mỗi cuối tuần tôi đều rủ ông đi uống cà phê, đi câu cá, đi ăn ngoài hoặc đi gặp các bạn già của ông. 

Ông rất quý mến tôi. Riêng tôi vẫn kính trọng ông như ngày xưa, nói với ông, tôi lúc nào cũng là lính của ông.

Tôi âm thầm theo dõi sinh hoạt của cô Sylvie, vẫn tôn thờ thánh nữ của tôi. Đồng thời cùng chia sẻ sự lo lắng của ông bà Tá. 

Tôi hứa với cô, bất cứ khi nào cô cần đều có tôi, không điều kiện. Những lần cô gọi tôi giúp giải vây đám côn đồ, tôi đều hăng hái. Cô xem đó như là nhiệm vụ của tôi phải bảo vệ cô. Buồn ít nhưng vui nhiều.


ĐÔI MẮT NGƯỜI THƯƠNG  

Những năm sau này tôi nhận ra mắt thường bị khô, cộm. Đôi lúc nhạy cảm với ánh sáng, nhất là với ánh sáng chói. Tôi nghĩ, có lẽ do hậu quả của thời gian làm nghề hàn nên không quan tâm.

Tôi hối hận đã không mua thêm bảo hiểm cho dịch vụ khám mắt định kỳ, ngoài Medicaid của tiểu bang. Nếu được phát hiện sớm tôi đã không lâm vào hoàn cảnh ngặt nghèo.

Cho đến khi thị lực giảm, nhìn mờ. Soi gương thấy có đốm trắng trên giác mạc, tôi hoảng hốt, đến bệnh viện nhãn khoa khám thì tỉnh trạng đã khá nghiêm trọng. 

Bác sĩ chẩn đoán thoái hóa giác mạc nặng, thị lực có thể suy giảm theo thời gian. Nguy cơ mù vĩnh viễn nếu không được điều trị kịp thời. 

Các loại thuốc nhỏ mắt và thuốc nhỏ nước mắt nhân tạo chỉ giúp giảm khô mắt và bảo vệ giác mạc tạm thời.

Hai giải pháp được bác sĩ đưa ra. Hoặc cấy ghép mô nhân tạo bằng phương pháp hiện đại giúp tái tạo giác mạc, hoặc phẫu thuật ghép giác mạc của người hiến tặng. Giải pháp thứ hai có lẽ thích hợp với tôi hơn, nhưng danh sách chờ ghép quá dài, vi hiếm nguồn hiến tặng. 

Tôi được giới thiệu ghi danh tại chi nhánh của tổ hợp “Northwest Eye Surgeons” ở Chicago, với hy vọng rất mỏng manh. 

Tin dữ ập đến với gia đình ông bà Tá. Cô Sylvie bị tai nạn giao thông! Tình trạng nguy kịch. Bệnh viện tiên liệu xấu, khó qua khỏi. Gia đình họp khẩn cấp. Không ai giữ nổi bình tĩnh ngoại trừ ông Tá. 

Tôi nghe tin mà bất lực, mắt đã mờ hẳn, không thể di dịch xa như ý muốn. Cậu em trai của cô chở tôi đến bệnh viện gặp mọi người. 

Cô Sylvie đã chết não. Bà Tá khóc lóc thảm thiết, ôm con nói trong nước mắt ràn rụa, con tôi chết trẻ, chết oan uổng, làm sao có thể nhắm mắt. 

Ông Tá nghe thế, đột nhiên có một ý nghĩ nảy sinh trong đầu. Ông đề nghị hiến giác mạc của cô Sylvie cho tôi để cặp mắt của cô sẽ sống mãi.

Bà Tá không đồng ý nhưng dưới áp lực và lời khuyên chân thành cuối cùng chấp nhận. 

Quá bất ngờ, tôi không kịp suy nghĩ, bất động, cảm kích không nói nên lời. 

Việc lấy giác mạc phải được thực hiện trong vòng 6-24 giờ sau khi người hiến qua đời để bảo đảm chất lượng mô nên xe cứu thương đưa xác cô Sylvie và tôi đến bệnh viện nhãn khoa “Northwest Eye Surgeons” tức thời. 

Cuộc phẫu thuật thành công như mong đợi. Ghép giác mạc là một phẫu thuật ngoại trú. 

Sau khi theo dõi vài giờ, không thấy có nguy cơ biến chứng, tôi đã được xuất viện cùng ngày. Phải giữ băng mắt trong 2 ngày và dán nắp kính bảo hộ khi ngủ, để tránh vô tình chạm dụi mắt. 

Sau 2 ngày thì tháo băng. Không có cảm giác khó chịu và sưng nên tôi lại nhờ cậu em trai đưa về nhà ông bà Tá để cảm ơn tấm lòng nhân đạo bao la của ông bà và cũng để đến trước di ảnh cô Sylvie thành tâm tưởng nhớ. 

Ông bà muốn xem đôi mắt tôi nhưng không được vì vẫn còn mang kính do nhạy cảm với ánh sáng và chảy nước mắt. Chỉ khi thị lực ổn định mới được để mắt trần. 

Điều kỳ lạ, mỗi khi nhìn vào gương, tôi không thấy chính mình, mà thấy hình bóng cô Sylvie. Đôi mắt ấy, cái nhìn ấy – là của cô! 

Mỗi lần nhắm mắt, tôi đều cảm nhận như cô vẫn ở bên cạnh, cười với tôi, nói chuyện với tôi bằng chính đôi mắt đó.

Bà Tá vẫn chưa hoàn toàn chấp nhận sự thật. Bà không biểu lộ thiện cảm với tôi vì nghĩ tôi không xứng với con gái bà. Nhưng giờ đây, mỗi lần nhìn tôi, bà lại thấy đôi mắt ấy – đôi mắt của cô Sylvie, trong veo mà day dứt. 

Có lần bà buồn bã nhìn tôi, chợt hỏi: 

– Dạo này… con có nhớ Sylvie nhiều không? 

Tôi sững lại. Bà chưa từng gọi tôi là “con”. Tôi khẽ gật đầu:

– Mỗi ngày, mỗi giờ, mỗi phút bà ạ. 

Bà Tá im lặng nhìn tôi. Gọi tôi là con nhưng có bao giờ bà xem tôi như con đâu. Giờ đây, từng ánh nhìn, từng cử chỉ của tôi đều gợi cho bà hình bóng cô Sylvie. Có lẽ, định mệnh đã sắp xếp để chàng trai này cùng chung sống với một phần cơ thể của con gái bà.

Một buổi chiều muộn, tôi ghé thăm nhà. Ông Tá ra mở cửa, vỗ nhẹ lên vai tôi, vẫn ánh mắt ấm áp: 

– Vào đi con, lâu rồi sao con không tới ăn cơm với gia đình?

Căn nhà từng đóng kín cửa vì nỗi đau mất con, hôm nay lại mở rộng với tôi. Bước vào, thấy trên bàn thờ di ảnh cô Sylvie, rạng rỡ như ngày nào. Tôi khẽ cúi đầu, thì thầm trong lòng:

-Cô…, cô vẫn đang đồng hành củng tôi trên con đường đời, đúng không? 

Ngoài hiên, gió nhẹ lay lay những chùm hoa giấy, nghe như tiếng động gật đầu. 

Từ ngày bước vào căn nhà của ông bà với tư cách một người thân, tôi dần quen với sự hiện diện của bà và ông trong cuộc đời mình. 

Bà Tá vẫn không thể gọi tôi là “con rể”, nhưng sự quan tâm của bà dành cho tôi không khác gì mẹ lo cho con. 

Bà kín đáo quan sát tôi. Mỗi lần đến thăm, bà đều cho tôi thưởng thức những món ăn Sylvie từng thích. 

Đôi khi bà hỏi han chuyện công việc của tôi, rồi chuyện nọ chuyện kia. Nhắc nhở tôi giữ gìn sức khỏe.


Tôi không biết từ khi nào tôi đã trở thành một thành viên của gia đình ấy. 

Mỗi khi ở bên ông bà, tôi cảm thấy gần cô Sylvie hơn, như thể cô vẫn hiện diện đâu đây, qua từng món ăn, từng bức ảnh, từng kỷ niệm nhỏ mà mọi người kể lại.

Sau ca ghép giác mạc, tôi phát hiện ra một điều lạ lùng. Đôi mắt tôi không chỉ giúp tôi nhìn rõ hơn mà dường như còn chứa đựng một phần ký ức. 

Có những lúc mơ màng, mơ mà như thực. Tôi thấy mình lái xe dưới cơn mưa tầm tã đón cô ở cổng trường, thấy bàn tay mình cầm một cuốn sổ nhỏ với những dòng chữ quen thuộc tôi chưa từng viết.

Một đêm nọ, tôi giật mình tỉnh dậy, tim đập thình thịch. Trong giấc mơ, tôi thấy mình đang đứng trước gương, nhưng khuôn mặt phản chiếu không phải của tôi, mà là của cô. Cô cười vui, hàm răng trắng bóng, ánh mắt tràn đầy yêu thương. 

– Cô vẫn ở đây, bên tôi, đúng không? Tôi lẩm bẩm, nhìn chằm chằm vào gương.

Đôi mắt trong gương loé lên ánh nhìn linh động. Không có tiếng trả lời, nhưng tôi có cảm giác như cô đang mỉm cười với tôi qua chính đôi mắt ấy. 

Tôi không kể điều này với ai. Tôi sợ nếu nói ra, người ta sẽ bảo tôi bị bệnh hoang tưởng. Dần dần cảm giác đó không ám ảnh nữa. Nó trở thành một sự hiện hữu quen thuộc, một niềm an ủi đích thực. 

Tôi không còn thấy cô đơn, vì biết rằng cô vẫn ở bên tôi, theo một cách đặc biệt.


Bà Tá lúc đầu vẫn giữ khoảng cách với tôi, nhưng càng ngày, bà càng thấy hình ảnh của chính con gái mình rõ nét hơn trong từng ánh mắt, từng cử chỉ của tôi. 

Bà lặng lẽ nhìn tôi chăm sóc chậu hoa giấy con gái bà từng yêu thích, thấy tôi cẩn thận lau chùi từng món đồ kỷ niệm của Sylvie, thấy tôi thỉnh thoảng lặng người nhìn về phía bàn thờ, như đang trò chuyện với cô.

Một hôm trong bữa cơm, bà bỗng giật mình, dí sát, nhìn vào mắt tôi, rơi cả đũa. Ảo giác khiến bà lạc giọng: 

– Đúng rồi! Đúng đứa con gái bé nhỏ của mẹ đây rồi! Con tôi đã trở về! Con tôi! Mẹ đã thấy con trong đôi mắt con. Mẹ…mẹ muốn…cho mẹ ôm con vào lòng…

Bà giang hai tay ôm một chiếc bóng vô hình rồi hôn lên mắt tôi. Bà nếm những giọt nước mắt lăn dài mà tôi không biết chảy từ lúc nào. 

Bà nói trong nước mắt:

-Cứ khóc đi con! Mẹ và con cùng khóc ! Những giọt nước mắt hạnh phúc của hai mẹ con mình! 

Qua cơn xúc động, bà trìu mến hôn lên mắt tôi một lần nữa:

-Hay là con dọn về ở đây đi. Mẹ muốn thấy con của mẹ mỗi ngày. 

Rồi giọng bà mềm đi:

–Ừ!, mẹ biết… con thương Sylvie. Con hãy xem nơi này như nhà nghe con. 

Tôi nghẹn lời. Đã vài lần bà gọi tôi là “con”, nhưng lần này gọi con xưng mẹ một cách tự nhiên. Cảm giác nhận được chân tình của bà tràn ngập trong lòng, tôi khẽ gật đầu.

Từ hôm đó, tôi qua lại nhà ông bà hàng ngày. Tôi chăm sóc họ như cha mẹ mình, còn họ xem tôi như con trong gia đình. Bà không khách sáo, mà dần chấp nhận sự thật. 

Bằng tâm linh, con gái bà vẫn tiếp tục sống trong thế giới này, với đôi mắt ấy, thông qua chàng trai trước mặt bà. 

Thời gian trôi qua, tôi vẫn không yêu ai khác. Trong lòng tôi, cô chưa bao giờ rời xa. 

Tôi vẫn giữ thói quen đi dạo trên những con đường cô từng đi, vẫn giữ quyển sổ nhật ký của cô bên mình, dù chưa một lần mở ra. Tôi sợ biết những điều không muốn biết.

Một buổi chiều, khi đang ngồi bên hiên nhà ngắm nhìn hoa giấy bay trong gió, bà Tá chợt hỏi: 

– Con vẫn không định tìm một ai khác sao? 

Tôi mỉm cười lắc đầu. Không cần phải nói gì thêm, vì bà đã hiểu. 

– Thôi được rồi… Bà thở nhẹ, không còn băn khoăn như trước. Dù sao thì, con vẫn là con của gia đình. 

Tôi nhìn bà, cười tươi. Tôi biết, dù cô đã không còn, nhưng tôi thay chỗ cô trong gia đình, vẫn cùng cô đi đi về về. 

Và dẫu cuộc sống có ra sao, tôi vẫn luôn mang theo đôi mắt người thương, để nhìn thế gian này bằng ánh mắt của cô, để yêu thương mọi thứ theo cách cô từng yêu thương. 

Hoàng hôn buông xuống, nhuộm vàng cả khung trời. Qua làn gió thoảng, dường như có ai đó đang cười bằng mắt.

***

Đồng cảm, người viết gửi tặng người trong truyện mấy câu:

Một đôi mắt, nhập hai tâm hồn,

Vui buồn cười khóc với thế nhân.

Sống-chung đời-lòng thề không đổi,

Nhắm mắt cùng nhau lúc lìa trần.

 

Nguyễn Cát Thịnh

Ngày 10 tháng 2 năm 2025