Tôi gặp chị vào những
ngày sau tháng tư năm 75, khi hai người đàn ông của chị và tôi cùng vắng mặt
trong gia đình. Tôi trở về nhà với mẹ trong một xóm nhỏ ở thành phố Cần Thơ,
còn chị cũng dắt con về nhà người anh tá túc, vì cha mẹ chị không còn.
Hoàn cảnh hai đứa thật
giống nhau, hai người phụ nữ chân yếu tay mềm, mỗi nhà hai đứa con dại còn bế
trên tay. Hỏi ra thì trước kia tôi và chị cùng học một trường, cũng mái trường
Nữ Trung Học và cũng những thầy cô năm cũ. Tôi đi dạy một ít lâu, lấy chồng rồi
bận rộn con cái, yên phận làm mẹ. Chị lý tưởng hơn, sau khi đậu Tú Tài, thích
là "hoa lạc giữa rừng gươm", chị đi học khóa nữ trợ tá xã hội, tham
gia nhiều công tác giúp đời.Chị có học qua một khóa trợ y,nhờ vậy sau này khi
lâm vào bước đường cùng, chị đem chút tài mọn ra chữa bệnh cho dân nghèo ở vùng
sâu, vô tình được phong làm "cô bác sĩ", dù không đỗ đạt được mảnh
bằng y khoa nào hết.
Dạo ấy hai đứa đều
dưới tuổi 30, vì chưa lăn lộn với đời nên vẫn có nét ngây thơ của những người
đàn bà trẻ con. Chúng tôi sống bám vào hai mảnh ny lông trên vỉa hè thành phố.
Hai người cùng hoàn cảnh nên dễ thân nhau, cả hai đứa cùng có núm đồng tiền rất
sâu trên má. Chị thật thà bảo tôi:
- Người ta bảo những
ai có núm đồng tiền thì lúc nào cũng dư dả, sao hai đứa mình đói rách quá!
Tôi ngắm chị. Một
khuôn mặt hơi vuông nhưng rất ưa nhìn. Hai mắt sâu và sáng, vầng trán thông
minh, mỗi khi cười hai núm đồng tiền lõm xuống, trông chị rất có duyên. Ngày
còn trẻ, chắc chắn có nhiều anh "chết" vì nụ cười của chị. Bởi vậy
khi gặp chị, anh mau mau đón chị về, rồi không cho đi làm nữa, vì giữa chốn ba
quân, chị như một bông hoa đẹp mà ai cũng muốn hái.
Tôi không đẹp như chị,
chỉ dễ coi, cũng hai núm đồng tiền sâu trên má. Hai đứa có những bốn cái đồng
tiền mà lúc nào cũng túng bấn, phải chia nhau từng đồng tiền vốn, xẻ cho nhau
đồng tiền lời để mua thức ăn cho con. Có sống trong cảnh đời ấy mới thấy được
lòng dạ con người tốt xấu ra sao. Hoàn cảnh bên ngoài thì đổi thay như chong
chóng, anh em trong gia đình ai cũng lo thủ phận mình, hai điều ấy đã giúp
những con người như tôi với chị xích lại gần nhau hơn. Những lúc hai đứa đi
kiếm ăn, dồn cả 4 đứa trẻ lại nhờ mẹ tôi trông giúp. Hai đứa lớn đến trường,
hai đứa nhỏ nhờ bà cụ già chăm bẵm, mỗi chiều về ngoài quà cho con, chị vẫn
không quên mua mớ trầu, mấy quả cau tươi cho mẹ tôi. Có khi cả hai gia đình
cùng ăn chung bữa cơm tối, những lúc ấy cả hai đứa cùng cảm thấy sự chia xẻ cái
khổ, cái nghèo cho nhau thật là đáng quí. Dưới ngọn đèn điện đỏ quạch, chỉ có
đàn bà và trẻ con, không ai nói ra nhưng tôi vẫn nhận thấy nỗi cô đơn và băn
khoăn của những cuộc đời không lối thoát.
Không còn gì để bấu
víu và tin tưởng, khi tương lai là một chuỗi mịt mù, tăm tối. Đêm nào mẹ
con tôi cũng cầu nguyện, ngọn đèn dầu leo lét trên bàn thờ, đêm đêm chúng tôi
chờ phép lạ, như chờ đợi từ ngày mùng 1 Tết dài mãi cho đến chiều 30 cuối năm,
vẫn không có gì hơn. Chị đi chùa, hôm nào có tiền mang theo bó nhang, nải
chuối. Không chỉ có Phật mà hễ nơi nào có Thánh Thần là chị đến, với một niềm
hy vọng là anh ấy được mau trở về với chị. Dưới ngọn nến sáng bập bùng dưới
chân Đức Mẹ, tôi nhìn nét mặt nghiêng của chị, mờ ảo và đẹp lạ lùng. Chị như
một thánh nữ, đôi mắt ứa ra hai giọt lệ long lanh. Chân thành lắm, chỉ là những
lời van xin, khấn khứa cầu sự an bình cho kẻ chân mây.
Tuy vậy, có những khi
thất vọng quá, hai đứa vẫn rủ nhau đi coi bói, bỏ mấy đồng bạc để nghe một niềm
hy vọng. Thầy bói không thấy ai giàu, giữa ban ngày ngó lên nóc nhà lổ chổ như
sao sa, chả thầy nào nói được tương lai của chúng tôi hết. Chị chìa bàn tay còn
xinh đẹp cho lão thầy bói nắn đi nắn lại, lật tới lật lui, đo đạc dài ngắn rồi
nói nhăng nói cuội. Lúc ấy nét mặt chị thật thành khẩn, để rồi trên đường về
chị buồn bã bảo tôi:
- Bồ hên quá, có quý
nhân phù trợ, ông ấy lại có đường về, còn mình sao mờ mịt quá!
Tôi bật cười bảo chị:
- Chuyện, hơi sức đâu
mà tin, cứ đợi đến "con trăng" này xem đương sự có về không đã, biết
thế nào là hên với xui.
Có đến chục "con
trăng" qua đi mà bóng người vẫn biền biệt bóng chim tăm cá. Mỗi lần nói
chuyện coi bói hai đứa lại cười, nhớ lại lúc còn đi học, mới biết yêu, vẫn nhờ người
ta đoán hộ tình duyên, gia đạo. Lũ nhỏ lớn dần lên, đời chị và tôi vẫn chỉ là
những con bài bích, những người chồng thời buổi đó vẫn chưa nhận được con cơ
báo hiệu ngày trở lại.
Một hôm, chị nhận được
thư anh, chiếc phong bì được xếp bằng giấy học trò như đồ chơi thủ công, lại
viết bằng mực tím, bút lá tre. Chị mừng mừng tủi tủi nhìn con dấu nhà Bưu
điện, lá thư vượt đèo, vượt suối đi cả hai tháng trời mới đến tay vợ, và chỉ là
những con số không thấy nói nơi người gửi. Đọc thư anh, tả chút thay đổi thời
tiết, chị biết anh ở xa lắm. Quê chị miền Tây Nam bộ, ven bờ Cửu Long, từ nhỏ
đến lớn chị chỉ đi tới Sài Gòn là hết đất. Thư anh viết có một khuôn mẫu sẵn,
không thấy nói gì đến nhớ thương, chị đọc thư khóc mùi mẫn, trách anh vô tình.
Ngây thơ như một đứa trẻ, chị bảo tôi:
- Anh dặn mình mạnh
dạn đưa các con đi xây dựng vùng kinh tế mới, chỉ có con đường ấy mới mở ngỏ
cho anh có cơ hội làm lại cuộc đời. Hãy tin những gì anh nói, ngày về không còn
xa.
Tôi gạt đi, vì trước
mắt tôi nhan nhản những gia đình sống lang thang trên hè phố, hoặc trở về làm
một cái chái che nắng mưa trên chính nền đất của mình ngày xưa. Tôi khuyên chị:
- Đàn bà chân yếu tay
mềm, trường học điện nước lại không có, ai bảo đảm an ninh cho mình giữa nơi
đồng không mông quạnh. Họ nói thì mặc họ, tin làm sao được.
Chị ngây thơ không
hiểu những gì anh viết, giá chị hiểu ngược lại thì đâu có chuyện quyết định mẹ
con dẫn nhau đi vùng kinh tế mới. Mẹ tôi ái ngại cho chị, có khuyên bảo nhưng
chị quả quyết là sẽ tìm thấy tương lai. Tôi phục chị can đảm, vì tôi vẫn ở lại
thành phố, bám trụ tấm ny lông trên vỉa hè. Tôi không quen nhìn những con đỉa
no máu bám vào chân mình, và cũng không biết làm ruộng. Chị đi rồi, chỉ còn
mình tôi lại nhập vào giòng người xoay quanh cái bẫy chuột lớn, lẩn thật nhanh
vào những con ngõ thông thương khu chợ mỗi khi bị rượt đuổi. Chúng tôi không
phải tội phạm mà lúc nào cũng mang mặc cảm của kẻ bị săn đuổi, không sống bám
ai mà vẫn bị liệt vào thành phần cặn bã.
Có những lần tôi lan
man nhớ đến người bạn hiền của mình, hình dung ra căn nhà trống trải của mẹ con
chị giữa đồng không mông quạnh, đôi tay học trò ấy làm sao vật lộn nổi với
những thửa ruộng đầy cỏ lác và đỉa vắt. Sức chịu đựng của chị có ngày cũng hết,
tôi nghe tin chị tự tử và được cứu thoát. Ít lâu sau, chị về lại thành phố với
nét mặt xanh xao, tiều tụy, đầu cạo trọc như một ni sư. Nguyên nhân làm chị tự
tử cũng chỉ vì không chịu nổi cảnh sống quá cùng cực và cô đơn, vì những lời
tán tỉnh lẫn hăm dọa của bọn địa phương. Ra đi thì dễ, nhưng về lại không đơn
giản. Không nhà, không hộ khẩu, anh em nhìn chị hờ hững, vì không ai muốn đa
mang vào mình những gánh nặng. Hai đứa tôi trở lại khu chợ nhỏ, trở lại với tấm
ny lông trên vỉa hè, mỗi lần hàng phượng vĩ ven sông rưng rưng những cánh hoa
màu đỏ rực rỡ, tôi thấy chị buồn buồn. Cả hai đứa có một lúc nào đó trong đời,
vẫn bâng khuâng nhớ lại mình ngày xưa, tà áo trắng, mái tóc dài xõa trên lưng,
nụ cười má lúm đồng tiền dễ thương làm say lòng người bạn trai cùng lớp.
Một thời gian sau, chị
lại đưa con về quê chồng, vì người anh chồng đi tập kết về chia điền sản của
cha mẹ để lại. Chồng chị được một phần, dĩ nhiên không nhiều lắm nhưng có còn
hơn không. Căn nhà của ông bà nội lũ nhỏ dành cho ông anh cả, chị cất tạm một
cái chái bên cạnh ngôi nhà từ đường của cha mẹ chồng để lại.
Những ngày đầu ở quê
chồng, gần gũi với gia đình ông anh chồng "Cách mạng", chị phục lăn
ông về những bài học và cách sống của một xã hội tốt đẹp mai sau, khi con người
không bóc lột người, mọi sự trên đời sẽ là của chung. Nhưng sau chị mới thấy
triết thuyết đi một đàng, lòng người lại đi một nẻo. Lúc ngỏ lời nhờ ông anh
cứu giúp thằng em trong tù, ông cho chị nhiều bài học mà chính chị không ngờ
chồng chị lại nhiều tội đến thế. Chị thấy mình luẩn quẩn, cứ đi từ bế tắc này
sang bế tắc khác, chẳng cái nào dễ chịu hơn cái nào. Cuối cùng, chị gom hết vốn
liếng, mua một cái ghe nhỏ có mái che, mẹ con dẫn nhau đi buôn bán dọc theo các
làng xóm xa xôi, đổi chác sống qua ngày.
Từ một người phụ nữ
trí thức thành phố, chị mau chóng trở thành một người phụ nữ miền quê đen đủi,
đảm đang. Chân đi đất, đầu quấn khăn rằn, biết chèo xuồng và sống như một người
nhà quê thứ thiệt. Trên chiếc ghe chật chội ấy, thay cho mái nhà tranh, mẹ con
chèo chống, trôi nổi như giề lục bình trôi theo giòng nước. Có chỗ để ngủ, có
chỗ nấu ăn, có khạp nước uống, chiếc ghe như một cái nhà lưu động, rày đây mai
đó, thỉnh thoảng chị mới chèo ghe về chợ Quận, mua hàng hóa và thuốc men để
trao đổi với người dân sống ven hai bờ kinh rạch. Lúc ấy, con chị mới được ăn
tô hủ tíu, được nhìn ánh đèn điện sáng như trăng ở phố chợ, đôi mắt háo hức
nhìn những đứa trẻ cùng cỡ tuổi đến trường.
Theo như chị kể lại,
người nông dân quê mình là những người sản xuất ra lúa gạo, lại là những người
chịu cảnh bữa đói, bữa no. Gặp lúc được mùa, có chút lúa bán xong phải mua
phân, mua giống để dành, sửa cái nhà, cái ghe, sắm bộ quần áo chờ mùa tới. Chẳng
may thất mùa lúa đóng thuế không đủ, trong nhà vét không ra hột gạo để ăn. Lại
đi vay, nợ mẹ đẻ nợ con, lắm nhà chỉ có cơm ăn với muối xả ớt. Tuy vậy, họ vẫn
cần nhiều thứ cho sinh hoạt hằng ngày. Cuộn chỉ, cây kim, chai dầu gió, viên
thuốc cảm, lúc ốm đau làm gì có bác sĩ, y tá nào mạo hiểm đến đó cứu nhân độ
thế, hay để thực thi câu "lương y như từ mẫu" cho họ. Chính lúc ấy,
chị trở thành thầy thuốc bất đắc dĩ của đám dân nghèo, bằng chút kinh
nghiệm của sự học hành năm xưa, qua mấy cuốn y học thường thức chị được đọc,
dẫu không có bằng cấp chuyên môn, chị vẫn là tia sáng trong cảnh tối tăm
của đám người nghèo khổ. Người ta đón chiếc ghe của chị để mua viên thuốc cảm,
thuốc ho, nhờ chị chữa giùm những chứng bệnh thông thường, vô tình chị trở
thành "cô bác sĩ" của những người dân quê tội nghiệp.
Cuộc sống cứ thế trôi
đi, chồng chị vẫn chưa về dù chị đã hai lần đi xây dựng quê hương mới. Hai đứa
con không được đi học, nhưng những buổi tối neo thuyền trên bến sông, dưới ngọn
đèn lù mù, chị dạy con học đọc, học viết. Sau này, anh được chuyển dần vào Nam,
mỗi lần đi thăm chồng chị gửi ghe cho người bà con, mẹ con dắt nhau đi thăm
nuôi. Chị giấu biệt anh về cảnh sống hiện tại, con không được đi học, mỗi lần
về anh gửi thêm lá thư cho ông anh "Cách Mạng" nhờ giúp đỡ vợ con.
Chị im lặng không nói, lúc về ngang bến phà Mỹ Thuận, chị đọc thư rồi xé nhỏ
từng mảnh thả trôi theo dòng nước. Bây giờ chị đã trưởng thành, 6 năm trời lận
đận chị không còn ngây thơ như dạo trước. Lần chị về thành phố thăm tôi, dẫn
theo hai đứa con nay khá lớn, chị hầu như lột xác để trở thành một người phụ nữ
thôn quê biết an phận, đen đủi hơn và nét mặt đăm chiêu hơn. Tôi hiểu chị đã
trưởng thành, từ những kinh nghiệm suốt 6 năm qua chị gặp phải. Vẫn mái tóc
được bới gọn đằng sau gáy, chiếc áo bà ba đen, nụ cười buồn vẫn còn hũm xuống
núm đồng tiền, có lẽ đấy là nét duyên dáng cuối cùng còn sót lại nơi chị. Hai
đứa con chị thật tội nghiệp, chân mốc cời, mặt ngơ ngáo khi gặp lại những đứa
bạn ngày thơ ấu, nay đã quá xa lạ. Ở chơi với tôi vài ngày, chúng tôi nhắc lại
chuyện cũ. Chuyện nhà ông thầy bói giữa ban ngày mái lá sáng như sao sa, chuyện
hai đứa giữa buổi chợ túm bốn góc ny lông chạy như vịt, chuyện về những người
đàn ông vắng mặt trong nhà không biết đến mấy mươi trăng mới trở lại.
Mãi 7 năm sau chiến
tranh anh mới được trở về xum họp với vợ con, đúng vào đợt cuối năm, kịp về ăn
Tết với gia đình. Lúc thay bộ quần áo cũ ngày xưa, anh ngượng nghịu như người
quen đi chân đất lần đầu tiên được mang giày, anh thấy mình trở thành con người
khác. Hành trang anh chẳng có gì, cái gì còn xài được anh cho lại bạn bè, hai
chữ Tự Do khiến anh hân hoan, ước thành chim để bay ngay về với vợ con.
Hôm ấy là những ngày
cận Tết, trên chuyến phà buổi chiều sang sông, anh nhìn thiên hạ chen chúc
nhau, tay xách nách mang, người ta về quê ăn tết, trông ai cũng háo hức lạ. Còn
một ít tiền vợ đưa hôm trước, anh mua cho con chục ổi, mấy xấp bánh phồng khoai,
bao nhiêu năm tù tội anh chẳng còn gì, chỉ còn tấm thân tàn và túi hành trang
rỗng tuyếch. Anh dựa vào lan can chiếc phà đang lướt sóng trên giòng sông Cửu
Long, mặt sông như một miếng bông cỏ khổng lồ trải rộng ra từ bờ bên này tới bờ
bên kia. Anh hít thở nhiều lần không khí trong lành của dòng sông quê mẹ, mắt
nhìn theo giề lục bình lênh đênh trên dòng nước, không biết nó trôi về đâu, với
những bến bờ xa lạ.
Cuối cùng anh cũng về
tới quê nhà, nơi mà ngày xưa lúc còn chiến tranh, anh ít khi dám trở lại. Con
đường cũ vẫn gập ghềnh như ngày nào, ngày xưa đã không ít những chuyến xe bị
lật nhào sau tiếng nổ long trời của mìn bẫy, đã không ít những người vô tội chết
thảm thiết trên nẻo đường yêu dấu của quê hương.
Bây giờ thì cảnh ấy
không còn, nhưng đường xá vẫn lồi lõm còn hằn sâu dấu tàn phá của chiến tranh.
Cảnh nào với anh cũng vậy. Miền Bắc heo hút những rừng, những suối, đường xe
chạy những cây giang, cây nứa quẹt vào thành xe cào xước. Miền Nam sông rạch chằng
chịt, nhà cửa xiêu vẹo vẫn y chang ngày trước. Cha mẹ anh qua đời từ lâu, vợ
con anh đã thay anh về quê chồng lập nghiệp, anh thấy lòng mình vẫn ấm áp với
hai chữ "trở về" thật thiết tha.
Khi anh tìm về căn
nhà, làng xóm cũ năm xưa, người đầu tiên anh gặp lại là ông anh lớn, người đã
theo tiếng gọi núi sông ra Bắc tập kết, nay trở về miền Nam sống trong căn nhà
hương hỏa của gia đình. Dạo ông ra Bắc, anh còn nhỏ xíu đang đi học tiểu học, nay
gặp lại hai người đã đứng vào hai phía khác nhau. Ông anh là hình ảnh của cha
anh hồi trước, cũng chút hom hem khi đôi má hõm xuống bởi thiếu những chiếc
răng. Sau vài lời hỏi thăm, anh được thêm những lời khuyên nhủ, y như những bài
anh học được trong tù.
Khi hỏi thăm đến vợ
con, anh được biết "thím ấy và các cháu" đang sống trên chiếc ghe
nhỏ, cuộc sống bập bềnh như cọng lục bình thả theo nước lớn, nước ròng. Tự
nhiên anh muốn khóc, người anh cả lúc đưa anh ra mé sông tìm vợ con, đã hạ
giọng nói với anh mà nghe rõ lắm mới thấy có gì rất ngậm ngùi:
- Thôi lỡ rồi, anh
cũng không làm lại được mà chú cũng không làm lại được. Nói vợ em thu xếp cho
các cháu lên bờ, dầu gì chúng cũng là cháu của anh.
Ôi tình nghĩa anh em,
dẫu có thế nào đi nữa cũng phải có phút giây sống thật với tình máu mủ. Không
ai căm thù ai, vì ai cũng chỉ là nạn nhân của lũ kên kên thèm ăn thịt người, xô
đẩy nhau chết chất chồng để làm vật tế thần cho chiến tranh.
May là anh về đúng dịp
cuối năm, chị neo ghe vào bờ cho con ăn Tết. Dưới hàng dừa lả ngọn trên sông
chiều, một làn khói trắng bốc lên trên mặt sông, lòng anh man mác buồn, rồi khi
bước qua mấy bậc đá rêu trơn trợt để xuống ghe, tự nhiên anh bật khóc. Chưa bao
giờ anh khóc ngon lành như thế, vì không phải lúc nào anh cũng có tự do để
khóc, hơn nữa, nỗi đau khổ đã làm mắt anh ráo hoảnh, khô khốc không còn giọt
lệ.
Anh biết đời anh mất
tất cả, chỉ còn chút này thôi. Nhìn vợ trong chiếc áo bà ba đen, hai bờ vai
thon mảnh năm xưa nay u lên vì chèo chống nhiều quá, lòng anh như bị sát muối.
Hai đứa con lơ láo nhìn cha, chân cẳng chúng nó mốc cời, anh ôm con vào lòng mà
không làm sao ngăn được những giọt nước mắt, cứ thế lả chả rơi xuống mái tóc
khét nắng của con.
Mùa Xuân ấy, vợ chồng
con cái anh đón ông bà trên chiếc ghe neo dưới mé sông, vì họ là những người
không đất đứng, không có nhà, không có nơi chốn để về khi mùa Xuân tới. Anh còn
sống nhiều năm, nhiều tháng chèo chống với vợ trên chiếc ghe thương hồ ấy, chấp
nhận hoàn cảnh một cách bình thản vì không còn một chọn lựa nào khác. Hai đứa
con được cho lên bờ đi học, tá túc với người bác trong căn nhà của ông bà nội.
Dù sao con anh vẫn phải đi học, học gì không biết, nhưng từ trước đến nay,
trường học vẫn là cái nôi êm ái nhất trong cuộc đời của mỗi con người. Vợ anh
vẫn là "cô bác sĩ" bất đắc dĩ của những người dân quê nơi vùng sâu,
nhưng từ ngày có anh, chị đỡ vất vả hơn, nét mặt có tươi tắn và nụ cười vẫn còn
dấu vết hai núm đồng tiền in trên má.
Sống trên sông đã
quen, người anh cứ bập bềnh, lúc được lên bờ là những ngày ít ỏi của anh trên
quê hương. Mỗi lần bước đi anh cứ lảo đảo như người say sóng, chút xíu anh ngã
vì lòng cứ mênh mông nghĩ đến một chân trời xa lạ. Anh để lại chiếc ghe cho đứa
cháu họ, về ngôi nhà hương hỏa với người anh một thời gian trước lúc đi xa, có
dịp sống lại với nhau một thời gian, nhờ vậy họ đã hiểu nhau thêm một chút. Khi
chỉ còn hai anh em, không còn lằn ranh nào giữa tình huyết nhục, ông anh của
anh đã khóc và mới có dịp nói hết những ray rứt mà ông giấu kín bao nhiêu năm,
kể từ năm 54, ông bỏ nhà ra Bắc.
Đó là những gì tôi
biết về anh chị, những người bạn cùng hoàn cảnh với tôi, đã không có đất đứng
ngay chính trên quê hương của mình. Giờ này anh chị đã có một cuộc sống khá ổn
định trên nước Mỹ, tôi không dám bảo nơi đây là đất thiên đường, nhưng nó cũng
không phải là hỏa ngục.
Anh chị lập nghiệp
trên miền Bắc, mùa Đông có tuyết phủ và mùa hè, trời vẫn mát mẻ với những ngọn
thông xanh. Họ gửi cho tôi mấy tấm ảnh, anh tóc đã muối tiêu, chị đã tròn trịa
hơn trước, riêng hai đứa nhỏ nay đã lớn, nhận không ra, đứa con gái thật xinh,
nụ cười giống hệt mẹ thời còn trẻ.
Nghe nói ông anh
"Cách Mạng" của anh đã chết, những năm về sau anh vẫn gửi tiền, gửi
quà và thuốc men về cho ông, ít ra nhờ vậy ông cũng được hưởng chút nào của
thằng em trong những ngày cuối đời. Những người ở thế hệ anh năm xưa mất đi
cũng nhiều, càng về già thì nỗi nhớ quê càng chập chùng, anh vẫn không quên
được dòng sông miền quê cũ. Trong tấm hình mới nhất anh chị tặng tôi, chị nép
vào vai anh mỉm cười, già rồi mà hai núm đồng tiền vẫn còn mờ trên má, chóng
thật, mới ngày nào mà đầu đã hai thứ tóc.
Nguyên Nhung
Để nhớ những ma Xuân xưa

No comments:
Post a Comment