Trương Thế Phát là một
thương gia trẻ ở kinh đô Thăng Long. Ông có tàu bè chở hàng đi buôn bán ờ trong
và ngoài nước. Khi quân Pháp tiến đánh thành Hà Nội và chiếm Bắc Ninh, Thái
Nguyên, ông lên tàu đem gia đình ra ngoại quốc. Sau bao ngày lênh đênh trên biển
cả, gia đình ông đến Xiêm La (Thái Lan), rồi định cư tại đây.
Nhờ có tàu bè, ông
mang theo một mớ gia sản nên khi qua Xiêm ông đã có sẵn một gia tài. Với tài
kinh doanh, ông đã gây dựng một sự nghiệp khá lớn, gồm các cửa tiệm kim hoàn, cửa
tiệm vải vóc lụa là, và Trà Thất Mây Tần.
Là một nhà kinh
doanh, công việc bận rộn, nhưng ông luôn thương nhớ quê hương. Ông nhớ Hà Nội
ba mươi sáu phố phường, với năm cửa Ô xưa. Ôi! Những cô gái hàng Đào, hàng Bạc…
má đỏ, môi hồng, quần điều, áo lụa trắng, đeo xà tích bạc. Ông nhớ cốm Vòng, nhớ
phở, nhớ xôi và bánh cuốn Hà Nội. Ông nhớ Hồ Gươm, hồ Tây, chùa Trấn Quốc, chùa
Một Cột… Xiêm La có nhiều chùa lớn và nhiều lễ hội nhưng không đâu bằng hội
chùa Hương…
Ông nhớ những bài hát
ru, những điệu quan họ. Xiêm La có nhiều trái cây nhưng không bằng nhãn, vải,
cam, quít… Hà Nội. Ở Xiêm La ông có nhiều bạn mới, nhưng lòng ông vẫn nhớ nhung
các bạn Hà Nội và những kỷ niệm thời ấu thơ. Nhất là buổi đầu, ngôn ngữ bất đồng,
phong tục khác biệt làm cho ông chao đảo như con thuyền không lái.
Lúc bấy giờ nhiều người
trong nước cũng bỏ nước ra đi. Họ ra đi mang theo một bầu nhiệt huyết, một lý
tưởng cao siêu là khôi phục đất nước, giải phóng dân tộc. Có nhiều nhóm hoạt động.
Họ từ trong nước ra. Họ cũng từ Trung Quốc, Nhật Bản sang Xiêm hoạt động. Họ ở
lại Xiêm mà cũng có người đi qua, đi lại. Tuy là nhiều tổ chức khác nhau, tựu
trong có hai nhóm. Một nhóm thuộc phe quốc gia, một phái thuộc phe quốc tế.
Trà Thất Mây Tần do
con trai của ông là Trương Thế Đạt trông coi, còn các tiệm khác thì do phu
nhân, con trai thứ và các con gái ông quản lý. It lâu sau, Trương Thế Phát mất,
cơ nghiệp truyền lại cho phu nhân và các con. Trương Thế Đạt tiếp tục kinh
doanh Trà thất Mây Tần.
Trà Thất Mây Tần ở thủ
đô Băng Cốc là một nơi trai thanh gái lịch lui tới tấp nập. Không những người
Xiêm La mà người Cao Miên, Lào, Trung Quốc, Ấn Độ đều thường xuyên tới uống
trà, và thưởng thức ca vũ nhạc. Một hôm, có mấy người khách Á Đông tới trà thất
Mây Tần uống trà, uống rượu, Trương Thế Đạt nhận ra có một số khách là người Việt
Nam.
Ông bèn tới chào hỏi,
mới biết họ quả là người Việt Nam. Nghe giọng nói của họ, ông nhận ra họ là người
Bắc, người Trung, và người Nam. Ông hỏi thăm họ thì họ cho biết họ qua đây lập
nghiệp. Trương Thế Đạt rất vui mừng khi gặp lại đồng bào Việt Nam. Tâm trạng
hai bên thật vui vẻ như câu thơ “Thiên lý tha hương ngộ cố tri”. Họ hỏi ông tại
sao đặt tên Trà Thất là Mây Tần. Ông nói ông rất yêu quê hương, lòng luôn nhớ
băm sáu phố phường Hà Nội. “Hồn quê theo ngọn Mây Tần xa xa”.
Dần dần, hai bên quen
nhau, Trương Thế Đạt mời họ về nhà chơi. Kể từ đó hai bên liên lạc thân mật.
Sau một thời gian, khách hiểu rõ gia đình Trương là một gia đình yêu nước, vì
không cam tâm làm tôi tớ bọn ngoại xâm mà bỏ nước ra đi. Vì quen thân, họ cũng
cho biết họ thuộc đảng cách mạng tiến bộ Việt Nam, được thế lực quốc tế như
Liên Sô, Trung Quốc yểm trợ, thế lực rất mạnh, bám rễ trong và ngoài nước, có mục
đích bài phong đả thực, xây dựng một xã hội công bằng tự do, người không bóc lột
người. Đảng có Phan Bội Châu, Phan Chu Trinh, Hùynh Thúc Kháng tham gia, và có
khoảng mười triệu đảng viên.
Lực lượng đảng trong
nước đã vùng lên như Nguyễn Thiện Thuật, Nguyễn Thái Học, Hoàng Hoa Thám đã chiếm
được nhiều tỉnh trong nước, giết vô số thực dân Pháp. Trương Thế Đạt nghe họ
nói vậy cũng tin tưởng, ủng hộ cho họ một số vàng để làm quỹ hoạt động cứu quốc.
Trương Thế Đạt mất, con trai là Trương Thế Vinh nối nghiệp cha kinh doanh trong
ngoài, và ông cũng giữ mối liên lạc với tổ chức quốc tế, và cũng đóng góp vàng
bạc cho họ. Trà thất Mây Tần và nhà của Trương Thế Vinh trở thành nơi ẩn náu và
hoạt động của đảng cách mệnh.
Ông được chi bộ đảng
khen ngợi là “nhân sĩ yêu nước”, và những Việt kiều ở Thái Lan theo Cộng Sản được
gọi là “Việt kiều yêu nước”. Gia đình Trương Thế Vinh đã được chính phủ Việt
Nam Dân Chủ Cộng Hòa gửi giấy ban khen là gia đình yêu nước, đã có công với
cách mạng.
Sau 1945, Đệ Nhị Thế
Chiến chấm dứt, Việt Minh cướp chính quyền. Một số dân chúng vì nạn đói, vì sợ
Cộng Sản và thực dân Pháp nên đã bỏ nước sang Lào, Miên, Xiêm La, hoặc Pháp. Những
người Việt Nam sinh sống tại Xiêm La ngày càng đông, và những người theo phe Cộng
Sản càng mạnh.
Năm 1954, Hiệp Định
Geneve chia đôi Việt Nam. Nước “Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa” giao thương với Xiêm
La tức Thái Lan, và đặt tòa đại sứ tại Băng Cốc. Những đảng viên Cộng Sản Việt
Nam ra mặt công khai hoạt động. Họ ra sức vận động “Việt kiều” tại Thái Lan về
xây dựng đất nước. Chính sách này cũng được phát triển nhiều nơi như Pháp, Lào,
Miên…
Họ bảo “đất nước ngày
nay cần nhiều bàn tay đóng góp. Việt Nam nay đã tiến lên Xã Hội Chủ Nghĩa, nông
dân có ruộng cày, thoát khỏi cảnh làm nô lệ cho bọn phú nông địa chủ; xã hội
bây giờ không còn nạn người bóc lột người. Sinh viên học sinh được tự do học
hành, không phải đóng học phí mà còn được chính phủ nuôi ăn học, cấp sách vở
cho đến khi thành tài.
Trong nước ai cũng có
công ăn việc làm, không ai thất nghiê.p. Họ gửi tặng ông nhiều sách báo, có nhiều
thơ ca, âm nhạc và tiểu thuyết ca ngợi sự lãnh đạo tài ba của đảng và chính phủ”.
Trương Thế Vinh tuy sinh tại Thái Lan, nhưng được nghe cha ông ca tụng về con
người và đất nước Việt Nam, nay lại được nghe thêm những lời tuyên truyền của cộng
sản nên càng thêm yêu nước, và càng nhớ quê hương. Ông luôn luôn mở đài Hà Nội,
và những bài thơ, bản nhạc đã gieo vào lòng ông tình yêu quê hương, tổ quốc.
Lúc bấy giờ công việc
buôn bán ngày càng khó khăn khiến Trương Thế Vinh chán nản. Nay được “cán bộ” cộng
sản kêu gọi và khuyến khích, vì vậy ông quyết định trở về góp sức xây dựng quê
hương. Ông nay được ban khen là “gia đình có công với cách mạng”. Nếu về Việt
Nam chắc ông sẽ được đảng và nhà nước quý trọng. Con đường tương lai rộng mở
trước mắt ông.
Ta về ta tắm ao ta!
Ông muốn trở về tắm
ao ta, về làm người hùng cứu nước, còn hơn là sống ở quê người, dù là triệu phú
cũng có mặc cảm là kẻ tha phương cầu thực, kẻ lưu đày, là công dân bậc hai!
Ôi! Nước ta nay đã độc
lập, không còn bọn thực dân Pháp xâm chiếm quê hương. Vì thực dân Pháp mà nhân
dân ta khốn khổ điêu tàn. Vì thực dân Pháp mà tổ phụ ông phải bỏ quê hương mà
đi. Nay là một dịp để ông trở về quê hương, về 36 phố phường Hà Nội và năm cửa
Ô xưa! Tình yêu quê hương không còn là một mớ tình cảm bâng khuâng mà đã biến
thành sự thực.
Ông lo bán nhà cửa,
hàng hóa và các cơ sở kinh doanh thu được năm trăm lượng vàng và mười ngàn đô
la Mỹ. Sau khi đã thanh toán mọi thứ, ông đã “đăng ký” mua máy bay trở về Hà Nội
thân yêu. Nhưng tòa đại sứ Việt Nam CS tại Thái Lan đã lo mọi sự. Tất cả “Việt
kiều” tại Thái Lan sẽ cùng nhau về Việt Nam bằng đường hàng không sang Cam Bốt
rồi từ đó sẽ đi xe ô tô hay máy bay về Việt Nam.
Sau khi đoàn “Việt kiều”
Thái Lan về đến Cam Bốt, họ được chuyển ngay lên xe ô tô Liên Sô là loại xe bốn
bề kín mít chở ngay về Quảng Bình Việt Nam. Khi về đến biên giới Việt Nam, cả
đám được cán bộ Cộng Sản đeo súng yêu cầu xuống xe để vào một trung tâm, bốn bề
rào kín và có lính gác. Họ bảo:
“các Việt kiều tạm ở
lại đây một thời gian để học tập đường lối chính sách của Đảng và nhà nước. Họ
ra lệnh các Việt kiều tập họp lại, gia đình nào theo gia đình đó. Họ bảo mọi
người không được ra khỏi trung tâm nếu không được trung tâm cho phép”. Họ đưa mọi
người vào hội trường. Viên “thủ trưởng” tỏ ra rất lịch sự. Ông nói:
Ông vừa dứt lời, mọi
người vui vẻ hoan hô, tiếng vỗ tay nghe vang như tiếng pháo.
Tiếp theo, ông nói:
Ông nói xong thì lui
bước, để cho một đại biểu khác lên tiếng yêu cầu đồng bào làm bản tự khai hồ
sơ, lý lịch, nhất là phải kê khai vàng bạc, kim cương, hột xoàn và đô la. Trong
khi mọi người tập trung ở hội trường, cán bộ cộng sản đã vào khám xét hành lý của
Việt kiều. Những ai có chìa khóa va ly hay khóa các hộp kín, họ đến bảo nhỏ
giao nộp chìa khóa cho họ làm thủ tục kiểm tra. Ngay hôm đó, họ bắt mọi người
giao nộp vàng, kim cương, nữ trang và đô la.
Ông cán bộ nói:
“Đảng sẽ giữ tài sản
cho họ vì sợ bọn biệt kích Mỹ ngụy cướp của giết người.. Cứ yên tâm đưa chính
phủ giữ dùm, rồi chính phủ sẽ trả lại cho các gia đình sau khi tình hình đã được
ổn định.”
….Đã nhận 300 miếng
kim loại bề ngoài màu vàng… Đã nhận một ngàn tiền nước ngoài… Đã nhận hai mươi
viên đá nhỏ óng ánh…
Đến đây thì các Việt
kiều biết mình đã lầm, đã mắc gian kế. Họ cũng như Thúy Kiều trong ngày đầu gặp
Mã Giám Sinh đã kêu lên:
Vài ngày sau, các “Việt
kiều” được “phân phối” về các thôn xóm ở miền Bắc. Gia đình Trương Thế Vinh được
“phân phối” về một làng ở Quảng Bình. Ông chất vấn cán bộ:
– Chúng tôi xin về Hà
Nội là quê hương của tôi và đã được Tòa Đại Sứ Việt Nam ở Băng Cốc chấp thuận.
Nay sao các ông lại bắt tôi về Quảng Bình?
Tên cán bộ trong “ban
Việt kiều yêu nước” nói:
”Nay chúng ta đang
xây dựng Hà Nội thành một thủ đô to lớn và văn minh hơn mười lần xưa. Hà Nội
tương lai sẽ có những tòa cao 40-50 tầng, vĩ đại hơn Mỹ. Vi là xây cất chưa
xong, nên chưa có nhà cho đồng bào ở. Vậy ông tạm ở lại Quảng Bình một thời
gian, rồi sẽ đưa gia đình về Hà Nội sau”.
Biết rằng phản đối
cũng vô ích cho nên gia đình ông phải lên xe về Quảng Bình. Gia đình ông được đổ
xuống Quốc Lộ I, rồi được công an dẫn bộ tới một làng nhỏ, cách quốc lộ vài cây
số. Làng này cho ông một miếng đất ven sông để ở và canh tác. Nơi ông ở là bãi
sông vắng, cách xa xóm làng vài cây số.
Ông là một kẻ ngụ cư.
Hơn nữa, ông là một kẻ nguy hiểm. Dân làng không ai dám giao thiệp cùng gia
đình ông vì họ coi gia đình ông như một những kẻ gián điệp từ ngoại quốc về để
phá hoại xã hội chủ nghĩa.
Tiền của mất sạch,
gia đình ông trở thành kẻ bần cùng nhất nước, cô đơn nhất nước. Thư ông gửi đi
không có hồi âm. Ông không nhận được lá thư nào từ Thái Lan hay Hà Nội. Ở Thái
Lan, ông có tài sản, bạn bè, nhưng về đây, quê hương Việt Nam,Trương Thế Vinh
và gia đình bị lưu đày và cấm cố. Gia đình ông vì yêu nước mà trở về nay lại bị
coi là kẻ thù của dân tộc. Sống ở Thái Lan, ông tự coi là người xa lạ, nay về
Việt Nam, ông lại trở thành người xa lạ trên chính quê hương mình.
Ông suy nghĩ xa gần
mà lòng đau như cắt. Ông trách ông ngu dại. Nước Thái Lan đã cho ông nương tựa,
giúp ông làm giàu, con cái ông học hành thành tựu, thế mà ông bỏ Thái Lan mà về
Việt Nam, về quê mẹ, nhưng quê mẹ đã giết gia đình ông, cướp đoạt tài sản và hy
vọng của ông!
Kẻ sát nhân cướp bóc
chính là những kẻ mà ông đã nuôi nấng, kẻ đã rao giảng tự do, nhân đạo và bình
đẳng! Ông đã bỏ mồi bắt bóng! Ông là người ngu xuẩn nghe theo những lời phỉnh nịnh
để rồi làm hại mình và con cháu!
Vài năm sau, chiến
tranh bùng nổ, miền Bắc bắt thanh niên nam nữ “sinh Bắc tử Nam”. Trương Thế
Vinh có một trai, một gái. Con trai ông phải vào “bộ đội” rồi tử thương tại chiến
trường miền Nam. Con gái ông phải đi “thanh niên xung phong”, lâm bệnh rồi chết
trên Trường Sơn. Hai vợ chồng cắn đắng nhau.
Bà trách ông nhẹ dạ
tin lời kẻ cướp. Bà không chịu nổi đời sống kham khổ và nỗi uất hận vì bị lường
gạt nên mắc bệnh, không thuốc men mà chết. Còn ông, trong cơn đau khổ, uống rượu
say rồi chửi Cộng Sản. Kết cuộc ông bị công an bắt bỏ tù rồi chết trong trại tù
Thái Nguyên.
Sơn Tùng

No comments:
Post a Comment