Tôi vừa gặp một người
có ít nhiều liên quan đến quãng đời xưa cũ, xa lăng lắc của mình. Đang đứng tần
ngần nhìn các cây thông Giáng Sinh bằng nhựa đủ kiểu, đủ cỡ bày trong một cửa
tiệm, chưa biết lựa cây nào thì tôi nghe có tiếng người hỏi từ phía sau:
– Xin lỗi, cậu là cậu
Việt, phải không?
Tôi hơi giật mình,
quay lại, thấy một người đàn ông đứng tuổi mà trước đây tôi chưa bao giờ gặp.
– Dạ phải.
Tôi e dè đáp.
– Tôi hơi đường đột,
cậu bỏ qua cho.
Người đàn ông nói
tiếp:
– Tôi là Nhơn, em
của ông Quới, trung sĩ Quới ngày trước làm chung chỗ với ông thân của cậu.
– Chú Quới...
Tôi nhớ ra ngay:
– À, chú Quới làm
quân tiếp vụ ở trường Đồng Đế Nha Trang, cháu nhớ chứ. Nhưng... chú thì hồi đó
cháu không được biết.
– Cậu không biết tôi
là phải.
Người đàn ông mỉm
cười:
– Tôi vô Sài Gòn
làm ăn từ lâu, thỉnh thoảng mới về Nha Trang thăm nhà một lần. Khi cộng sản
chiếm miền Nam, từ Sài Gòn tôi chạy thẳng luôn qua Mỹ.
Tôi chợt thắc mắc:
– À, mà làm sao chú
nhận ra cháu được vậy?
– Cũng tình cờ thôi.
Ông Nhơn đáp.
– Mấy tuần trước
tôi đọc trên báo thấy cậu có viết một bài về ba cậu, có cả hình hai cha con
nữa. Tôi mừng quá, tưởng đâu là sẽ bắt được liên lạc với ông cụ. Dè đâu dọc tới
cuối bài, thấy cậu ghi là để tưởng niệm ba cậu, tôi mới biết là ông cụ đã mất
rồi.
Ông Nhơn ngó tôi một
hồi lâu:
– Cậu giống ba cậu
lắm. Không cần cái hình trên báo, tôi cũng có thể nhận ra cậu được.
– Vậy là chú cũng có
gặp ba cháu rồi sao?
Tôi hỏi.
– Có chớ, lần nào về
Nha Trang, ghé thăm anh Quới ở trường Đồng Đế, tôi cũng gặp ba cậu hết.
Tôi sực nhớ ra:
– Gia đình chú Quới
bây giờ ra sao, chú?
– Chị Quới mất hơn 15
năm rồi, còn anh Quới mất sau đó 3 năm. Thằng con của 2 người... tôi mất liên
lạc với nó cũng mấy năm nay. Lần chót tôi còn thơ từ qua lại với nó, nó vẫn còn
ở Nha Trang...
– Thằng On, phải không
chú?
– Cậu nhớ tên nó hay
đó, mấy chục năm rồi... Ông Nhơn gật gù nói:
– À, tôi muốn nói
chuyện thêm với cậu nhưng bây giờ chưa tiện, vậy cậu cho tôi xin địa chỉ email để
tôi với cậu liên lạc, hẹn một bữa khác, đi uống cà-phê cà-pháo...
– Dạ, để cháu cho chú
số điện thoại, mình text qua text lại cho nhanh.
– Số điện thoại thì
được, nhưng tôi không quen text, cậu à.
Ông Nhơn thú nhận:
– Tôi biết dùng
email cũng là tân tiến lắm rồi.
Tôi mỉm cười thông
cảm, nhờ ông đọc số điện thoại của ông để tôi gọi ngay lúc đó. Khi điện thoại
của ông Nhơn reo lên, tôi nói:
– Chú cho cháu mượn
cái phone của chú đi. Cháu sẽ giúp chú save lại số của cháu mới gọi chú đó...
Rồi bây giờ chú đọc địa chỉ email của chú, cháu sẽ ghi lại vào phone của cháu.
Trao đổi chi tiết liên
lạc với nhau xong xuôi, chúng tôi chào tạm biệt nhau. Tôi đứng yên chỗ cũ, định
thần một lát rồi mới nhớ lại hồi nãy mình đang làm gì. Tôi tiếp tục ngó qua các
cây thông, cuối cùng chọn một cây cỡ trung bình, chắc là vừa với family room
của nhà tôi. Tôi hí hoáy ghi mã số của cây thông, tiến lại quầy tính tiền để
thanh toán. Khi người thu ngân gọi nhân viên mang ra cây thông chưa ráp, còn nguyên
trong hộp, tôi đỡ lấy cái hộp dài một cách máy móc. Từ đó đến khi ra bãi đậu
xe, tôi vừa vác cái hộp, vừa bâng khuâng nghĩ tới một quãng đời cũ mà ông Nhơn
vừa khiến tôi nhớ lại...
*****
Năm đó tôi đâu khoảng
9, 10 tuổi. Lúc ấy cũng là vào lúc mùa Giáng Sinh sắp tới. Từ trường tiểu học
của tôi đi bộ về nhà, tôi phải đi qua 3 block đường. Mấy đứa bạn cùng xóm, học
cùng trường với tôi ngày nào cũng đi qua một ngôi nhà thờ tin lành trên đường
về nhà. Ngôi nhà thờ này hằng năm là nơi báo hiệu mùa Giáng Sinh sắp về, qua
những món trang trí, đèn hoa giăng mắc ở mặt tiền, đặc biệt là cái máng cỏ to
tướng nằm bên cạnh lối ra vào nhà thờ. Mấy đứa bạn hàng xóm nhà có đạo tha hồ
khoe nhau nhà đứa nào sẽ có cây thông Giáng Sinh và máng cỏ to nhất, đẹp nhất.
Gia đình tôi theo Phật, nhưng tôi rất mê nét hào nhoáng của cây thông Noël, đèn
đóm lung linh bên những món trang trí đủ màu sắc, hay không khí huyền diệu tỏa ra
từ những cái máng cỏ, bên trong có những bức tượng nho nhỏ, xinh xinh. Những
món đồ Giáng Sinh trang trí cho máng cỏ đó, chỗ nhà thờ đã bày bán trong khoảng
sân rộng từ cả tháng trước Noël. Tôi khoái nhất là những cây thông bé xíu, chỉ
bằng mấy ngón tay chụm lại, mà người ta còn tỉ mỉ xịt sơn trắng lốm đốm lên để
giả làm tuyết. Năm nào cũng như năm nào, tôi đều kiên nhẫn thuyết phục má tôi
cho mua cây thông và máng cỏ như nhiều nhà khác trong xóm, nhưng không lần nào
làm má xiêu lòng được.
– Nhà mình không có
đạo.
Má ca đi ca lại một
điệp khúc mỗi lần tôi vòi xin mua đồ Giáng Sinh.
– Phật có phải là một
đạo không má?
Một lần, tôi “gài” má
với câu hỏi này.
– Phật cũng là đạo chớ
sao!
Má cao giọng đáp.
– Con hỏi gì mà
kỳ vậy?
– À há!
Tôi đắc thắng nói:
– Vậy thì nhà
mình cũng “có đạo” như ai, phải không má?
– Nhà mình theo đạo
Phật.
Má sửa lại:
– Nhà theo Phật
mà chưng cây Noël với hang đá thì không nên.
Má tôi hay dùng hai
chữ “không nên” để chỉ những việc gì phạm đến tính thiêng liêng, huyền bí có
dính dáng đến tôn giáo hay ông bà tổ tiên. Má là cả một kho ngữ vựng tiếng Việt
phong phú, linh hoạt, hết sức đậm đà tính địa phương. Cho tới bây giờ tôi vẫn
còn dùng nhiều chữ trong kho ngữ vựng đó của má khi có dịp, dù đang sống ở Mỹ.
Cho đến một hôm... Ba
tôi đi làm về, trông ông vui vẻ hơn thường ngày. Ông ngồi xuống cái divan ở
gian phòng ngoài, vừa tháo đôi giày lính ra, vừa hỏi tôi:
– Việt, con muốn có
một cái hang đá cho Noël năm nay không?
Tôi còn chưa tin vào
tai mình, chưa kịp hiểu hết điều ba vừa nói thì má đã từ trong phòng khách bước
ra bảo:
– Anh nói hang đá gì
mới được? Nhà mình có đạo đâu... À không... nhà mình có theo công giáo đâu chớ!
– Hang đá này không
phải tốn tiền mua!
Ba điềm nhiên nói
tiếp:
– Anh mới biết
ra, trung sĩ Quới có tài làm hang đá bằng bao xi-măng hay lắm! Chú hứa sẽ làm
cho thằng Việt một cái.
– Tốn tiền hay không
tốn tiền đâu phải là vấn đề!
Má cằn nhằn:
– Anh thì chỉ ưa
chiều thằng Việt, riết rồi nó hư hồi nào không biết.
Má quày quả trở vào
trong, coi bộ rất bực mình. Lúc này, tôi mới dám lên tiếng:
– Thật vậy hở ba?
Chừng nào con mới có cái hang đá?
– Chắc một hai bữa gì
đó thôi.
Ba đã tháo giày ra
xong, đứng dậy vươn vai mấy cái:
– Ba sẽ chở con
tới nhà chú Quới để lấy.
– Nhưng... còn mấy thứ
ở bên trong...
Tôi ngập ngừng:
– Chắc má không
cho con mua đâu ba.
– Để ba cho.
Ba vỗ vai tôi rồi đi
vào trong.
Tôi ngồi xuống cái
divan, mơ màng mường tượng ra cái hang đá mình hằng mơ ước, bên trong sẽ là cái
máng cỏ có đầy đủ những thứ mà tôi đã từng thấy. Mình sẽ đặt nó ở đâu há? Trong
phòng khác hay ở gian phòng ngoài này? Chắc là nên để ở ngoài cho má khỏi thấy
chướng mắt. Hy vọng thấy hang đá đẹp chắc má cũng không nỡ nào phản đối...
Vậy là từ đó trở đi
tôi đếm từng ngày, thấy sao mà thời giờ trôi qua chậm quá. Tôi chỉ sợ chú Quới
quên làm hang đá cho tôi thì chắc tôi thất vọng lắm lắm. Nói nào ngay, hồi giờ
tôi vốn không thích chú Quới. Chẳng là vì chú rất nghiêm, chỉ nói chuyện với ba
má tôi, chứ ít khi chú nói gì với tôi, chắc là vì chú nghĩ tôi còn con nít con
nôi, miệng còn hôi sữa... Thoạt đầu, thỉnh thoảng chú mới đến nhà tôi chơi một lần.
Về sau, tôi thấy ba tôi thường nhắc đến chú, đến vợ chú nhiều hơn trước, và
cuối cùng, ba giới thiệu chú vào làm thư ký cho công ty xuất nhập cảng của ông
ngoại tôi. Trong công ty này, ông ngoại cho má tôi giữ chức quản lý. Từ đó, mỗi
lần ghé công ty của ông ngoại chơi, tôi gặp chú Quới thường xuyên hơn. Người
chú gầy gò, trông lạnh lùng và khắc khổ. Lúc đó chắc chú chỉ ngoài 30 thôi mà
tóc chú hói đã gần hết. Lúc làm việc, chú còn mang cặp kính viễn thị, khiến ngó
chú già trước tuổi rất nhiều.
Có lần, tôi đang chạy
chơi ở công ty, tình cờ đi vào căn phòng bên trong, thấy má tôi và chú Quới
đang đứng nói chuyện. Hồi đó, tuy còn nhỏ, tôi cũng mang máng nhận thấy chú
đang nói một chuyện gì quan trọng với má tôi mà hình như không phải là chuyện
công việc. Thấy tôi bước vào, chú Quới nghiêm giọng bảo:
– Việt đi ra ngoài
chơi, để chú đang nói chuyện với má!
Tôi tiu nghỉu quay ra,
trong lòng thấy giận chú Quới quá. Tôi còn nhỏ thật, nhưng hồi giờ chưa có
người lớn nào trong gia đình hay là người quen của ba má nói với tôi bằng cái
giọng kẻ cả như thế. Đã vậy, sao không thấy má tôi đỡ lời cho chú Quới chút
nào, làm như má cũng đồng ý với chú. Tôi để ý thấy má rất quý chú Quới. Đi làm
về, má hay kể chuyện trong công ty cho ba nghe. Trong những mẩu chuyện đó, má
thường nói “Chú Quới thế này, chú Quới thế nọ...” cùng những chi tiết mà má
muốn kể. Chú Quới nhỏ hơn ba má tôi gần cả chục tuổi nên ba má tôi thường gọi
chú là “chú” với ý nghĩa là “chú em”. Về phần chú Quới, chú cũng “chị chị, em
em” với má tôi ngọt xớt; ai nghe thấy mà không biết rõ về gia đình tôi chắc
phải nghĩ hai người là chị em ruột thịt.
Một đặc điểm khác của
chú Quới làm tôi chú ý là cái tên của chú. Tôi chưa từng thấy ai trùng tên chú
(cho đến tận bây giờ!). Tôi nhớ có hôm tôi hỏi ba:
– Ba ơi, tại sao chú
Quới có cái tên nghe kỳ cục vậy ba?
– Kỳ là tại vì hiếm ai
có tên này...
Ba cười, trả lời tôi.
– Đó là một cách
đọc trại đi của chữ “Quý”, con à.
– Đọc trại là sao hở
ba?
Tôi vẫn chưa hết thắc
mắc.
Ba từ tốn giảng giải:
– Đọc trại một chữ là
đọc chữ đó cho khác đi một chút, nhưng vẫn còn nghe giống một phần nào. Trong
tiếng Việt, có nhiều chữ người ta đọc trại đi để tránh tên của những người nổi
tiếng như vua chúa trong lịch sử hay của ông bà trong gia đình. Thí dụ trong
Nam người ta nói “cây kiểng” thay vì “cây cảnh”, để tránh tên của Hoàng tử
Cảnh, tức là Nguyễn Phúc Cảnh, con của vua Gia Long. Đọc trại đi một chữ là để
tránh việc “phạm húy”, “húy” có nghĩa là tên đó con. Ba nghĩ chắc nhà chú Quới
đã có ai tên Quý rồi.
Lúc hai cha con đang
nói chuyện với nhau, má tôi cũng nghe thấy. Bà đi vào trong lấy vật gì đó rồi
trở ra đưa cho tôi xem và hỏi:
– Cái này con gọi là
cái gì?
– Cây kim!
Tôi đáp thật nhanh,
không hiểu má muốn gì.
Má tôi cười bảo:
– Vậy mà ông ngoại con
gọi nó là “cây châm” đó!
Má giảng giải thêm:
– Ông ngoại cũng
sợ phạm húy như ba con nói, vì má nghe ông ngoại nói ông tằng, ông tổ của má có
tên là Kim. Nhưng thay vì đọc trại chữ “kim” ra cho khác, ông ngoại lại dùng
chữ “châm” để thay thế.
(Sau này lớn lên, tôi
dạy tiếng Việt và ngoại ngữ, có dịp học hỏi nhiều điều từ môn ngôn ngữ học, nhớ
lại chuyện má kể, tôi mới thấy phục ông ngoại. Chữ “kim” là một danh từ, nếu cố
đọc trại nó ra cho khác thì cũng không dễ tìm ra âm nào nghe cho được tai na ná
như vậy. Chắc vì lý do đó mà ông ngoại chọn động từ “châm”, có liên quan đến
danh từ “kim”, thật là tài!)...
Tôi phải đợi đến buổi
chiều trước Giáng Sinh mới được ba cho biết là chú Quới đã làm xong cái hang đá
cho tôi. Ba có nói trước là năm nay chú Quới bận lắm, vì thím Quới sắp sinh em
bé. Biết vậy, nhưng lúc ba gần đi làm về, tôi đã chực khóc vì thấy buổi chiều
sắp hết rồi mà cái hang đá chưa thấy tăm hơi đâu, trong khi nhà mấy đứa “có
đạo” trong xóm đã tưng bừng khoe đèn đóm và đầy đủ những thứ trang hoàng mùa
Giáng Sinh. Chưa bao giờ tôi thấp thỏm đợi ba về đến thế. Khi thấy chiếc xe
Jeep của ba quẹo vào cổng xóm, tim tôi muốn nhảy ra khỏi lồng ngực. Lúc xe của
ba từ từ ngừng trước nhà, tôi chạy ra đến cửa, hồi hộp chờ xem ba nói gì. Ba
ngồi yên trên xe, nheo mắt nhìn tôi, nói vọng ra:
– Việt, lên xe đi con!
Mình đi lấy hang đá về.
Không đợi ba nói thêm
tiếng nào, tôi vội nhảy thót lên xe, ngồi chễm chệ cạnh ba. Trong lúc ba im
lặng lái xe, tôi nghe người như bồng bềnh trong một giấc chiêm bao êm ái. Cảnh
vật hai bên đường chợt nhuốm màu ngũ sắc, lấp lánh như những sợi kim tuyến trên
cây thông Giáng Sinh (mà tôi cũng rất muốn có. Nhưng thôi, hãy cứ “từng bước
từng bước thầm” cái đã. Má mà không la là may lắm rồi. Hy vọng năm sau tôi sẽ
có...).
Lúc sắp đi ngang ngôi
nhà thờ, ba cho xe rẽ vào, đậu đằng trước. Tôi lặng người đi vì sung sướng. Ba
không quên những món cần có trong hang đá! Lúc hai cha con đi qua cổng nhà thờ,
ba ngó tôi bảo:
– Hy vọng giờ này
người ta còn đầy đủ các thứ.
Thật may, trên chiếc
bàn bày bán các món trang trí Giáng Sinh, chỉ còn ba bộ tượng nữa là hết. Tôi
run run lựa từng món, tượng bà Mary, tượng ông Joseph, tượng Chúa Hài Đồng,
tượng Ba Vua, cả tượng anh mục đồng, một con bò và một con cừu nữa. Tôi tuy
không “có đạo” nhưng đã thuộc những tượng nào có trong hang đá! Nhìn hai cây
thông nhỏ còn lại trên bàn, tôi rụt rè hỏi ba:
– Ba cho con lấy một
cây thông nhe ba?
Ba tôi gật đầu. Ông
còn mua thêm cho tôi một nắm rơm để trải trong máng cỏ. Trả tiền xong xuôi, hai
cha con quay ra xe. Tôi xách khư khư cái túi đựng các bức tượng, đi thật nhẹ,
cứ sợ chúng va vào nhau thì vỡ hay nứt trước khi về đến nhà thì tiếc lắm.
Nhà chú Quới ở Phường
Củi, nơi tiếp giáp với vùng ngoại ô Nha Trang. Khi chúng tôi đến, căn nhà nhỏ
của chú cửa đóng im ỉm. Ba gõ cửa mấy lần mà không ai trả lời. Ông lẩm bẩm:
– Chắc chú Quới còn ở
bệnh viện chưa về. Thím mới sinh em bé hồi trưa.
Ba và tôi đứng lóng
ngóng đợi chừng 10 phút thì thấy chú Quới cỡi chiếc Honda cũ kỹ về nhà. Chú hấp
tấp dựng xe, vừa thở vừa hỏi:
– Đại úy đợi
em lâu chưa?
Ba tôi không trả lời
mà hỏi lại chú:
– Sao? Mẹ tròn con
vuông hết hả Quới? Con trai hay con gái?
– Con trai, anh
à.
Chú Quới vẫn còn thở
dốc. Từ ngày vào công ty làm việc với má tôi, chú Quới trở nên thân mật với ba
tôi hơn, lúc thì vẫn gọi ba là đại úy như trong quân ngũ, nhưng cũng có
lúc anh anh em em với ba như vậy.
– Con trai hả?
Mắt ba hình như sáng
lên, có vẻ như muốn vui lây với chú Quới. Nhưng lúc đó tôi thấy gương mặt chú
không vui mà lo âu nhiều hơn thì có.
– Quới đặt tên con là
gì?
Ba lại hỏi.
– Thằng nhỏ tên là On.
Chú Quới đáp, giọng
không có gì hào hứng.
– On hả?
Ba lặp lại cái tên ít
ai có. Tôi đoán ba đang ngẫm nghĩ coi nó là cách đọc trại chữ gì, như ba đã
từng nói về tên chú Quới.
Chú không nói gì, lặng
lẽ mở cửa mời ba và tôi vào. Gian phòng nhỏ vừa là chỗ tiếp khách, vừa làm
phòng ăn, tối lờ mờ, mùi ẩm thấp xông lên khiến tôi thấy ngột ngạt. Chú Quới
mời chúng tôi ngồi rồi tất tả đi ra phía sau. Một lát sau, chú trở lên, khệ nệ
ôm cái hang đá còn bay mùi sơn mới. Chú đặt hang đá trên cái bàn nhỏ trước mặt
chúng tôi rồi bước lại bật đèn lên. Dưới ánh sáng của cây đèn néon, tôi được
chiêm ngưỡng cái hang đá lộng lẫy nhất trên đời từ trước tới giờ! Tôi như nghẹn
lời, chỉ biết nhìn chú Quới bằng ánh mắt biết ơn. Chú biết tôi thích lắm, giọng
chú chợt vui vẻ hẳn lên, trái với lúc chú nghiêm nghị la tôi ở công ty hôm nào:
– Việt thích không?
Chú làm một cái khung bằng tre rồi phủ giấy bao xi-măng lên đó. Xong rồi chú
xịt sơn đen lên, đợi cho khô rồi mới rắc sơn trắng, giả làm tuyết...
Tôi mê mẩn ngắm cái
hang đá đầu tiên của mình, đến khi nghe ba nói cám ơn chú Quới và giục tôi ra
về, tôi mới như quay lại với thực tại. Ba giúp tôi mang cái hang đá ra xe vì nó
khá cồng kềnh. Từ đó đến khi về nhà, tôi lại bồng bềnh trong giấc mơ đẹp, muốn
nó không bao giờ chấm dứt...
Về đến nhà, tôi vừa
vui vì có cái hang đá, vừa ké né sợ má la. Cũng may lúc đó má đang bận nấu ăn
trong bếp. Tôi vội vàng lấy cái bàn nhỏ hồi giờ vẫn để trong góc, chất đầy sách
truyện con nít, cất hết sách vở đi rồi mang bàn ra để ở một góc trong gian
phòng ngoài. Mùi sơn thơm tho tỏa ra từ cái hang đá vẫn làm tôi ngây ngất.
Tôi cặm cụi trải lớp rơm xuống sàn bên trong hang đá rồi trịnh trọng bày từng
bức tượng lên trên, xê tới xê lui cho vừa mắt. Cuối cùng, tôi đặt cây thông be
bé, xinh xinh ngay trước cửa hang. Vậy là cái máng cỏ trong ước mơ của tôi đã
thành sự thật!
– Con biết còn thiếu
cái gì nữa không?
Má đã đứng đằng sau
tôi tự lúc nào, lên tiếng hỏi làm tôi giật nẩy mình.
– Thiếu cái gì, má?
Tôi hồi hộp hỏi,
thoáng mừng vì câu đầu tiên của má không phải để rầy la.
– Thiếu đèn bên trong
cho sáng!
Má trả lời. Giọng bà
không có vẻ gì là bực bội vì chuyện “không nên” này cả.
Ba đã vào trong thay
quần áo xong xuôi, trở ra đứng bên cạnh má, ngắm nghía công trình của tôi. Ông
bảo:
– Ba có một cái bóng
đèn nhỏ trong hộc tủ, có dây đàng hoàng. Để ba giúp con đục một lỗ từ trên nóc
hang đá xuống, bỏ đèn vô trong và gắn dây điện vào ổ cho sáng.
Khi cái bóng đèn bật
sáng bên trong hang đá, trời cũng vừa ngả tối bên ngoài. Máng cỏ xinh xắn bên
trong nổi bật hẳn lên dưới ánh sáng lung linh, lung linh như niềm vui bất tận
của tôi trong mùa Giáng Sinh đáng nhớ đó…
********
Má tôi mất vài năm
trước khi ba tôi qua Mỹ. Trong những lần ôn lại chuyện cũ với tôi, thỉnh thoảng
ba có nhắc đến chú Quới, nhưng chắc là để có cớ nhắc tới thằng On thì đúng hơn,
tôi thấy vậy. Tôi đoán ba nhớ tới nó vì cái tên độc đáo, nếu không muốn nói là
lập dị. Có điều lạ là tôi không thấy ba liên lạc gì với chú Quới, trong khi ba
vẫn thư từ khá đều đặn với một số bạn bè khác trong quân đội ngày trước. Có lần
tôi đã tò mò hỏi vì sao ba không biết nhiều về chú thím Quới thì ba chỉ im lặng
nhún vai. Tôi cũng không hỏi tới nữa.
Tôi gởi cho ông Nhơn
một cái email theo địa chỉ chú đã cho. 2 chú cháu hẹn gặp nhau ở 1 quán cà phê
nằm khuất trong một khu thương xá lúc ấy khá vắng vẻ. Từ cái bàn chỗ 2 người
ngồi, chúng tôi nhìn ra một khoảng sân cỏ xanh rờn, thoáng mát. Ông Nhơn gọi
một ly cà phê sữa đá, còn tôi gọi một ly trà xanh vì trước đó đã uống 2 ly cà
phê rồi.
Tôi hỏi thăm về gia
đình ông Nhơn, và ông cũng ân cần hỏi về gia đình tôi. Trông ông không giống gì
với chú Quới ngày xưa cả. Ông Nhơn to người, râu ria xồm xoàm, còn chú Quới,
trong ký ức của tôi, rất thư sinh. 2 anh em mà như kẻ võ, người văn.
– Được biết chú, bây
giờ cháu mới hiểu hết ý nghĩa của 2 cái tên cộng lại!
Tôi nhận xét:
– Chú biết không?
Cháu nhớ chú Quới hoài vì chính chú là người làm cái hang đá Giáng Sinh đầu
tiên cho cháu.
– Tên anh Quới như
vậy, mà đời ảnh không có gì là “quý” cả!
Ông Nhơn thở dài.
– Sao chú lại nói như
vậy, cháu không hiểu.
Tôi ngạc nhiên hỏi.
– Anh Quới có một nỗi
buồn sâu kín mà trong gia đình ai cũng biết nhưng không thấy rõ, cho đến khi
thằng On ra đời...
Tôi ngồi yên lắng
nghe, không muốn đặt câu hỏi nào nữa, vì cảm thấy có một điều gì đó, to tát, mà
ông Nhơn sắp nói tới.
– Nghe thì trái khoáy
thật, phải không cậu? Ông Nhơn tiếp tục:
– Lý do là anh
Quới của tôi đã được bác sĩ cho biết là ảnh vô sinh từ lâu!
Tôi lặng người đi,
nhưng vẫn không biết phải nói gì, chỉ ngồi chờ xem câu chuyện diễn tiến tới
đâu.
Giọng ông Nhơn vẫn đều
đều:
– Tôi không hiểu cậu
có biết không, thằng On là con của ba cậu; nó là em của cậu đó!
– Dạ không, cháu không
biết! Cháu... không hề... hay biết!
Tôi lắp bắp.
Ông Nhơn thở ra, như
đã trút hết một gánh nặng trong lòng, không nói thêm gì nữa. Phải một lát sau,
tôi mới đủ bình tĩnh nói:
– Lúc còn sống, ba
cháu đôi lúc có nhắc đến On, nhưng không bao giờ nói gì khác.
Tôi nhìn ông Nhơn:
– Chú nói vậy thì
cháu hay vậy, nhưng sự thật là ở đâu? Bây giờ ba cháu không còn để xác nhận hay
phủ nhận được nữa.
Ông Nhơn cười gượng:
– Chị Quới, lúc hấp
hối, đã thú nhận chuyện đó rồi, cậu à.
Ông Nhơn ngưng lại một
hồi lâu rồi nói tiếp:
– Lúc vừa thấy
tấm hình của ba cậu và cậu trên báo, tôi đã nghĩ là mình sẽ có dịp gặp ba cậu
để hỏi xem ông và thằng On có liên lạc với nhau trong mấy mươi năm qua không,
nhưng không còn cơ hội đó nữa...
Ông Nhơn nhấc tách cà
phê lên, nhấp một ngụm. Tôi cũng hớp một miếng trà. Chẳng biết ông có thấy cà
phê đắng hơn mọi lần hay không mà vị trà thật chát trong miệng tôi. Bãi cỏ
trước mặt chúng tôi bỗng dưng không còn thấy mượt mà nữa. Trời chợt tối sầm lại
vì nhiều đám mây mù từ đâu kéo về. Tôi uể oải đứng lên gọi tính tiền và nói lời
chia tay ông Nhơn.
– Cháu sẽ liên lạc với
chú qua email. Cám ơn chú nhiều.
Tôi nói, như vô hồn.
Ông Nhơn khẽ gật đầu rồi quay đi.
Buổi tối hôm đó, tôi
ăn uống qua loa rồi vào phòng làm việc, kiếm cái cặp của ba, hy vọng có tìm ra
manh mối gì trong đó không. Từ ngày ba mất, tôi chưa bao giờ mở cái cặp đó ra,
sợ phải thấy những vật dụng, giấy tờ của ba, chỉ làm buồn thêm chứ chẳng được
gì. Tôi còn một thắc mắc nữa – Má có biết được chuyện này không? Tôi nhớ
mấy hôm sau khi thím Quới từ bệnh viện về, ba má tôi có tới thăm 2 mẹ con. Má
mang nhiều quà, áo quần em bé và mấy thùng sữa Ông Thọ. Hôm đó tôi cũng đi theo
ba má. Chú Quới đứng lóng ngóng bên mọi người, rồi lại lăng xăng tới lui trong
phòng. Chắc chú cưng thằng On lắm, cái đầu nó tròn quay, không một sợi tóc, hai
con mắt đen lay láy, nổi bật trên làn da trắng nõn.
Về nhà, má nói với ba:
– Tên thằng nhỏ nghe
ngộ quá há anh? Không biết chú Quới có dựa vào tiếng Tây mà đặt tên cho con là
On, Đơ, Troa… không! Chắc chú thím định sinh mấy đứa nữa…
– Chuyện đó ai mà biết
được!
Ba nói xuôi xị. Bây
giờ nghĩ lại, tôi chắc lúc đó ba tôi trả lời hết sức sượng sùng mà có lẽ má
không để ý.
Đúng như tôi đã nghĩ,
vừa nhìn những món đồ lặt vặt trong cặp của ba, tôi đã thấy lòng nao nao, thổn
thức. Mỗi món đồ nho nhỏ của ông lúc sinh thời như cặp kính cận, cái bóp đựng
giấy tờ, còn cả vài tờ đô la lẻ, cái đồng hồ Seiko ba thường đeo, những tấm huy
chương ba được thưởng trong thời kỳ quân ngũ… nhất nhất từng thứ đều gợi lên
những kỷ niệm ngày trước. Ba có cả một cái folder đựng đủ loại giấy tờ, từ cái bằng
quốc tịch Mỹ, bằng cấp thời ông đi học, một số hình ảnh, đến giấy tờ trong quân
đội mà ông còn giữ được. Nằm cuối cùng trong xấp giấy đó là một thếp giấy có
kích thước chỉ bằng một nửa các loại khác, được ba cẩn thận gài một cái kẹp
giấy để giữ chung lại. Tôi tháo cái kẹp, lấy một tờ ra coi thử. Đó là tấm biên
lai gởi tiền về Việt Nam, đề tên người nhận là Nguyễn Văn On! Tim tôi như thắt
lại thật mạnh. Tôi hấp tấp nhìn các tờ biên lai còn lại. Có tờ ghi tên vài
người bạn của ba, nhiều tờ khác đề tên của On. Lần nào ông cũng gởi 100 đô cho…
em tôi! Nằm sau cùng trong xấp biên lai đó là 1 tấm hình của 1 thanh niên...
thằng On! Trông nó thật mạnh khỏe, cao ráo, nhưng không có gì giống tôi cả. Lần
đầu tiên tôi gặp nó là lúc nó mới sinh, mấy chục năm sau tôi mới thấy lại nó
qua bức hình này. Tôi lật tấm hình ra phía sau, không thấy có ghi gì cả.
Tôi run run gộp những
tờ biên lai gởi tiền cho On chung với nhau, rồi xếp lại theo thứ tự ngày tháng.
Xong xuôi nhìn lại, tôi mới thấy ra là ba tôi đã gởi tiền cho On chỉ 1 năm sau
khi ông đến Mỹ, chắc là khi ông đã bắt đầu được lãnh “tiền già”. Ông gởi tiền
rất đều đặn, cứ 2 tháng một lần, theo như ngày tháng ghi trên các biên lai. Tôi
đọc kỹ lại từng tờ thì thấy có ghi địa chỉ thằng On ở Nha Trang, chỉ trừ 3 tờ
sau cùng là có địa chỉ ở Tuy Hòa, thành phố cách đó hơn trăm cây số về phía
Bắc…
Ngồi thừ người một lúc
trước mớ giấy tờ, đầu óc tôi ngổn ngang trăm ngàn ý nghĩ. Đêm đã khuya nhưng
tôi không thấy buồn ngủ chút nào. Lát sau, tôi bùi ngùi xếp lại mọi thứ, bỏ vào
cặp, cất nó vào chỗ cũ. Gian phòng làm việc của tôi chợt như rộng hẳn ra. Đám
sách nằm im lìm trên hàng kệ sát vách. Cái đèn màu vàng trên bàn tỏa một thứ
ánh sáng nhợt nhạt, vàng vọt trong cănphòng im ắng đến lạ thường.
Tôi đi ra hàng hiên
sau nhà, bật ngọn đèn lên và đến chiếc xích đu ngó ra bãi cỏ, lặng lẽ ngồi
xuống. Trời đêm mát lạnh. Tiếng côn trùng kêu rả rích nghe buồn buồn. Tôi nghĩ
đến những nhân vật trong câu chuyện vừa tình cờ biết được này, y như trong một
cuốn phim: Ba, má, chú Quới, thím Quới, chú Nhơn, thằng On… Còn tôi thì sao?
Tôi cũng là 1 nhân vật trong đó, hay chỉ là 1 khán giả vô tình? Ba đã sống và
nghĩ gì trong suốt thời gian đó,cho đến ngày ông mất? Trong đầu tôi chợt lóe lên
những đoạn phim ngắn về mối tình vụng trộm giữa ba và thím Quới, hình ảnh chú
Quới đau khổ, nhẫn nhục nuôi đứa con không phải là của mình, thím Quới với mặc
cảm tội lỗi, thằng On… còn thằng On, nó chắc cũng biết chuyện này, qua những
món tiền của người ngày xưa là cấp chỉ huy của ba nó? Còn má, bây giờ tôi không
thể hỏi má điều gì về câu chuyện này cả.
Và tôi? Tại sao tôi
phải biết chuyện này, vào thời điểm này? Nếu như chú Nhơn không gặp tôi ở cửa
tiệm hôm nào... Tôi, cậu bé hồn nhiên ngày xưa với niềm vui òa vỡ vào 1 buổi
chiều trước lễ Giáng Sinh... Và chú Quới, người đàn ông, người chồng, người cha
bất đắc dĩ, người thuộc cấp trung thành của ba… người phải vừa tất tả, đôn đáo
đón một đứa bé ra đời, vừa phải hoàn thành cái hang đá cho một đứa bé khác kịp
đón Noël…
Tôi thấy mình có bổn
phận phải biết thêm về chú Quới, biết chú sống ra sau từ lúc thằng On bắt đầu
khôn lớn cho đến những ngày cuối cùng của chú. Tôi cũng có bổn phận phải xác
minh câu chuyện này với ông Nhơn, vì tôi đã tỏ ra không tin điều ông nói. Và...
chắc tôi cũng phải tìm cho ra thằng On để liên lạc với nó, thằng em bất ngờ của
tôi…
Đêm đã sâu và lạnh lắm
rồi. Tôi vẫn chưa buồn ngủ nhưng thấy mình dù sao cũng phải vào trong, cố dỗ
một giấc ngủ để ngày mai còn có sức đi làm. Tôi trở vào phòng làm việc, ngồi
xuống trước cái computer, mở lên và bắt đầu viết một cái email cho ông Nhơn.
Trong thư, tôi xin lỗi ông vì đã nghi ngờ sự thật của câu chuyện. Tôi cho ông
biết là tôi đã tìm được chứng cớ của câu chuyện đó và ngỏ lời mời ông đến nhà
dùng cơm tối để nói chuyện thêm, để ông biết địa chỉ mới của thằng On, và cũng
để tôi có dịp tìm hiểu về quãng đời sau này của chú Quới…
Thư tôi gởi đi cả tuần
lễ không thấy ông Nhơn trả lời. Bận bịu với công việc, có lúc tôi đã quên bẵng
là mình đang đợi thư của ông. Một hôm, khi mở mailbox để xem thư từ mới, tôi
nhận được hàng chữ từ địa chỉ của ông Nhơn gởi về lại như sau:
Sorry, we were unable
to deliver your message to the following address:
<*******@yahoo.com >:
Unable to deliver
message after multiple retries, giving up.
Lấy làm lạ, nhưng tôi
vẫn thử gởi lại bức thư mình đã gởi cho ông Nhơn lần trước. Chỉ vài tiếng đồng
hồ sau, tôi lại nhận cái message tự động, lạnh lùng như cũ. Chưa nản, tôi lại
gởi thư đi lần thứ 3 - Quá tam 3 bận - tôi nhủ thầm. Rồi cũng những dòng chữ
máy móc đó trở lại với tôi. Tôi lấy điện thoại, tìm số ông Nhơn đã cho tôi, gọi
thử. Chưa kịp nghe chuông điện thoại ở đầu kia reo lên, tôi đã nghe tiếng bíp bíp
và giọng nói thu sẵn trong máy: “We're sorry; you have reached a number that
has been disconnected or is no longer in service.”
Đặt cái điện thoại
xuống, tôi ngồi ngẫm nghĩ một lúc. Tại sao địa chỉ email và số điện thoại của
ông Nhơn, mà trước đó tôi còn dùng được, đột nhiên cùng nhau ngưng hoạt động
hẳn? A… tôi có thể đặt ra một vài giả thuyết, rằng đó là lý do chủ quan hay
khách quan, cố ý hay tình cờ, rằng thế này… rằng thế nọ… để tìm 1 câu trả lời
cho việc mất liên lạc với ông Nhơn. Nhưng thôi, chắc cũng chẳng đi tới đâu…
Bỗng dưng tôi cảm thấy vô cùng mệt mỏi… Tôi cần thoát ra tình huống éo le này,
những cảm xúc hỗn độn này, những câu hỏi không bao giờ dứt, những điều tưởng
tượng… Tất cả… Tất cả…
Tôi sực nhớ rằng sự
việc mấy ngày hôm nay đã làm tôi quên mất chuyện ráp cây thông Giáng Sinh mới
mua về. Cùng lúc, tôi chợt nảy ra ý nghĩ phải đi mua mấy bức tượng bày thành
một máng cỏ cho năm nay, một điều tôi chưa từng làm. Tôi không có cái hang đá
nào, nhưng sẽ dùng cái tủ nhỏ có một khoảng trống phía dưới, trong đó tôi đang
bày những món souvenir có hình dạng những kiến trúc nổi tiếng trên thế giới mua
được qua những lần du lịch. Tôi sẽ lấy những thứ đó ra, biến cái tủ thành hang
đá, và bày biện máng cỏ vào trong đó.
Tối mai, tôi sẽ ở nhà,
ráp cây thông và trang hoàng thật rực rỡ. Tôi sẽ bật nhạc Giáng Sinh lên trong
lúc làm việc này cho có không khí mùa đông, lúc Chúa Hài Đồng giáng thế. Rồi
tôi sẽ làm máng cỏ trong cái hang đá “dã chiến” có sẵn của mình. Lúc trải rơm
vào bên trong cho thành máng cỏ, rồi trịnh trọng đặt từng bức tượng nho nhỏ vào
trong đó, tôi sẽ chìm theo tiếng nhạc du dương, đưa tôi trở lại những ngày tháng
hồn nhiên cũ trong mùa Noël năm nào. Tôi sẽ nhớ đến hình ảnh 2 cha con hân hoan
đi sắm tượng máng cỏ và lấy hang đá vào buổi chiều rộn rịp trước ngày Chúa ra
đời. Và, cố nhiên, tôi sẽ ngậm ngùi, thương cảm nhớ đến chú Quới, người đã đem
lại niềm vui bất ngờ cho tôi vào mùa đông năm ấy, trong lúc lòng ông chắc hẳn
đang đau buồn khôn tả./.
Trần C. Trí

No comments:
Post a Comment