1. Tôi sinh ra, và lớn lên, tại Nha Trang. Gia đình bên ngoại gốc
“Nhe Treng” rặt, và bên nội, gốc Quảng Trị, cũng rặt. Bởi vậy, anh em tôi trong
nhà nói một thứ tiếng lai căng, ở trường học không nói tiếng Việt, thành thử ra
ngoài không có cái giọng, kiểu “chu che bữ nê mềnh lợi eng cuôm dí ké nữ” (dịch
nghĩa: Chu cha bữa nay mình lại ăn cơm với cá nữa) cố hữu của dân địa phương thứ
thiệt, như mấy đứa bạn cùng xóm. Rồi sau năm 1954, người Bắc di cư vô Nam nói,
ôi thôi, đủ thứ tiếng Bắc kỳ, nghe rất mệt tai. Trong số, tôi chỉ chấm, và mê, tiếng
hát mượt mà, đài các, phát âm chuẩn xác của những nữ ca sĩ chính gốc Hà Nội,
như Kim Tước, Thái Thanh, Mộc Lan, Tâm Vấn, và những minh tinh, như Kiều Chinh,
Mai Trâm. Tất cả những mỹ nhân một thời ấy đã mang theo vào Miền Nam dáng
vẻ thanh lịch và giọng nói quý phái từ Hà Nội cổ kính, và cố đô Thăng Long ngàn
năm văn vật.
Hà Nội mà tôi chưa bao giờ được thấy, nhưng biết qua thơ văn nhờ hồi đi lính bắt đầu đọc những tiểu thuyết tiền chiến và những tạp chí của mấy ông nhà văn, nhà thơ Bắc kỳ di cư. Nhất là nghe những ca khúc đương thời thương về Hà Nội. Trong đó có một câu, trong một bài, mà ông cậu ruột mười sáu tuổi, em út của mẹ tôi, nghĩa là dân Nhe Treng đặc sệt, cứ âm ư mãi, riết rồi thành lố bịch: “Tôi xa Hà Nội năm lên mười tám khi vừa biết yêu…” Lố bịch là phải, bởi lẽ không ai có thể gây xúc động mạnh lên trái tim thính giả trong những bài hát nhớ Hà Nội cho bằng những nhạc sĩ, ca sĩ di cư chánh hiệu Hà Nội của thời trước 1975.
Quả vậy, Trịnh Công Sơn, gốc
Huế, một
thời là bạn học cùng lớp Philo tại J.J. Rousseau, một tên nằm vùng phản chiến, sau 1975, muốn lấy
điểm với chế độ mới, cũng bắt chước viết hai ca khúc về Hà Nội, nhưng không hay
bằng, vì cảm xúc, nguồn hứng rất giả tạo, và hình ảnh rất ước lệ, khuôn sáo, mặc
dù cũng vẫn là Hồ Tây, cũng mùa thu mây bay, cũng mùi hoa sữa, cũng cây bàng lá
đỏ… Chưa kể, câu kết, trong bài “Nhớ mùa thu Hà Nội”, “Hà Nội mùa thu,
mùa thu Hà Nội / Nhớ đến một người để nhớ mọi người”, muốn nhắn gửi gì
đây? Chưa vội chụp nón cối, người ta phải thắc mắc: Mùa thu nào?
Tổng khởi nghĩa 1945 ư? Một người nào? Đồ tể Hồ Chí Minh, với
khẩu hiệu “mình vì mọi người, mọi người vì mình”, mà các tù binh cải tạo đã phải
nghe lải nhải hoài, phát ớn đến tận cổ?
2. Hà Nội, tôi
đã thấy, đã nghe, đã gặp một lần, vào tháng 4 năm 1983. Cách đây ba mươi hai
năm. Không như một du khách, hay một Việt Kiều yêu nước. Mà là một tù binh cải
tạo. Đúng ra gặp hai lần.
Lần đầu, cuối năm 1975, một
cách chớp nhoáng, bất đắc dĩ. Tại bến cảng Hải Phòng, tôi được bốc từ tàu Sông
Hương ra và tống lên xe lửa, chực sẵn để chở, cùng với hàng trăm ngàn đồng đội,
lần lượt, đến các
trại giam vùng biên giới, Sơn La, Hoàng Liên Sơn, Lào Cai, Yên Bái, Quảng Ninh,
Cổng Trời… Khi đoàn tàu đi ngang Hà Nội, chắc quá nửa đêm, tôi cố nhướng mắt
nhìn ra bên ngoài, từ song cửa sổ hẹp. Tàu chạy nhanh, trời lại tối, và đèn đường
leo lét, chỗ có chỗ không, nên tôi không thấy gì cả, ngoài một Hà Nội còn đang
ngủ say, phố xá lặng thinh, sương rơi lả tả, và những hàng cờ đỏ sao vàng giăng
mắc, ủ rũ, trên những góc phố. Làm nhớ đến hai câu thơ oan nghiệt –đã bóp chết
đời tác gỉả, Trần Dần: Tôi bước đi, không thấy phố, thấy nhà / Chỉ thấy
mưa sa trên màu cờ đỏ… Rồi tàu rẽ lên cầu Long Biên, khá dài. Tôi thấy
hai bên đường sắt vài người dân đi bộ hay đạp xe, không biết về đâu, co ro
trong chiếc áo tơi thô sơ. Trên sông, vài chiếc thuyền câu đậu bến im lìm.
Lần thứ hai, lần này, tám
năm sau, được tiếp xúc với Hà Nội lâu hơn, đúng một ngày, nghĩa là mười hai tiếng
đồng hồ. Quả thế, một buổi sáng đẹp trời, tại trại giam Vĩnh Phú, K1, đang chuẩn
bị đi lao động, tôi nghe đọc tên mình được thả –áp chót trong danh sách một
trăm mười người thuộc tất cả các trại Miền Bắc, mà Vĩnh Phú chiếm nhiều nhất:
có bốn mươi tên trúng số độc đắc, trên toàn năm K, trong khi ở một số trại, nhỏ
hơn, chỉ có vài mạng thôi. Tôi ngạc nhiên, không biết tại sao mình lại được thả,
nhưng chắc chắn không phải vì công đức cải tạo tốt, trái lại. Thây kệ, tôi tự
nhủ, thắc mắc làm chi. Vội vàng về “buồng” (phòng), vì chỉ được mười phút sửa
soạn tư trang. Không có gì, ngoài bộ đồ tù đang mặc trên người, và mùng, mền, khăn
mặt, bàn chải đánh răng, một bịch đường táng đen, một gói bánh mì khô, hai hộp
sữa đặc, và một mớ thuốc cảm, đau đầu, đầu bụng, để dành từ những lần thăm nuôi
trước. Tôi tặng hết đồ ăn và thuốc men cho những anh em, lúc ấy, khai bệnh nằm
nhà.
Rồi tất cả lội bộ xuống K5,
tức K chỉ huy, cách khoảng 15 km, để làm thủ tục xuất trại. Tại đây, được trả lại
quần áo “dân sự”, đồng hồ, và tiền bạc bị “đăng ký” để “Cách mạng giữ hộ” khi
bước chân vào trại tù đầu tiên, ở Miền Nam. Không biết đủ, thiếu thế nào, vì
sau tám năm, không nhớ và điều đó không quan trọng nữa. Tù binh được thả sinh
hoạt tại một buồng riêng, không được “quan hệ linh tinh” với các cải tạo viên
khác.
Khoảng 10 giờ sáng hôm sau, chúng tôi trút bỏ bộ đồ tù, mặc lại quần áo cũ, có anh diện giày da thay cho dép râu. Ai nấy mặt mày tươi rói, đẹp trai hẳn ra, như dưới chiếc đũa thần của một bà tiên, không còn hốc hác, bèo nhèo như dạo nào, nhất là sau mấy ngày được vỗ béo, ăn no ngủ kỹ. Được xe trâu chở ra tận bến phà trên sông Hồng. Sau hơn nửa giờ, cập bờ Ấm Thượng. Ở đây, phải chờ đến 10 giờ đêm mới có chuyến xe lửa từ Lào Cai đến “rước” về Hà Nội. Đi theo có hai cán bộ. Hai tên này, bình thường thuộc loại hắc ám, bữa nay có vẻ dễ dãi, chắc vì được dịp đi chơi Hà Nội hoặc tin rằng không thằng tù binh nào được thả lại dại dột âm mưu làm điều “phản động”. Để giúp thời gian qua mau, chúng tôi tụm năm tụm ba nói chuyện, cười đùa rổn rảng, hoặc mua bún, bắp luộc, xôi vò và bánh gai của các bà và em bé bán hàng rong tại chỗ –đã quá quen thuộc với những đợt thả tù binh. Nghe nói Ấm Thượng có đền thờ Hùng Vương, tôi và một anh bạn xin phép đi viếng, nhưng cán bộ bảo xa lắm, không cho. Trời hơi nóng, tôi bèn cởi áo quần nhảy xuống sông tắm. Nước phù sa đỏ ngầu, nhuộm cả ra quần đùi mới, trắng tinh. Lội ra xa, thấy sóng lớn quá, sợ bị cuốn đi, chết uổng mạng, tôi bơi vào, lên bờ nằm nghỉ, phơi nắng, đợi xe lửa.
I
a) Các
cô, các bà mua bán chui thấy một số tù binh, trong đó có tôi, mặc quần jeans,
mà họ gọi là “quần bò”, liền sà đến, gạ mua. Một cô, khá xinh, mồm dẻo kẹo, chỉ
vào cái quần xanh, bạc màu, bụi đời (càng bụi càng có giá, cô nói) của tôi, và
bắt đầu dụ, ngon lành:
- Ông anh bán cái quần bò
này cho em nhá!
Tôi giật mình, khoát tay:
- Đâu được cô! Hiện giờ tôi
chỉ có mỗi cái quần này trên người, bán cho cô, lấy gì mặc?
Cô vẫn nài nỉ:
- Thì em đổi rẻ cho anh cái
quần tây thường khác.
Tôi vẫn lắc đầu. Rồi cặp mắt
thiện nghệ của cô bỗng rà lên khắp châu thân tôi, như radar, ngừng
trên chiếc áo pulltrắng, cổ cao, tôi đang mặc, tuy còn mới, nhưng
sau tám năm “biệt giam” trong nhà kho kín mít, đã ngả sang màu vàng nhạt, và
thoang thoảng có mùi mốc, pha lẫn với hương nách cũ, chưa kịp giặt, bay ra… khá
nồng. Cô lên tiếng tán, ngọt xớt:
- Hay là ông anh bán cái áo
này cho em!
Trong túi xách tôi còn một
áo sơ mi xanh, nên đồng ý bán. Cô ta trả giá 3 đồng. Tôi ngồi im re.
Từ hồi cha sanh mẹ đẻ đến nay, tôi có đem áo quần đi bán bao giờ đâu, làm sao
biết giá cả? Một bà già, hàm răng đen láy, ngồi cạnh cô bỗng lớn tiếng nói: “Ối
giời, chỉ có quân ăn cướp ngày mới giả cái giá đó. Tôi giả 5 đồng đấy, cậu bán,
tôi lấy ngay!” Tôi lại càng phân vân, chưa biết xử trí thế nào thì cô nọ liếc
xéo bà kia: “Tôi tăng lên 10, mụ già nhà quê Quảng Ninh có theo nổi không nào?”
Nghe hai người sừng sộ với nhau, đám tù binh và cả tên cán bộ xúm lại, xem màn
bán đấu giá “đột xuất”, càng lúc càng hấp dẫn. Một anh thiếu tá đồng tù đập đập
tay xuống thềm xi măng, hỏi: “Mại dô, mại dô. Có ai trả thêm nữa không?” Bà già
cười khẩy: “Tôi giả 12 đồng đấy, con nặc nô Hà Tĩnh có ý kiến gì không nhỉ?” Cô
gái tức khí, đáp lễ: “Tôi trả thêm 3 đồng, tổng cộng 15, mụ già nhà quê Quảng
Ninh thấy thế nào?” Cả đám vỗ tay rào rào, tên cán bộ cũng cười. “Mụ già nhà
quê Quảng Ninh”, cuối cùng, chịu không thấu, bỏ cuộc. Anh thiếu tá chỉ vào “con
nặc nô Hà Tĩnh”, phán: “Không ai trả thêm nữa, tôi khóa sổ nè và long trọng
tuyên bố rằng cô em gái Hà Tĩnh này được trúng tuyển mua áo pull của anh trai đại
úy tù binh ngụy Vĩnh Phú, với giá 15 đồng chẵn, không bớt xu nào”. Cả đám, tù
cũng như dân, ôm bụng cười lăn. Tiền trao áo múc, tôi bèn cởi ra
ngay tại chỗ, giao tận tay cho cô. Vào thời điểm đó, 15 đồng là món tiền phải chăng,
vì giá một tô phở khoảng 7 đồng, một ly bia 3 đồng. Tổng kết, có hai mươi tù
binh “bị” mua áo, mua quần trong buổi sáng đó. Đủ tiền bát phố Hà Nội trong một
ngày.
b) Bất
ngờ có tiền phụ trội trên trời rớt xuống, cộng vào món tiền khiêm tốn được trại
trả lại, tôi bỗng nổi hứng, đóng vai trưởng giả học làm sang: tắm nước nóng.
Phòng tắm kế bên sân ga, thấp, nhỏ, mái tôn và vách lợp bằng tre đan. Trên cửa,
viết nguệch ngoạc ba chữ bằng vôi trắng: Tắm lước lóng. Phòng chỉ
có một lối ra vào. Giá vé là 2 đồng, trả trước cho một chị sồn sồn, hô răng, ngồi
gác bên ngoài. Vừa lom khom chui vào, đóng cửa lại, chưa kịp làm gì, tôi nghe
có tiếng nước xối ở gian trong, và dưới ánh nắng lùa qua khe hở, thấy vắt ngang
trên tấm liếp ngăn hai gian một quần tây xanh đậm, và một áo lụa vàng, có thêu
chim cò, kèm theo hai mảnh đồ lót, trên trắng, dưới hồng, rất “hiện đại”, rất
khêu gợi mà, tôi đoán nhanh, chủ nhân chắc chắn không thể là một trong những “mụ
già nhà quê Quảng Ninh” khi nãy. Tôi đang đứng lóng ngóng, chưa biết phải làm
gì, thì từ phía trong vọng ra một giọng Bắc còn trẻ, nhưng không phải âm hưởng
Hà Nội, của một cô chắc đã nhìn thấy tôi qua khe liếp, trong gian ngoài đầy ánh
sáng: “Anh là tù cải tạo hả? Đừng ngại, cứ vô tư cởi quần áo ra, phòng tắm công
cộng, ai cũng làm như thế cả!” Tôi im lặng, vì sợ gặp phải thứ dữ, chứ có gái
nhà lành nào cả gan dám tắm truồng chung đụng như thế, chưa kể tắm xong, làm
sao đi ra, nếu gian ngoài đang có người? Tôi đứng bất động như người trúng gió,
căng mắt dòm vào, nhưng bị bóng tối ghen tuông che kín, không cho thấy chi hết.
Sau tám năm thiếu đàn bà, trí tưởng tượng vụt bay lên, bay cao, bay xa, rạo rực,
nhưng cố dằn xuống kịp thời.
Tôi múc, bằng gáo, nước từ
trong hai cái vò sành, bắt đầu súc miệng. Nước quá lạnh, buốt thấu răng, và óc,
làm tê liệt giây thần kinh thèm muốn. Tôi mở hé cửa ngoài, thò đầu ra, khiếu nại
với chị bán vé. Chị ta trả lời, đúng bài bản, như quá quen với “sự cố” này: “Bữa lay,
nhiều khách tắm quá, bác ạ, đến nượt bác thì lước lóng hết
đột xuất, em đun không kịp, bác cố gắng khắc phục tắm bằng lước nạnh hộ
em!” Tôi đành rửa mặt, và nhúng khăn lau sơ phần trên, rồi mặc lại áo, đi ra.
Xong một buổi tắm “lước lóng”. Tại thủ đô nước CHXHCNVN, năm 1983. Không biết
bây giờ phòng tắm dã chiến bên hông ga Hàng Cỏ ngày ấy có còn không.
c) Vì thời
gian chờ xe lửa quá lâu, theo đề nghị của anh em, trưởng đoàn tù binh, trung úy
người Huế –được bầu một cách “khẩn trương” do nhu cầu công vụ– xin cán bộ cho
phép anh em đi “tham quan” Hà Nội mùa xuân. Hai cán bộ “hội ý” với nhau, và chấp
thuận, với điều kiện không đi xa và phải trở lại ga trước 7 giờ tối, ai trễ sẽ
bị bỏ lại, ráng chịu. Lúc đó mới 11 giờ trưa. Tất cả hồ hởi phấn khởi xuất
quân. Một vài anh em già, yếu, bệnh, mệt, ở lại nhà ga, và tình nguyện giữ hộ
các túi xách với lời bảo đảm sẽ được “đền ơn bội hậu” khi anh em đi chơi về.
Tôi rủ ba người bạn khá thân
cùng đội tù K1 đi chung, trong số có một ông Thiếu tá già Tiếp Liệu Bộ Tổng
Tham Mưu, cởi mở, chính gốc Hà Nội, nói năng lúc nào cũng từ tốn, chậm rãi, rề
rà, nghe sốt cả ruột. Vừa rời sân ga, ông Thiếu tá bỗng dừng lại, vẻ mặt đăm
chiêu, mắt ngó ngang ngó dọc, chỉ chỏ cho ba chúng tôi, không phải dân Bắc kỳ,
và nói:
- Hồi năm 1954, nhà tớ ở gần
ga Hàng Cỏ này, trong khu Hàng Bông - Thợ Nhuộm, tức phía Cửa Nam.
Không biết căn nhà có còn đấy không.
Rồi ông dẫn cả bọn đi loanh
quanh, và cuối cùng chui vào một dãy phố, đối diện ga. Những túp nhà chạy dọc
theo con phố đều cũ mèm, mái đã rêu phong với những viên ngói lung lay, như
răng bà lão, không biết bay theo gió lúc nào, tường vôi lâu ngày loang lổ thành
màu trắng đục, có chỗ lòi ra một lớp gạch xám xịt. Phía trước là những hiệu
buôn, được ông thiếu tá gọi là “hàng”, thấp lè tè, bước vào sơ ý là bị đụng vỡ
đầu, nối liền với những “căn hộ” phía sau, cao hơn, lớn hơn. Sau một phút lưỡng
lự, ông bước vô một gian “hàng”, không biết tên gọi là gì, có lẽ hàng Giày, vì
bán toàn giày dép. Nghe ông kể, khi cả gia đình ông leo lên tàu há mồm vào Nam,
thì, dĩ nhiên, cửa hiệu bán guốc và nhà ở của gia đình ông bị tịch thu, và đổi
chủ. Chủ mới, không biết mấy đời rồi, là một anh trung niên, nói tiếng Quảng
Bình giả giọng Bắc, lịch sự hỏi: “Các bác muốn gì ạ?” Ông thiếu tá già cười, mà
như mếu, theo nghĩa hoàn toàn đen, vì tám năm dài đằng đẵng trong tù bạn bè đã
bẻ giùm ông, bằng những sợi chỉ bện lại, mất hết năm răng cửa và hai răng hàm:
“Trước năm 1954, tôi đã ở nhà này”, ông trả lời. Rồi xin ra phía sau để nhìn lại
nó, và kể hết đầu đuôi câu chuyện. Nghe xong thiên tình sử, anh chủ mới mủi
lòng, ân cần mời ông chủ cũ lên cầu thang gỗ thăm lại căn nhà của chính ông.
d) Ba thằng
chúng tôi, hai Nam kỳ, và một Trung kỳ, không có dây mơ rễ má gì với cố đô Hà Nội,
hay tàu há mồm, xin rút lui, để mặc ông thiếu tá già thoải mái đi tìm
thời gian đã mất, như văn sĩ Pháp Marcel Proust. Lúc ấy có hai đồng tù trẻ,
khác K, xin nhập bọn. Tiếp tục dạo phố. Vừa đi tôi vừa quan sát, ngắm nhìn
thiên hạ, vừa nghĩ đến những giai nhân Hà Thành trước kia, mà suốt bao năm tôi
đã ấp ủ trong tim bóng hình thướt tha và giọng ca vàng đầy chất Hà Nội được
phát thanh trực tiếp trên các làn sóng Sài Gòn. Hay lãng mạn, hư cấu hơn, những
nữ nhân vật có học, duyên dáng trong tiểu thuyết của Nhất Linh và Khái Hưng –mà
khung cảnh đều là Hà Nội của những thập niên 30, 40. Và, trên hết, các công
chúa Mỵ Châu, Lý Chiêu Hoàng, Trần Huyền Trân, Lê Ngọc Hân của Thăng Long nghìn
tuổi, mang kiếp hồng nhan bạc phận trong thực tại lịch sử, đã làm ngây ngất trí
tưởng nơi người hậu thế “khéo dư nước mắt khóc người đời xưa” (Kiều),
như những giấc mơ huyền thoại quyến rũ, dị kỳ.
Những cô gái, gọi là Hà Nội,
dưới thời Việt Cộng, mà hôm nay tôi mới được diện kiến trực tiếp, thấy khác lạ
quá đỗi. Đã thiếu nhan sắc, và thước tấc, mà lại kênh kiệu, nói năng cộc lốc,
không bao giờ được học và nói hai chữ “cám ơn” và “xin lỗi”. Mặc áo sơ mi nhét
trong quần tây, theo mốt hiện hành, bỏ chiếc áo dài cổ truyền, và chân đi
“sa-bô” (sabot?), danh từ tôi mới nghe lần đầu, tức loại giày nhựa, bịt kín
phía mũi, gót để trống, đế rất cao, như một thứ dép tân thời, thay cho“thanh
bình tiếng guốc reo vui” ngày xưa của nhạc sĩ Hoàng Dương. Lại còn giọng
nói nữa. Lạ lắm, trời ạ! Tiếng Hà Nội gì mà nghe như pha với giọng Nghệ An của
“Bác”, hay Hà Tĩnh, Thanh Hóa, Quảng Bình. Những dấu sắc, huyền, nặng, hỏi, ngã
phát ra lung tung, loạn xạ, tùy tiện. Nghe chua lè, còn hơn giấm. Bởi thế, khi
giọng nói Hà Nội ấy bay vào Miền Nam, sau cuộc đổi đời, người dân Sài Gòn nhận
ra ngay sự khác biệt rõ rệt giữa hai thứ tiếng Bắc kỳ, (19)54 = 9 nút, của Kim
Tước, Thái Thanh… và Bắc kỳ, (19)75 = 2 nút, rất lơ lớ, chói tai, của những ca
sĩ trẻ, từ Hà Nội, ồ ạt Nam tiến, rồi sau đó và bây giờ, thừa thắng xông lên,
xâm nhập luôn những Cộng đồng Việt Nam tỵ nạn tại Mỹ, vô tình hay hữu ý thực hiện
chủ trương “giao lưu văn hóa” của VC, tiếp tay bởi tên nhà văn MC thò lò hai mặt.
Về dung nhan, các ca sĩ ấy vượt trội những cô gái mà tôi đã gặp tại Hà Nội năm
1983. Nhưng giọng nói “2 nút” chua lè thì vẫn y chang.
e) Lang
thang mãi, mỏi chân, và đói bụng, chúng tôi tắp vào một quán phở, không xa ga
Hàng Cỏ là bao. Ba cô gái “phục vụ” (chạy bàn), mặc đồng phục, sơ mi và quần tây,
đứng ở quầy hàng, thấy năm ông khách quý bước vào, trơ mắt ngó, không thèm chào
mời. Và phớt lờ, tiếp tục trò chuyện với nhau. Quán lúc ấy không có ai ngoài
năm đứa tôi.
Chờ lâu, một anh, cựu trung
úy Biệt Động Quân, người Nam hiền khô, nhưng tướng rất ngầu, da ngăm ngăm đen,
nói năng bạt mạng, lại ngọng nữa, sốt ruột, lớn tiếng hỏi:
- Nè, bộ mấy bà chê tụi tui
không tiền hay sao mà không ai ga (ra) tiếp dzậy?
Một cô trả lời, giọng Bắc
the thé như lai tiếng Thanh Hóa, Nghệ An:
- Ăn gì thì đến quầy mà gọi.
Anh BĐQ đứng lên, khệnh khạng
tiến tới quầy, hai tay thọc trong hai túi quần. Tôi bước theo, sợ to chuyện, và
nhắc nhở “tụi mình vẫn còn là tù binh, chưa được phát giấy ra trại”. Anh hiểu,
và nói một hơi:
- Cho tụi này năm tô phở bò
tàu bay Hiền Vương, tái, chín, nạm, gầu, gân, sách, nước béo, giá trụng, hành
trần, chanh, ớt, tương đen, ngò gai, nhiều bánh, nghe kịp không?
Ba cô, dĩ nhiên, nghe
sao kịp, không hiểu, hay chỉ hiểu lõm bõm, trợn tròn mắt, tưởng anh nói tiếng Ấn
Độ. Một cô, có lẽ tổ trưởng, xẵng giọng:
- Đây là cửa hiệu quốc
doanh. Chỉ có một loại phở mà thôi, không có thứ gì khác. Rõ chưa?
Anh quay nhìn tôi, rồi ngó
thấy cô “chằn” quá, liền xuống nước:
- Gõ gồi (rõ
rồi). Ờ, thì cô bán cho năm tô đi. Và năm chai bia.
- Không có bia chai, mà chỉ
bia “bốc” thôi.
Anh lại hỏi:
- Bia “bốc” là bia gì dzậy?
- Là bia hơi rót từ cái bình thủy tinh lớn kia, ông cụ nội ạ, chứ
còn là bia gì nữa?
Tôi cười cười, cố tình nói
đùa cho tình hình bớt căng thẳng:
- Nghĩa là chưa uống nó đã “bốc
hơi” bay đi hết, phải không cô?
Nhưng cô quốc doanh nguýt
tôi, rồi lườm anh BĐQ, mắt tóe lửa, như muốn nhai tươi nuốt sống hai thằng. Và
bảo “trả tiền trước đi đã”, tổng cộng cả bia lẫn phở cho năm tên “ngụy” là 50 đồng.
Hai thằng trở lại bàn. Ngồi
chờ mãi, gần nửa tiếng, mà phở, bia chưa thấy mang ra, anh lại bực bội, gõ chiếc
muỗng vào cái ly nghe leng keng, rồi nói lớn:
- Sao lâu quá gồi (rồi) mà
không thấy ai bưng phở, đem bia ga dzậy cà?
Cô “tổ trưởng” từ quầy cũng
to tiếng, đáp lễ:
- Đến đây mà bê ra, không ai
hầu cho đâu!
Cả đám bật đứng lên, bước đến
phía quầy, thấy một lô tô phở, không nước, làm sẵn đồng loạt từ lâu, nằm chình
ình trên một cái khay lớn. Nghĩa là khách địa phương, rành thủ tục, chỉ có việc
đến quầy trả tiền, lúc đó các cô “phục vụ” mới đổ nước lèo nóng vào, rồi tự động
ai nấy bưng tô phở ra bàn. Phở lơ thơ vài cọng rau, chỉ có một lát thịt bò thái
mỏng như lưỡi lam cạo râu, sẵn sàng bay theo cơn gió vô tình lướt qua. Nước phở
còn nhạt hơn nước ốc. Bia “bốc hơi” thì khỏi nói: không khác chi nước trà lên
men.
Ăn uống tạm no, nhưng còn ấm
ức, anh trung úy BĐQ rút điếu thuốc Điện Biên ra hút, mơ màng nhả khói, như triết
gia Jean-Paul Sartre trên vỉa hè Paris, rồi than nhỏ với tôi: “ĐM. Cái gì cũng
quốc doanh, không khá nổi. Phở, bia, hay cha, thầy, sư quốc doanh gì cũng đều
cà chớn gáo (ráo) trọi”.
Ra đường, gặp một toán khác
đi ngược chiều –khoe vừa mới nhậu thịt chó xong. Hỏi ngon không, thì một anh hậm
hực trả lời: “Ngon gì mà ngon. Thịt chó quốc doanh chỉ có độc mỗi món luộc chấm
với mắm tôm, không ớt, mùi tanh lắm. Nhưng lỡ trả tiền rồi, cũng phải ráng nuốt
thôi. Thịt chó Hà Nội gì mà bết bát hết sức, thua xa thịt chó Hố Nai”.
4. Rồi
năm đứa chia tay nhau, đường ai nấy đi, hồn ai nấy giữ. Hẹn trở về ga Hàng Cỏ
trước 7 giờ tối, hoặc sớm hơn. Còn nhiều thời gian để mà giết. Làm gì cho hết nửa
ngày nữa?
Tôi nẩy ý muốn đi xem phong
cảnh Hà Nội. Bèn vẫy một chiếc xích lô. Phu xe là một thanh niên trên ba mươi,
tên Tứ, dáng dấp khỏe mạnh, nói nhiều, giọng Bắc Khu Tư (Vinh). Tôi thương lượng:
- Anh chở tôi đi chơi vòng
vòng xem cho biết Hà Nội, cứ đạp từ từ, đến chỗ nào cũng được, tùy ý anh, trong
ba tiếng, rồi chở tôi trở lại ga Hàng Cỏ trước 7 giờ. Anh lấy bao nhiêu?
Anh mau mắn đáp:
- Dạ, bèo lắm thì cũng 40 đồng
đấy anh ạ…
Tôi vừa ngồi lên nệm xe, anh
đã đề nghị đi Hồ Hoàn Kiếm trước. Hà Nội đang còn mùa xuân, hai bên đường hoa nở
rộ, thắm tươi. Những cành đào nặng trĩu hoa, rực rỡ một màu đỏ hồng, cong xuống,
la đà theo gió. Thấy tôi mải mê ngắm nghía một cách thích thú, Tứ góp chuyện:
- Còn một loài hoa nhỏ, chỉ
nở từ tháng 3 đến cuối tháng 4, tức tháng này, trắng xóa ven đường, lại tỏa
hương thơm nhè nhẹ. Tuyệt vời, anh ạ. Đó là hoa sưa... Đấy, anh ngắm đi, kia
kìa, đúng là một cảnh tuyết, giống ở Sapa...
Tôi hỏi lại:
- Hoa sưa hay hoa sữa?
- Dạ sưa. Du khách Sài Gòn
ra, ai cũng lộn.
Dọc đường, ít thấy xe hơi,
xe gắn máy hay bộ hành qua lại. Du khách ngoại quốc, hay Việt kiều, cũng vắng.
Một thủ đô đang hấp hối hay đang ngái ngủ, tôi có cảm tưởng, lạc hậu nhất trên
hành tinh này. Lãnh đạo tự phong toàn là một lũ thất học, ngu đần, lúc bấy giờ
còn say men chiến thắng, còn bận nhiều việc: trả nợ cho hai nước “anh em vĩ đại”,
Liên Xô và Tàu Cộng, trả thù người chế độ cũ, lừa và lùa hàng trăm ngàn tù binh
“ngụy” vào rọ “học tập cải tạo”, đày dân đi vùng kinh tế mới để cướp nhà của họ,
vơ vét và chia chác của cải từ Miền Nam khuân ra Bắc, khoác lác khoe khoang với
thế giới rằng “VN đã đánh thắng hai đế quốc đầu sỏ, Pháp và Mỹ”, và “VN chúng
tôi có quá nhiều anh hùng, vừa ra ngõ là gặp anh hùng”... Nên chúng chưa có kế
hoạch phát triển kinh tế, làm cho đất nước giàu mạnh.
Xích lô chạy một hồi, đến hồ
Hoàn Kiếm lúc nào không hay. Tôi bước xuống, đi bộ lên thảm cỏ xanh. Những
nhánh liễu ven hồ, rũ xuống, tàn lá lưa thưa, không đủ “che nửa mặt hoa” (Bạch
Cư Dị) của những cô gái trẻ ngồi tâm sự bên tình nhân, trên ghế đá. Tôi thấy họ
có vẻ ngượng nghịu, lúng túng đến tội nghiệp khi nắm lấy tay nhau, nói chi ôm
nhau, hôn nhau. Thương cho họ. Và ở một cảnh ngộ khác, thương cho chính tôi và
những chiến hữu bất ngờ trở thành tù binh, không kịp hẹn trước với Định Mệnh, vừa
đứng trước cổng trại giam là đã phải bỏ lại tất cả: quá khứ, vị lai, tình yêu,
ước mơ, và thảm não hơn, hy vọng. Dường như những cặp tình nhân này mới dưới
quê lên thành phố, hoặc vừa được Bác và Đảng “cởi trói” cho phép yêu nhau, sau
tám năm “chiến thắng” Miền Nam, trong khi Bác và bè lũ, những con yêu râu xanh
thời đại, tha hồ “đồi trụy”, vợ nọ con kia, mà mồm cứ phun ra những lời sặc mùi
đạo đức giả.
Những tia nắng lấp lánh đuổi
nhau trên mặt hồ. Nhìn xa thấy màu nước đẹp lung linh, xanh như một tấm thảm
rêu trải dài. Gần bờ, trái lại, nước hồ quá bẩn, có chỗ lềnh bềnh những rác rưởi,
giấy báo, bao ni lông, lon, ca, cóng do ai vứt xuống bừa bãi, tắt nghẽn, không
trôi đi được. Trước kia, tôi đã đọc trong một quyển tiểu thuyết và nghe các ông
bạn lớn tuổi, chính gốc Hà Nội ba mươi sáu phố phường, kể rằng quanh bờ hồ Hoàn
Kiếm thời trước 1954, sạch sẽ lắm, là nơi tụ họp vui chơi cuối ngày, và cuối tuần,
của đông đảo dân Hà Thành, có những kiosques bán kem và lạc
rang húng lìu nóng dòn, có giọng ca nhí nhảnh của Joséphine Baker phát ra từ
đĩa nhạc xưa, “J’ai deux amours: mon pays et Paris...”, nhưng bây
giờ, đứng đấy, tôi không nghe, không thấy gì hết. Cũng như, theo lời Tứ kể, ở Hồ
Tây, mà anh ngại xa không muốn chở đến, không còn những chiếc périssoires (thuyền
thoi) –mà dân Đà Lạt rất quen thuộc trước 1975, trên hồ Xuân Hương. Hay người Cộng
sản không biết ăn kem Bờ Hồ, không biết nhai lạc rang, không biết nghe nhạc
Pháp, không biết bơi thuyền thoi, cho đó là sản phẩm của Thực dân, Đế quốc? Vua
Lê Lợi nếu sống lại chắc sẽ căm giận lắm về những hậu sinh khả ố, mất dạy, mê
muội hiện tại, nhắm mắt theo đuôi chủ nghĩa Cộng sản khốn nạn. Tôi cầu xin, khi
mùa đông về, mưa bay lất phất, rùa thần nổi lên mặt hồ, cho ngài mượn lại thanh
kiếm báu để chém bay đầu bè lũ chúng nó, như trưóc kia đã chém bay đầu Liễu
Thăng và giặc Minh...
Rời hồ Hoàn Kiếm, Tứ chở tôi
dạo một vòng Bưu điện gần đó, là một tòa nhà đồ sộ xây theo lối Tây, và xa hơn,
những “phố” (thực ra là những con đường) Huế, Tràng Tiền, Hai Bà Trưng... mà tại
mọi góc đều có Công An đứng gác, súng ống trang bị đến tận răng, mắt cú vọ nhìn
gốc cây nào cũng thấy “phản động”, mặc dù đất nước đã thanh bình lâu rồi.
Khi tôi ngỏ ý muốn đi thăm
Văn Miếu - Quốc Tử Giám, Tứ lẩm nhẩm tính:
- Đến Văn Miếu thì phải vòng
trở lại ga Hàng Cỏ, qua phố Hàng Lọng, theo phố Sinh Từ...
Tôi cắt ngang:
- Anh có nói, tôi cũng chẳng
biết phố nào là phố nào. Thôi, tôi nhắm mắt để anh chở tôi đi đường nào cũng được.
Như tên gọi, đó là một
khu “miếu” lớn, với lối kiến trúc cổ xưa, từ thế kỷ XV, trang nghiêm, thanh
nhã, gồm một gian thờ Khổng Tử và môn đệ, một lầu vuông tám mái gọi là Khuê Văn
Các, nơi bình thơ của các sĩ tử, cạnh giếng Thiên Quang mà hai bên tả, hữu thấy
dựng hai hàng bia đá khắc tên tám mươi hai vị đỗ tiến sĩ, qua các triều đại.
Trên cổng ngoài cùng có vẽ hình hai con cá chép theo điển tích “cá vượt vũ
môn”, ngụ ý người học trò đi thi được ví như cá chép phải vượt ba đợt sóng dữ,
tại cửa sông, mới biến thành rồng, chỉ sự thành công tột bực. Chứ không phải,
tôi nghe ai kể, các thí sinh thích ăn cá chép, theo cách hiểu của đa số học
sinh XHCN bây giờ. Bước đi, tôi thấy người bỗng thoát trần, xa rời tục lụy và
thực tế tối đen, xấu xí hiện nay, để lòng nhẹ tênh. Như bay bổng trong không
gian và thời gian lồng lộng. Như nghe tiếng thiết tha gọi về từ đáy Hôn Dân Tộc
thanh cao của bốn ngàn năm văn hiến và từ những trang Sử Việt oai hùng qua bao
dòng đời hưng phế, với Trưng, Triệu, Ngô, Đinh, Lý, Trần, Lê, Mạc, Trịnh, Nguyễn...
những triều đại bị bọn “đỉnh cao trí tuệ” Trường Sơn chê là phong kiến, lạc hậu,
độc tài, mà người dân vẫn được tự do đi lại, vẫn được ăn no mặc ấm, vẫn được
vua chúa thương yêu như con, vẫn được học hành đến nơi đến chốn theo truyền thống
nhân bản, vẫn được gọi mời tham gia vào công cuộc trị nước và giữ nước. Mà những
tiến sĩ, đang hiện diện trong Văn Miếu kia, được vinh danh và trọng vọng nhờ
vào thực tài, đức hạnh, chứ không bởi văn bằng dỏm, văn bằng lậu, văn bằng tậu
được do tiền bạc và mánh mung, như trong thời kỳ đồ đá, đồ khỉ, đồ đểu hiện
nay...
5. Từ
giã Văn Miếu, thấy còn dư một tiếng, tôi đề nghị Tứ chở đi xem giếng ngọc của
Trọng Thủy và Mỵ Châu –mà chuyện tình diễm ảo và bi thảm đã ám ảnh, mê hoặc hồn
tôi, từ lúc còn trẻ cho mãi đến bây giờ, hơn bất cứ chuyện tình diễm ảo và bi
thảm nào trong văn chương thế giới, kể cả Tristan et Iseut hay Romeo
and Juliet. Tứ đáp:
- Xa lắm anh ạ, tận mãi Cổ
Loa, quận Đông Anh, phía Bắc, cách Hà Nội 16km, không đi xích lô được, vả lại
không kịp giờ lên xe lửa đâu.
Đành trở lại ga Hàng Cỏ, trước
giờ qui định. Trao tặng những anh giữ-hộ-viên-túi-xách một bịch chuối ép khô
mua tại cửa Bưu điện, và kể sơ về chuyến du hành bằng xích lô. Hai cán bộ đã có
mặt. Rồi lục tục, các đồng tù trở về “trình diện” kịp, hay trước, giờ, vì không
ai dại, làm lỡ chuyến tàu xuôi Nam. Đúng 8 giờ tối, tất cả lên tàu, ngồi trong
một toa, do “trên” (nhà nước) dành riêng, sau khi cán bộ đọc tên và phát cho từng
người giấy ra trại, kèm theo lời dặn dò, hay mệnh lệnh chót, “các anh nhớ thi
hành tốt lệnh quản chế địa phương, và phấn đấu làm ăn tốt, xây dựng xã hội chủ
nghĩa, đừng trốn chạy ra nước ngoài”. Hai tên cán bộ ở lại ga, và chúng tôi
hoàn toàn tự do, từ đây, ít ra trong đêm đó.
Tàu khởi hành trễ nửa giờ.
Chạy khoảng một tiếng thì ngừng lại tại một ga nhỏ, đón khách “nhảy tàu” (buôn
bán lậu trên xe lửa) ra Bắc và trở vào Nam. Đa số là phụ nữ Miền Nam, còn trẻ,
biết có một toa tù cải tạo được thả, họ đem hàng đến gửi, nhét đại phía dưới ghế
ngồi, vì qua kinh nghiệm, tin rằng công an không bao giờ vô lục khám. Chúng tôi
thông cảm, để mặc, và ngược lại họ mua bánh trái đãi đằng để trả công ơn đồng
lõa. Vài người, mà thân nhân còn trong tù cải tạo, đứng nán lại, hỏi han, tâm sự.
Và bất ngờ, tôi được biết trong số có một chị là vợ của một trung úy, đồng đội
K1, không được thăm nuôi, đói, nhưng rất có bản lĩnh, tư cách. Tôi nói nhỏ với
chị:
- Ảnh đói lắm. Chị ráng thu
xếp ra thăm ảnh một chuyến.
Chị bật khóc, nước mắt đầm
đìa, trả lời:
- Em biết. Và thương ảnh
lắm. Nhưng nhà nghèo quá, phải nuôi đàn con nhỏ nữa. Khi nào dành dụm được chút
ít, chắc chắn em sẽ ra thăm ảnh.
Cảm động, tôi móc từ túi quần
được một nắm tiền, chừng hơn 100 đồng của trại trả lại, kín đáo đưa tặng chị,
nói để “mua quà cho các cháu”. Chị không nhận, và vì tế nhị, tôi không nài ép.
Cách đây hai năm, tình cờ tôi gặp lại anh chị –qua Mỹ theo diện HO, và làm ăn
khá giả, con cái thành đạt– tại nhà một người bạn chung. Sau ba mươi năm, chị
nhìn tôi, xa lạ, không nhận ra là ai, và tôi cũng không nhắc gì về chuyến tàu
đêm năm cũ ấy.
Tàu chạy thâu đêm, qua những
địa danh lịch sử, tôi chỉ nghe nói đến mà chưa hề thấy tận mắt, như Hà Tĩnh,
quê hương tuổi nhỏ của đại thi hào Nguyễn Du. Hay Quảng Bình, nơi sinh quán của
Tổng thống Ngô Đình Diệm, với Đèo Ngang nổi tiếng trong thơ Bà Huyện Thanh Quan
và sông Gianh phân chia ranh giới Bắc Nam giữa quân Trịnh và quân Nguyễn, thế kỷ
XVII. Khi đến Cửa Tùng, An Du Tây, Quảng Trị, quê nội tôi, trước khi tàu qua cầu
Bến Hải, tôi nhìn chăm chú ra ngoài, như một phản xạ, nhưng không thấy gì cả
ngoại trừ một vùng đồng ruộng tăm tối, bao la. Tự nhiên, một cảm giác xa lạ, trống
vắng xâm chiếm tâm hồn. Và thấy đắng chát trong cổ họng... Bởi một nơi không đến
bao giờ, và không có một chút kỷ niệm, dù là quê cha đất tổ, cũng chỉ là một chấm
đen trên bản đồ. Tôi gục đầu xuống thành cửa sổ, muốn khóc. Bỗng nhớ ba tôi
quay quắt, đã mất không lâu trước đó, mà tôi không được gặp mặt.
Ngược lại, tại sân ga
Huế, sáng trưng ánh đèn, một cảnh sinh hoạt náo nhiệt diễn ra, dù đã quá nửa
khuya. Khi những em bé bán bánh, nước trà bắt gặp chúng tôi ngồi la liệt trong
toa đặc biệt, biết là tù “ngụy” trở về, liền báo động cho những đồng nghiệp lớn
tuổi, và một đám các bà, các o chạy túa đến, reo vui: “Sĩ quan cải tạo về kia tề,
anh mô cũng đẹp trai hết, không như mấy cha bộ đội. Thấy các anh cực khổ mà
thương chi lạ!”. Vài anh thò đầu qua cửa sổ mua bánh, chuối, thịt gà chiên,
nhưng họ không lấy tiền. Lại còn, khi tàu chuyển bánh, chạy theo, ném thêm qua
cửa sổ...
Sáng hôm sau, tàu ngừng tại
ga Nha Trang, lúc 9 giờ. Tôi thuê xích lô trở về nhà. Xuất hiện tại cửa như một
bóng ma hiện hình. Mẹ và Bội Trân đứng sững giây lâu, rồi cả hai ôm chầm lấy
tôi, khóc nức nở. Tôi hôn lên má, lên tóc Mẹ, và qua vầng trán nhăn nheo và mái
đầu bạc trắng, ngậm ngùi tưởng nhớ dung nhan của Mẹ ngày xưa và tình thương bao
la suốt đời Mẹ dành cho từng đứa con. Tôi nhìn Bội Trân, người em tiếp viên Air
Vietnam kiều diễm của tôi, sau ngày đất nước đổi chủ, đổi tên, đã bị trời
xanh quen thói má hồng đánh ghen bắt chịu nhiều nỗi truân
chuyên, như người chinh phụ trong Đoàn Thị Điểm. Ôm em trong tay mà tưởng
như ôm một khối tình sầu hóa thân chất ngất, chưa tan, mà biết rằng em, qua
dòng lệ mừng cho tôi, cũng đang khóc nhớ hôn phu –một phi công, vì em không đi,
đã ở lại Sài Gòn sáng 30 tháng 4, để bây giờ vĩnh viễn gãy cánh, nằm xuống tại
một nơi nào trong trại tù Thanh Phong. Bởi em buồn, tủi phận, tôi cũng thấy hồn
mình nát tan, không muốn bộc lộ nỗi vui được thả, không muốn kể gì về những trại
tù đã đi qua... Xem tất cả như một chương đời khổ nạn khép lại, một cơn ác mộng
phải quên. Cho riêng tôi, và cho giùm em gái và những người vợ tù khác.
6. Ba
mươi hai năm qua, kể từ ngày ấy. Biết bao nhiêu chuyện đời xảy đến. Từ Mỹ, tôi
đã đi thăm nhiều thủ đô lớn, nhỏ trên thế giới. Nhưng vẫn không sao quên được
hình ảnh Hà Nội tuyệt đẹp, mà tôi đã gặp trong sử sách, cùng với hình ảnh cố đô
Thăng Long cổ kính và huyễn mộng qua hàng chục thế kỷ chiến tranh giữ nước.
Thăng Long, hay Hà Nội. Của một Phù Đổng Thiên Vương đại phá giặc Ân, rồi cưỡi
thiết mã bay về trời. Của một Lý Thường Kiệt đứng trên sông Như Nguyệt, sang sảng
ngâm bài thơ, được xem là bản tuyên ngôn đầu tiên về chủ quyền quốc gia Việt
Nam, cách đây mười thế kỷ, độc đáo nhất, quyết liệt nhất: “Nam quốc sơn hà
Nam đế cư / Tiệt nhiên định phận tại thiên thư / Như hà nghịch lỗ lai xâm phạm
/ Nhữ đẳng hành khan thủ bại hư...”, trước khi xuất trận đánh tan quân xâm
lược. Của một Trần Nhân Tông và các bô lão trong Hội Nghị Diên Hồng, đồng thanh
quyết chiến đến cùng. Của một Trần Hưng Đạo với câu nói, có một không hai trong
lịch sử nhân loại về sự hy sinh tột độ cho đất nước: “Bệ hạ muốn hàng,
xin trước hãy chém đầu tôi đi đã, rồi sau sẽ hàng” –là danh tướng duy nhất
trong quân sử thế giới đã đánh bại đế quốc Mông Cổ (tức nhà Nguyên), hùng mạnh
nhất lúc bấy giờ, bách chiến bách thắng, mà vó ngựa đã giẫm nát toàn cõi Đông
Âu, Nga, Trung Đông và Đông Nam Á. Của một Trần Bình Trọng, bị bắt, với thái độ
hiên ngang, ngẩng cao đầu trước địch quân: “Ta thà làm quỷ nước Nam, chứ
không thèm làm vương đất Bắc”. Của một Lê Lợi với hơn mười năm kháng chiến
nằm gai nếm mật. Của một Nguyễn Trãi với chính sách thu phục nhân tâm diệu kỳ, “Lấy
trí nhân thay cường bạo”. Của một Nguyễn Huệ với những chiến thắng mùa xuân
thần tốc lẫy lừng. Của một Hoàng Diệu, tổng đốc trung liệt, đã tuẫn tiết cùng
chết với thành Hà Nội. Của toàn dân, qua các triều đại, đã sát cánh với vua,
quan, tướng lãnh đánh đuổi bọn Đại Hán xâm lược, mà dù là Ân, Ngô, Tống,
Nguyên, Minh, Thanh xưa kia, hay Mao (Cộng) ngày nay –tất cả đều là
kẻ thù truyền kiếp của dân tộc.
Cũng như tôi không sao quên
được hình ảnh, ngược lại, điêu tàn của một Hà Nội mà tôi đã gặp vào một ngày
mùa xuân 1983, cổ lỗ và rách nát trong tay giặc Việt Cộng. Dưới sự thống trị của
bọn lãnh đạo ma đầu thay nhau tự phong, ngu dốt, tham tàn, phản bội dân tộc, rước
voi về giày mả tổ, thấy kẻ thù là run như cầy sấy, nhưng đối với dân thì hung bạo,
đánh đập, bắn giết, bỏ tù. Hà Nội trong mắt tôi, ngày xuân ấy và nhất là bây giờ,
dưới xích xiềng giặc Việt Cộng, chỉ là thủ đô của hận thù, của hạ tiện, của xảo
trá, của băng hoại về mọi giá trị đạo đức, xã hội, giáo dục, kinh tế, an sinh
và lương tâm. Chỉ là biểu tượng của một đất nước mà dân nghèo phải đầu tắt mặt
tối, bươn chải kiếm sống, mà học sinh phải đu dây qua sông để đến trường, mà
dân giàu lo ăn chơi, trụy lạc, say xỉn, mà tướng tá và công an được mua bằng tiền,
tự biến thành chó ngựa, cung cúc phục vụ chế độ phi nhân, mà tất cả, trong những
hoàn cảnh sống khác nhau như thế, cũng đều quên đi nhiệm vụ cao cả do tiền nhân
giao phó: đứng lên chiến đấu giữ nước, trước hiểm họa Bắc thuộc do Tàu Cộng
đang mưu toan với chiến thuật mới, mềm dẻo hơn, tinh vi hơn, nghĩa là bằng
chính tay những thằng lãnh đạo Việt Cộng.
Hà Nội ấy, một lần đi qua,
tôi sẽ không bao giờ trở lại, dù chỉ một giờ, một phút, nếu tổ quốc Việt Nam
yêu dấu chưa sạch bóng nội thù Việt Cộng, nếu người dân chưa, hay chưa thể, đứng
lên tiêu diệt bọn lãnh đạo bây giờ, và ném vào sọt rác lịch sử cái chủ nghĩa Cộng
sản quái thai, quái dị, quái đản, đã ngự trị từ hơn ba phần tư thế kỷ trên đất
nước tang thương, bất hạnh này –đã vô phúc sản sinh ra một tên Nguyễn Tất
Thành, tức Hồ Chí Minh, còn bỉ ổi, ghê tởm hơn Trần Ích Tắc, Lê Chiêu Thống.
7. Khát
vọng và ước mơ tuyệt vời đó về một Việt Nam tương lai phi Cộng sản, tôi lo, khó
thành hiện thực cho tôi và những ông bạn chiến binh già, trong cuộc đời này. Thời
gian vô tình cứ trôi đi, và bóng đời cứ nghiêng đổ, mà giật mình ngoảnh lại, thấy
chưa làm gì được cho đất nước thân yêu còn mãi quằn quại trong nanh vuốt Việt Cộng.
Có thể không kịp nữa. Họa may, kiếp sau. Nếu Thần Chết không bắt chúng tôi bỏ lại
tất cả mọi hy vọng, khi bước qua bờ tử sinh. Và nếu trong Inferno,
thi hào Dante cũng tha, cho những kẻ đứng trước cửa địa ngục, hình phạt nặng nề
nhất, tức là phải mang theo mối tuyệt vọng đời đời. Lasciate ogni
speranza voi ch’entrate (Hãy
vứt bỏ tất cả hy vọng, hỡi các ngươi đang bước vào, iii,1).
Portland, 28 tháng 1, 2016
Kim Thanh

No comments:
Post a Comment