Thuở
xưa, có một nước hiệu là Diệp Ba, vua tên là
Thi Tí, lấy phép chơn chánh trị vì, chẳng hề làm
tổn lê dân. Vua có 4.000 quan thượng thơ, 500
thớt voi bạch, cai quản 60 tiểu bang và 800 thôn xã.
Vua tuy có hai muôn vương phi mỹ nữ, song không có bà
nào có con. Ngài khẩn cầu chư Thánh chúng, Thần núi,
Thần nước.
May thay!
Một bà bỗng có thai.
Thiên
tử bổn thân săn sóc chánh cung rất chu đáo. Ngài
lại ra lệnh lo nào nệm thúy gối loan cho bà an
nghỉ, nào món ăn cho mỹ vị, thức uống cho
tinh khiết đặng bà dùng. Sau chín tháng đến ngày
mãn nguyệt khai hoa, bà sanh đặng một hoàng nam đặt
tên là Tu Ðại Noa. Hay tin này, cả thảy quý phi trong
cung điện đều hớn hở vui mừng.
Thời
gian qua, Thái tử Tu Ðại Noa đã được 16
tuổi. Ngoài văn võ kiêm toàn, lại thêm lễ nhạc
cung đàn cũng là tột chúng. Ngài phụng kính Hoàng-phụ
và Mẫu-hậu chẳng khác chi như thánh. Vua cha lại
dựng riêng cho Hoàng-tử một đài các nguy nga
rực rỡ. Tuy trẻ tuổi, song Ðông cung lại quý
sự phước thiện, bố thí cho nhân loại, thượng
cầm hạ thú. Ý Ngài chỉ muốn cho tất cả chúng
sanh được an vui tự tại.
Khi đến
tuổi trưởng thành, vua cha đính hôn cho Ngài với
nàng Mạn Trà, con một vị Thiên tử. Công chúa
sắc đẹp tuyệt trần và đức hạnh không
ai sánh kịp.
Ngày tháng
qua, vợ Ðông cung sinh được một trai, gái.
Thuở ấy Hoàng tử nhớ pháp bố thí Ba La
Mật. Ngài xin phép vua cha dạo chơi và xem cảnh
vật, Ngài thấy những người nghèo, đui,
điếc, câm, đi dọc đường, trong lòng
ưu ái, không hân hoan chút nào. Vua cha hỏi, Ðông cung nói:
“Tâu Hoàng phụ, con ra thành thấy người nghèo,
điếc, đui, câm; con động mối từ tâm, xót
lòng trắc ẩn. Con muốn tâu Hoàng phụ biết ý
muốn của con, song con còn ngần ngại e Hoàng phụ
không nhận lời”.
Hoàng thượng
nói: “Con muốn điều gì, cha cũng hoan hỷ ban cho
như ý”. Ðông cung nói: “Con muốn lấy tất cả
trong kho tàng của Hoàng phụ, đem bố thí cho mọi
người, bất luận ai xin vật chi thì con cho
vật ấy”, Hoàng phụ đáp: “Hay thay con cứ thi
hành theo bổn nguyện, cha không cấm cản”.
Ðông cung
xin các quan hầu cận đem đồ châu báu ra bày
biện nơi bốn cửa thành và ngoài chợ đặng
bố thí cho tất cả nhân loại. Tám phương
trời đất đều hay việc lành của Hoàng
tử. Bốn hướng xa xôi ngàn dặm, đua nhau
lặn suối trèo non, đến chịu thọ thí. Người
đói rách, Hoàng tử cho ăn mặc, kẻ xin bạc vàng
châu báu, Hoàng tử lại cấp cho, ai ai cũng
được lòng hả dạ.
Thời
ấy có một ông vua nghịch sanh lòng nham hiểm, hay tin
Hoàng tử bố thí bất luận là ai cùng vật gì,
mới hội các đình thần và các vị Bà La Môn
trong nước bàn bạc rằng: “Ta nghe vua nước
Diệp Ba có một thớt tượng bạch, tên là Tu
Ðàn Diên chạy bay được trên liên hoa. Voi ấy
đã dõng mãnh lại mạo hiểm trong việc chiến
tranh, trăm trận trăm thắng, chả biết chư
khanh có ai chịu đi xin voi ấy chăng?”. Các quan văn
võ lắc đầu trương mắt nhìn nhau; song trong hàng
Bà La Môn có tám ông tâu rằng: “Chúng tôi nguyện làm như
ý, cúi xin Hoàng thượng ban cho chúng tôi ít đồ hành
lý”. Vua dạy cấp đồ đi đường và
nói rằng: “Ta rất tin cậy các ngươi, nếu các
ngươi xin được voi ấy, ta sẽ trọng
thưởng”.
Tám ông Bà
La Môn tay cầm tích trượng lên đường, khi lên
thác khi xuống ghềnh, lần hồi đã tới nước
Diệp Ba. Chúng hỏi thăm đến trước
cửa đền Hoàng tử, thảy đều chống
gậy kim cương, chân đứng chân treo, day mặt vô
cửa. Người giữ cửa vào báo cho Ðông cung, Ngài
liền ra thi lễ một cách tôn trọng, chẳng khác
chi nghĩa cha con. Ðoạn thái tử hỏi: “Bạch quý
Ngài, quý Ngài ở đâu đến đây? Ði đường
sá xa xôi có cực khổ chăng? Cảm phiền quý Ngài
cho tôi biết có việc chi quan hệ mà phải chịu
nhọc nhằn treo chân như thế này?”. Tám vị Bà
La Môn đáp: “Thưa Hoàng tử Ðông cung, chúng tôi
mạn nghe Ðông cung mở đường phước
thiện, bố thí bất luận là ai cùng bất cứ
của cải gì, nên danh thơm của Ngài truyền
khắp tám phương, công đức của Ngài quả
thật vô lượng vô biên, xa gần đều chúc
tụng, không còn một ai không biết. Chúng bần đạo
lấy đó tin chắc chắn như lời. Thưa Hoàng
tử Ðông cung, thật Ngài là con cõi thượng thiên,
thế thì lời nói Ngài còn hơn kim thạch. Vậy
nếu Ngài thành tâm bố thí, chúng bần đạo xin
Ngài hoan hỷ cho chúng tôi bạch tượng bay trên liên
hoa”.
Ðông cung
liền đến chuồng ngựa dắt ra một con voi
bạch song các vị Bà La Môn lại nói: “Thưa Hoàng
tử Ðông cung, không phải thớt voi này, chúng tôi xin
đây là xin bạch tượng chạy được trên
hoa sen, tên nó là Tu Ðà Diên”. Hoàng tử đáp: “Cha tôi
thương mến voi ấy lắm, chẳng khác chi tôi, tôi
không thể tự quyền cho các Ngài. Nếu tôi cho thì
cha tôi hết thương tưởng tôi, lại còn đuổi
tôi ra khỏi nước nữa”. Nhưng Ðông cung
lại nghĩ rằng: “Trước kia ta đã lập
trọng nguyện Bố Thí Bất
Nghịch Ý, nếu ta từ chối thì ta tự bác
đại nguyện của ta, ta nên cho voi ấy mới có
thể đạt được pháp Ba La Mật”. Ðông
cung không còn ngần ngại nói: “Bạch quý Ngài, tôi không
dám làm quý Ngài bận lòng vì một sự nhỏ nhen
đó” Hoàng tử dạy tùy tùng thắng bành vàng và
dắt tượng ra tức tốc. tay trái Ngài bưng nước
rửa tay cho các vị Bà La Môn, tay mặt dắt voi trao
cho quý khách. Vừa được voi bạch, tám ông Bà La
Môn liền ca tụng “Bồ đề tâm” và cảm
tạ Ðông cung, lộ vẻ hân hoan, và vội vã lên
đường. Ðông cung lại còn nói vói: “Xin quý Ngài hãy
đi cho chóng, kẻ Hoàng phụ tôi biết lại cho người
theo bắt voi”. Trong nháy mắt, tám ông Bà La Môn biệt
dạng.
Vừa
nghe Hoàng tử cho kẻ nghịch tượng báu, các quan
văn võ đều sững sốt, lo sợ rằng: “Nước
ta nhờ có voi ấy mà dẹp nạn can qua”.Quần
thần liền vào tâu với vua: “Muôn tâu bệ hạ,
Ðông cung đã đem voi báu mà cho kẻ thù nhà, Bệ
hạ dựng nên bờ cõi cũng nhờ có voi ấy oai
phong lẫm liệt, một mình có thể chống cự
60 thớt voi khác như chơi; nay Ðông cung lại cho
kẻ nghịch, chúng hạ thần cho đó là điềm
mất nước. Chúng tôi tâm hồn rối loạn, cúi
xin Hoàng thượng định đoạt. Bố thí
bất nghịch ý của Ðông cung theo thiên kiến của
chúng tôi thì chẳng kíp thì chầy, Hoàng tử chẳng
những vét sạch cả của cải trong kho tàng mà thôi,
lại chúng tôi sợ e Ngài còn cho cả nước và
vợ con Ngài nữa”.
Vua nghe tâu
không bằng lòng, liền cho đòi một vị Ðại
thượng thơ đến hỏi: “Khanh cho Trẫm
biết có phải Thái tử bắt bạch tượng
cho kẻ nghịch chăng?”.
Muôn tâu Bệ hạ
quả thật như lời.
Vua
hội nghị tất cả đình thần để
thẩm án Ðông cung. Một quan thượng thơ tâu:
“Kẻ nào vào chuồng tượng thì chặt chân,
kẻ nào dắt tượng thì cắt tay, kẻ nào
thấy dắt tượng thì móc mắt”. Một quan thượng
thơ khác lại tâu: “Xin Hoàng thượng cho công án
tử hình cho cả thảy thủ phạm và đồng
lõa”. Thấy quần thần phân vân và ý kiến không
đồng, Vua lại thêm tha thiết và phán với
triều đình: “Con Trẫm chẳng những ham tu
tuệ mà thôi, lại còn mộ đường phước
thiện. Ðối với mấy điều ấy Trẫm
không thể ngăn cản, huống chi nay Trẫm nỡ
đành bắt buộc hành hình cùng hạ ngục”.
Một vị Ðại Thượng thơ bác bẻ ý
kiến cả thảy triều đình, rồi quỳ
xuống tâu: “Theo thiển kiến của tôi, Ngài nên
đuổi Thái tử ra khỏi nước và đày người
ở chốn lâm sơn 12 năm hòng người ăn năn
hối ngộ”.
Vua theo ý
kiến ấy, dạy đòi Ðông cung vào hỏi: “Có
phải ngươi bắt bạch tượng cho kẻ
nghịch chăng?”
- Muôn tâu
Hoàng phụ, quả thật vậy.
Vua
lại hỏi: “Sao ngươi lại dám bắt bạch
tượng cho kẻ nghịch mà không trình cho ta hay trước
?”
- Thưa
Hoàng phụ, trước kia Hoàng phụ cho phép con bố
thí như ý mà không ngăn cấm một việc chi.
Bởi thế nên con không tâu lại với Hoàng phụ
việc con làm phước.
Thánh Hoàng
nói: “Lệnh ta ban thuộc về ngọc ngà châu báu,
chớ không can hệ với tượng bạch”.
Thái
tử đáp: “Muôn tâu Hoàng phụ, các vật ấy
đều là của cải của Hoàng phụ tất
cả, con không ngờ phải ngoại trừ tượng
bạch”. Hoàng thượng phán: “Ngươi phải
tức tốc ra khỏi nước này, ta đày ngươi
tại núi Ðàn Ðặc 12 năm.
Thái
tử tâu: “Con không cải lệnh Hoàng phụ, song con xin
Hoàng phụ cho phép con ở lại thêm bảy ngày đặng
bố thí thêm cho mãn nguyện”.
Thiên
tử phán: “Ta dạy ngươi cũng vì sự bố
thí của ngươi thái quá, chẳng những làm tiêu
tan kho báu của ta, lại làm cho nước mất
một linh vật. Ngươi không được ở
lại đây thêm bảy ngày, hãy ra khỏi nước bây
giờ, ta không cho phép đâu”.
Thái
tử tâu: “Con không dám trái lệnh Hoàng phụ, nhưng
vì con còn chút ít của cải riêng, muốn đem bố
thí cho trọn vẹn chớ con không dám đá động
đến kho tàng của nước nữa…”
Hai muôn
cung phi đồng xin vua để cho Hoàng tử ở
lại bảy ngày rồi sẽ đày đi cũng
chẳng muộn.
Vua
nhận lời.
Thái
tử dạy cho gia dịch truyền cho thập phương
hay: ai muốn của cải, thì đến Ngài cung cấp
cho.
Nhân dân
ở bốn phương trời nghe đồn đều
tới cửa đền; Hoàng tử rất ân cần
thiết đãi thức ăn uống, chăm nom phân phát
của cải, mọi người đều được
vui vẻ. Trong bảy ngày, bố thí hết của
cải. Người hàn vi trở nên phú quí; cả muôn người
đều nhờ đó được no ấm hân hoan.
Ðông cung
vào từ tạ Công chúa Mạn Trà và nói rằng: “Vì tôi
bố thí thái quá, đã vét sạch kho tàng lại còn cho
kẻ nghịch tượng bạch kỳ tài, nên Hoàng
phụ và triều đình đày tôi 12 năm lên núi Ðàn
Ðặc”.
Bà Mạn Trà nói:
“Muốn nước thạnh nhà an, tôi xin cầu chúc Ðức
Thánh hoàng, các thượng quan cùng quân nhân lớn nhỏ
trong nước, thảy đều được giàu
sang, an vui vĩnh viễn. Còn tôi thì nguyện theo cùng Thái
tử vào chốn thâm sơn mà tu hành pháp Bát nhã”.
Ðông cung
nói: “Người nam tử ở núi non hiểm địa
còn khó giữ được bình tĩnh với cọp hùm
cùng các loài thú dữ khác; Vương phi đã quen thanh nhàn,
làm sao chịu nổi với cảnh khó khăn và đời
vô vị. Công chúa ở thì đài các nguy nga, mặc ròng
tơ lụa, nghỉ toàn nệm gối, ăn uống tinh
đồ mỹ vị; còn trên sơn lâm, nghỉ toàn màn
trời chiếu đất, nệm gối bằng cỏ rơm,
thức ăn toàn là hoa quả. Lại thêm mưa, gió,
sấm sét, sương, tuyết làm cho vỡ mặt kinh tâm.
Khi lạnh thì lạnh thấu xương, khi nóng thì nóng
phỏng trán. Nơi cây cối không bề nương
dựa, dưới đất thì cỏ gai, đá sỏi
cùng loài sâu bọ độc địa, làm sao Vương
phi lại chịu nổi cảnh Khổ ấy?”
Bà
Mạn Trà đáp: “Nếu thiếp xa cách Hoàng tử thì
cần gì nệm thúy gối loan, sơn hào hải vị.
Hôm nay đứng trước hoàn cảnh này thì lẽ
đương nhiên chàng đâu thiếp đó cho trọn
đạo vợ chồng. Nước lấy cờ làm
biểu hiệu, khói thì có lửa, vợ thì có chồng.
Thiếp chỉ biết gởi thân cho lang quân, mặc
dầu mưa tối nắng chiều. Thiếp tưởng:
lang quân chẳng khác chi thần thức của thiếp,
nếu thần thức xa lìa thì thân kia tan rã. Vả
lại lúc lang quân lập đàn bố thí, thiếp cũng
dự vào, khi lang quân lìa quê hương nếu có người
đến xin thọ thí, Thiếp biết nói làm sao
với họ? Lúc thiếp nghe ai khẩn cầu với thí
chủ, thiếp quá cảm động có thể chết
đặng vậy”.
Ðông cung
nói: “Tôi mở đường bố thí, không từ
chối một ai, nếu có người đến xin hai
con, tôi rất hoan hỷ nhận lời. Khi ấy Công chúa
không vui lòng hưởng ứng, có phải làm rối
loạn tâm từ thiện của tôi không? Tốt hơn là
Công chúa đừng theo tôi làm chi”.
Mạn Trà đáp: “Hoàng
tử chớ có lo xa, tôi xin tán thành mọi việc phước
thiện. Lang quân ôi! “Trong trời đất không còn ai
nhân đức hơn lang quân!”
Ðông cung
nói: “Nếu quả Vương Phi đồng tình thì không
gì quý hóa bằng!”.
Ðông cung
dắt vợ con vào viếng mẹ và từ giả lên
đường. Thái tử thưa: “Cúi xin Mẫu hậu
hãy năng nhắc nhở Thánh hoàng; lấy luật chân chánh
trị nước chăn dân, chớ để tà đạo
sang nhập nước nhà”.
Nghe
lời Ðông cung, Hoàng hậu bồi hồi cảm động
âu sầu. Bà nói giữa cung phi: “Ta đem thân cứng
cỏi như sắc đá, lấy lòng bền bỉ hơn
gang thép mà phò Hoàng thượng không chút chi lỗi
lầm. Nay ta có một mụn con vỏn vẹn, nó lại
bỏ ta mà đi, tưởng tới chừng nào thì tâm bào
ta đứt từng đoạn! Nhớ khi con còn trong
bụng mẹ, chẳng khác chi lá trên nhành, càng ngày càng
lớn, ta nuôi con đến tuổi trưởng thành, nó
lại đi xa, bỏ ta hiu quạnh! Các Vương phi khác
sẽ được thú vui chơi, còn ta thì Hoàng thượng
sẽ hết yêu vì ta nữa. Ta xin thành tâm chú nguyện cùng
cao xanh cho con ta mau được trở về xứ
sở”.
Ðông cung
cùng vợ con đồng lạy mẹ rồi lui ra.
Hai muôn
quý phi mỗi bà đều đem ngọc trân châu đặng
hiến cho Ðông cung; bốn ngàn Thượng thơ đem
tràng hoa và báu dâng cho Hoàng tử.
Hoàng
tử ra cửa thành hướng Bắc, Ngài lấy
cả thảy bảy vật báu, ngọc và bông hoa bố
thí cho mọi người. Cả thảy quan dân lớn
nhỏ vô số đến đưa đón chật
đường, chen nhau dâng lễ vật cùng chúc từ
cho Hoàng tử. Họ bàn luận cùng nhau và nói: “Ðông
cung thái tử là người trọn lành, là bậc vĩ
nhân trong nước. Vì sao Hoàng thượng lại xua
đuổi một vị Hoàng tử quý nhất và
hiếm có trong đời này?”. Cả thảy mọi người
đều hoài tâm thương tiếc.
Ra
khỏi thành, Hoàng tử xin thần dân trở gót đặng
Ngài lên đường. Lúc quay lưng, quan dân lớn
nhỏ đều bi cảm và khóc nức nở.
Thái
tử lên xe với vợ con, tự cầm cương
dục ngựa. Ði một khoảng đường xa xa. Thái
tử dừng xe dưới bóng cây nghĩ mát. Bỗng có
một người Bà La Môn đến xin Ngài con ngựa.
Thái tử mở ngựa ra cho, rồi để hai con lên
xe, mang gọng xe vào kéo thế cho ngựa, Công chúa thì
ở sau xe đẩy tới. Ði thêm được
một khúc đường, lại gặp một người
Bà La Môn, đón xin cái xe. Ðông cung liền nhận lời.
Ði một khúc xa hơn nữa, lại gặp người
Bà La Môn xin bố thí. Thái tử nói: “Tôi không muốn
từ chối, song của cải tôi đã hết”. Người
Bà La Môn đáp: “Nếu Ngài không còn của cải gì khác,
nhờ Ngài cho tôi y phục của Ngài đang mặc trong
mình”. Ðông cung lấy quần áo tốt của mình cho,
rồi mặc đồ cũ. Ði một đổi xa
nữa, lại gặp một người Bà La Môn đến
thọ thí, Ngài cho quần áo của hai con. Ðông cung đã
bố thí cả xe, ngựa, của cải và áo quần mà
không buồn không tiếc một chút nào. Bấy giờ
Ðông cung thì cõng con trai, Công chúa thì bồng con gái, đi
bộ lên đường. Cả thảy vợ chồng
con cái đều hân hoan, nhắm non thẳng dặm.
Núi Ðàn
Ðặc xa lắm, cách châu thành hơn 6.000 dặm. Muốn
đi đến nơi, phải trải qua không biết bao
nhiêu hầm hố bùn lầy, phải nhịn đói
chịu khát nữa.
Cứ ngày
đi đêm nghỉ, xuân qua thu lại, hè mãn đông sang,
tội nhân đã đến núi Ðàn Ðặc. Hoàng tử
ngắm xem phong cảnh thấy núi cao chơm chởm oai
nghi, cây cỏ sầm uất thạnh mậu. Các thứ
chim ca hót với giọng véo von, hồ trong hoa nở nước
ngon trái ngọt với vô số ngỗng, hạc, vịt,
chài cùng các loài chim ăn dưới nước.
Hoàng
tử nói với vợ: “Ở đây cây mọc
thẳng bằng, cao sừng sựng tận trời xanh mà
không lay động. Chúng ta sẽ được uống nước
ăn trái ngọt, ở trong hang đá; chúng ta sẽ tu hành
pháp Bát nhã (Phương pháp dùng trí tuệ để quan
sát chiêm nghiệm, tìm tòi sự thật của sự
vật). Ðông cung vô núi, cả thảy thượng
cầm hạ thú đều vui mừng đến nghinh
tiếp Ngài.
Trên chóp
núi có một vị tu hành tên là A Châu Ðà. Ngài được
500 tuổi và đức hạnh dung thông. Ðông cung đến
thi lễ rồi lui ra đứng dậy và nói: “Bạch
Ngài hiện giờ chúng tôi chưa biết phải ở nơi
nào có thức ăn uống?”.
Ông A Châu
Ðà đáp: “Toàn núi này là cảnh thiên thai, Ngài ở
đâu lại không được? Núi này chỗ nào cũng
tinh sạch và thanh tịnh, Ngài muốn hành pháp Bát nhã
lại còn đem vợ con theo làm chi”.
Hoàng
tử chưa kịp trả lời, bà Mạn Trà chận
hỏi: “Ngài tu được bao lâu?”
- Tôi
ở núi này được đâu 400 hay là 500 năm.
- Một
người như tôi ước tu bao nhiêu năm mới
đắc huệ? Giả tỷ tôi ở núi này lâu hơn
cổ thọ cũng khó tính cho ra đến chừng nào
đạt được đạo Bồ đề.
Ông tiên
đáp: “Kỳ thật mấy câu chuyện ấy, tôi cũng
không biết được”.
Ðông cung
hỏi: “Ngài có nghe nói đến tên Thái tử Tu Ðại
Noa, con của vua nước Diệp Ba chăng?”.
Vị tu
sĩ đáp: “Tôi thường nghe nói đến tên, song
không biết mặt”.
Thái
tử nói: “Ðông cung ấy là tôi đây”.
Vị tu
sĩ hỏi: “Ngài muốn tu pháp môn nào?”.
Thái
tử đáp: “Tôi muốn tu theo Ðại thừa”.
Vị tu
sĩ nói: “Ðối với công đức của Ngài, tôi
tưởng chẳng bao lâu Ngài đạt được
mục đích viên mãn: Chừng Ngài đắc đạo
vô thượng, hoàn toàn sang suốt, tôi sẽ là đệ
tử thứ nhất của Ngài có phép siêu phàm nhập
thánh”. Rồi ông chỉ cho Thái tử một chổ
ở. Thái tử bắt chước ông tròng cương vào
đầu và vấn tóc, lượm nhánh và lá cây cất
bốn lều tranh cho mình, vợ và con.
Con trai tên
là Ða Ly 7 tuổi, mặc quần áo bằng cỏ rơm
theo cha, con gái tên là Kê Na Diên mặc quần áo
bằng da nai theo mẹ.
Trên núi
chim chóc và cầm thú vui cười tỏ lòng tín ngưỡng
và sùng bái Hoàng tử. Khi Thái tử đi tới đâu
thì ở đó hang hóc nội mạch nước, cây khô
lại đơm bông trổ lá, loài sâu bọ và ác thú
thảy đều trốn mất: loài thú ăn thịt
trở lại ăn cỏ, cây sai trái, chim đồng tình
kêu hót. Bà Mạn Trà lo hái trái cho Hoàng tử và con ăn.
Còn hai trẻ khi thì đi chơi với cầm thú nơi
mé rạch, khi lại ở đó suốt đêm. Lần
kia đuổi thú chơi, con trai Ða Ly cởi sư tử,
sư tử nhảy, Ða Ly té xuống đất trầy
mặt chảy máu. Một con khỉ thấy, leo lấy lá
cây chùi máu, rồi dắt lại bờ ao rửa. Hoàng
tử thấy tấn tuồng ấy, thầm nói: “Loài
cầm thú cũng có lòng thương nhân loại như
vậy”.
Trong
thời kỳ ấy, tại xứ Câu Lưu có
một người Bà La Môn nghèo khổ, bốn mươi
tuổi, không con, có vợ, Vợ chàng thì yểu điệu,
đẹp đẽ, phương phi; còn chàng thì xấu
xa, mình mẫy đen điu, diện mạo quá dị tướng,
chẳng khác chi yêu ma quỷ mị. Vợ chàng gớm ghét
mong sao chàng chết phứt cho rồi. Ngày kia cô ta đi múc
nước gặp một đám trai tráng nhạo báng
chồng nàng và nói: “Bà thì ví tợ thiên kim, cớ sao
lại làm vợ một người như thế?”.
Cô ta
trả lời: “Cái đầu già nua ấy bạc
trắng như sương, sớm tối tôi hằng trù
rủa cho nó chết, chẳng biết sao nó không nhúc nhích”.
Ðáp rồi tự than thân trách phận, về nhà khóc lóc
với chồng. “Thiếp đi múc nước gặp
một lũ trai tơ xúm nhau diễu cợt. Vậy chàng
phải kiếm cho thiếp một con đòi, chừng nào
có đứa ở thiếp khỏi đi xách nước,
bọn ấy mới hết chọc ghẹo thiếp”.
Người
chồng trả lời: “Tôi nghèo xác da xác chiếu, nàng
lại muốn tôi mọi ở đâu?”
Vợ
đáp: “Nếu không có, tôi tình nguyện bỏ nhà ra
đi.” Nàng lại tiếp lời: “Tôi có nghe Hoàng
tử Tu Ðại Noa, vì bố thí thái quá nên bị vua cha
đày tại núi Bàn Ðặc. Ngài có một trai, một gái,
chàng nên thân hành đến đó xin hai trẻ”.
Chồng
bác lời rằng: “Núi Bàn Ðặc xa hơn 6.000 dặm,
khó đi đến nơi huống nữa là xin Thái
tử một việc mà Ngài không thể cho!”.
Vợ lên
tiếng: “Nếu chàng còn dụ dự, tôi sẽ mượn
con dao tự tử ngay”.
Chồng
xuống giọng: “Thôi đừng vội giận, nàng
coi sắp cho tôi ít đồ hành lý gì?”.
Vợ nói:
“Ði thì đi đi, nhà ta thiếu trước hụt sau,
còn đòi đồ hành lý gì?”.
Người
Bà La Môn cụ chuẩn bị ít món ăn rồi lên
đường, Ðến xứ Diệp Ba đi ngay lại
cửa thành, chàng ta mới hỏi người giữ
cửa: “Xin ông thi ân cho tôi biết Hoàng tử Ðông cung
Tu Ðại Noa ở đâu hiện giờ?”.
Người
giữ cửa không dám trả lời vào báo Hoàng thượng
hay. Vua nghe tức giận và phán rằng: “Cũng vì lũ
này mà ta đày Thái tử, sao chúng nó còn đến đây
làm chi?”
Người
Bà La Môn được đòi vào quỳ tâu: “Muôn tâu Thánh
hoàng tôi ở xứ xa lại, vì cái thanh danh của Hoàng
tử Ðông cung đâu đâu đều biết, trên
thấu cửu thiên, dưới tận cửu tuyền,
Ðông cung có lòng bác ái không hề để một ai
thất vọng. Bởi vậy nên ở xa, tôi cũng
lặn lội đến đây chú ý thành tâm yêu cầu
một việc cùng Hoàng tử”.
Vua nói:
“Ðông cung ở chốn quạnh hiu, trong thâm sơn và quá
nghèo khổ, người còn có vật chi nữa mà bố
thí”.
Người
Bà La Môn tâu: “Muôn tâu Hoàng thượng, tuy biết Ðông
cung khiếm khuyết mọi vật, song tôi cũng chỉ
nguyện đến tận nơi ra mắt Ngài”.
Vua dạy người
chỉ đường.
Người
Bà La Môn nhắm núi Bàn Ðặc thẳng dặm băng ngàn.
Chàng vào núi gặp người thợ săn liền đón
hỏi: “Xin ông thi ân cho tôi biết Hoàng tử Tu Ðại
Noa có ở trên núi này không?”.
Thợ săn
tuy biết Ðông cung bị đày ở đây cũng vì
bố thí cho dòng Bà La Môn, song không chỉ chỗ lại còn
bắt chàng trói vào gốc cây đánh một trận
nhừ tử, mắng nhiếc quá lời và nói: “Ta
muốn cho ngươi vài mũi tên và ăn thịt ngươi,
ngươi còn thiếu vật chi mà đến đây
hỏi thăm Thái tử”.
Người
Bà La Môn nghĩ: “Ta sẽ bị tay người này
giết, vậy ta phải thiết kế đánh lừa người
mới mong toàn tánh mạng”. Nghĩ rồi liền nói:
“Theo lẽ phải Ngài phải hỏi tôi nguyên nhân trước
khi hành phạt tôi cho đáng”.
Thợ săn
đáp: “Ngươi muốn nói việc chi?”.
Người
Bà La Môn nói: “Thưa Ngài đức Thánh hoàng hồi tâm
thương nhớ Thái tử Ðông cung, dạy tôi đi tìm
Hoàng tử đặng thỉnh về nước”.
Nghe
vậy, thợ săn hối hận liền mở trói
thả ra, nhận lỗi và nói: “Tôi thật vô lễ,
xin ông miễn chấp, cũng bởi không hay không biết
có chỉ Thánh hoàng nên mới lỗi lầm như hôm
nay”. Nói rồi chỉ chỗ ở của Ðông cung.
Người
Bà La Môn đi thẳng đến lều trang của Ðông
cung, Hoàng tử thấy đặng vui mừng, ra tiếp rước,
thi lễ và hỏi thăm: “Ông ở đâu lại? Có
lẽ ông đi đường mệt nhọc thì
phải? Ông đến tôi có việc chi chăng?”.
Người
Bà La Môn thưa: “Tôi ở xa lắm, thân tôi khốn
đốn không cùng, đương giờ tôi đói khát
nữa”.
Hoàng
tử lật đật thỉnh vào cốc mời
ngồi, đem trà nước và trái cây dâng người
Bà La Môn nói: “Thưa Ðông cung Thái tử, tôi gốc
ở nước Câu Lưu, đã lâu tôi nghe lòng từ
thiện của Ngài, thập phương thế giới
đều mến danh thơm và đức hạnh của
Ngài. Tôi quá nghèo khổ nhưng Ngài thương tưởng
tôi, cho tôi một vài vật”.
Thái
tử đáp: “Kính ông chẳng có việc gì tôi từ
chối nhưng rủi cho ông, hiện giờ tôi không còn
món gì”.
Người
Bà La Môn nói: “Thưa Ðông cung, nếu Ngài không có gì, xin
Ngài cho tôi hai trẻ con của Ngài để phụng dưỡng
tôi lúc tuổi về già”.
Hoàng
tử đáp: “Ông ở xa lại chú tâm xin hai con tôi, tôi
không lẽ từ chối”.
Lúc đó
hai trẻ đi chơi, Thái tử kêu lại, và nói: “Có
một người Bà La Môn ở xa đến xin hai con,
cha đã hứa lời ưng chịu, hai con hãy đi
với người”.
Hai
trẻ chạy đến một bên cha khóc rằng: “Chúng
con đã từng biết nhiều người Bà La Môn,
song chúng con không hề thấy người nào dị tướng
như thế. Chắc người này không phải trong
họ của Bà La Môn đâu, người ấy là
quỷ yêu! Nay mẹ con đi hái trái chưa về, cha
lại bắt con cho yêu tinh ăn thịt chúng con phải
chết mất. Ðến chừng mẹ con về kêu con
chẳng thấy, thì chẳng khác gì bò mẹ kiếm con,
người sẽ bi lụy, than van, đau khổ”.
Thái
tử nói: “Hai con chớ quá bịn rịn, cha đã
hứa lời không thể thất tín. Người Bà La Môn
này không phải là tà ma quỷ mị chi, không ăn
thịt con đâu mà ngại gì, hai con hãy đi đi”.
Hoàng
tử lấy nước rửa tay cho người Bà La Môn,
rồi kéo tay hai con cho người Bà La Môn dắt đi.
Hai
trẻ không chịu đi, chừng trở lại trước
mặt cha quỳ xuống và nói: “Thưa cha chẳng hay
chúng con phạm tội gì trong kiếp trước mà ngày
nay chúng con phải chịu lắm điều thống
khổ. Chúng con là dòng vua, nay phải làm tôi tớ cho
kẻ phàm phu. Trước mặt cha, chúng con xin sám
hối các tội lỗi, có lẽ nhờ đó sự
phiền não và nghiệp chướng của chúng con
sẽ được tiêu trừ và hạnh phúc lại
đặng phát khởi, mong sao đời này sang đời
khác chúng con không còn gặp phải bước gian truân như
thế nữa”.
Ðông cung
nói với hai con: “Cả thảy ái tình đều là
ảo mộng, một ngày kia phải hủy hoại
vạn vật đều vô thường, mấy ai giữ
trọn vẹn một vật chi nơi trần thế. Hai
con hãy đi, chẳng nên dùng dằng, chừng nào cha đắc
đạo Bồ Ðề, cha sẽ độ hai con”.
Hai
trẻ, đôi mắt đỏ ngầu nói với cha:
“Xin cha trao lời vĩnh biệt của hai con lại cho
mẹ con, chúng con quá đau lòng vì nghĩa mẹ con xa cách
đời đời, lại không giáp mặt tỏ phân
một lời trong khi mẹ bắc con nam. Chẳng còn nghi
vì nữa, cũng bởi tiền căn nghiệp báo
của chúng con, nên nay chúng con phải chịu như
vậy. Chúng con nghĩ đến khi mẹ chúng con về
thấy mất hai con, người sẽ khổ tâm, đau
đớn sầu não chẳng cùng, lo cho thân chúng con
phải chịu đói rách phiêu lưu nơi đất khách.”
Người
Bà La Môn nói: “Tôi già yếu, hai trẻ chạy bỏ tôi
theo mẹ chúng nó, tôi lụm cụm theo bắt chúng nó sao
được. Xin Ðông cung trói nó giùm tôi.”
Thái
tử liền trói hai con giao cho người Bà La Môn
dắt đi, nhưng hai đứa nhỏ cưỡng
lại chẳng chịu, người Bà La Môn mới đánh
chảy máu. Ðau đớn thay cho Ðông cung, thấy tình
cảnh như vậy động lòng sa nước
mắt. Cả trái đất đều rung động, Hoàng
tử và cầm thú theo sau đưa đón hai trẻ,
tới chừng biệt dạng mới trở về. Các
loài lục súc trở lại chỗ cũ hai trẻ thường
chơi thấy cảnh chẳng thấy người, xúc
động rên than thảm thiết, lăn lộn dưới
đất.
Người
Bà La Môn dẫn hai đứa nhỏ đi được
xa xa, dọc đường đứa trai vấn dây trói
vào cây không chịu đi, chú ý chờ mẹ chúng nó
đến cứu. Người Bà La Môn nổi giận,
lấy cây đánh nhừ tử, đến chừng chúng
nó xin thôi đánh, chịu đi, mới nới tay.
Hai đứa
nhỏ ngước mắt lên trời vái rằng:
Thần
linh ôi! Hởi thần linh ôi!
Hoan
hỷ mách giùm mẹ chúng tôi.
Xét
dạ con đi sầu chất chứa.
Ðau
lòng mẹ ở lụy quên thôi.
Chạnh
tình nuôi dưỡng chưa thù đáp.
Ðoái
nghĩa cưu mang chẳng đắp bồi.
Ở
biết bao giờ cho rảnh nghiệp?
Cuộc
đời thiết tưởng bạc hơn vôi.
Cũng
ngay lúc đó, Công chúa ở trên núi, nháy mắt khó
chịu, bà lấy làm lạ và nghĩ: “Thuở giờ tôi
chẳng hề có cảm động thái quá như hôm nay,
chắc hai trẻ mắc phải tai nạn rồi.” Bà
liền bỏ giỏ trái lại đó, hối hả ra
về.
Khi Công
chúa về thấy Ðông cung ngồi một mình không có hai
con, bà vô lều tranh kiếm không có, bà lại trở ra mé
rạch-chỗ chúng nó hay chơi giỡn cũng không
thấy. Bà chỉ thấy mang, sư tử, khỉ,
mấy thứ thường chơi với nó mà thôi. Bà
Mạn Trà trở lại chỗ Thái tử ngồi và
hỏi hai con ở đâu? Thái tử không nói.
Bà
lại hỏi nữa: “Khi hai con ở xa thấy tôi đem
trái về chúng nó chạy nhào lăn dưới đất,
rồi lồm cồm ngồi dậy nhảy nhót: Mẹ
về; khi chúng nó thấy tôi ngồi ở đâu thì
đến ngồi kế một bên, thấy bụi
bặm dính mình tôi liền phủi. Bây giờ tôi không
thấy con tôi và chúng nó không lại gần tôi, nó ở
đâu? Ai bắt nó? Không thấy con tôi, lòng tôi đứt
từng đoạn! Chỉ cho tôi biết con tôi đi
đâu và đừng làm cho tôi phải cuồng tâm”.
Bà nói
đi nói lại ba lần, Hoàng tử vẫn điềm
nhiên không thốt một lời. Bà lại càng đau
đớn hơn nữa. Bà nói chua cay như vầy:
“Mất con tôi còn chịu được song sự
lặng thinh của lang quân làm cho tôi thêm rối
loạn”.
Ðông cung
nói: “Có người Bà La Môn ở xứ Câu Lưu đến
xin hai con và tôi đã cho rồi”.
Công chúa
thoạt nghe quá cảm động, vụt té xuống
đất, bà đau đớn không cùng.
Ðông cung
nói: “Công chúa hãy nguôi lòng. Phu nhân hãy nhớ lại
việc xưa, hồi thuở Phật Ðề Hòa Kiệt
La ra đời. Lúc đó tôi là một người Bà La Môn,
tên là Ba Sô Vệ, còn Công tước phu nhân là con gái Bà
La Môn tên là Tu La Ðà, Công chúa cầm bảy liên hoa, còn tôi
thì nắm trong tay 100 bạc. Tôi mua năm bông sen của Công
chúa đặng cúng dường Phật, còn Vương
phi thì đem thêm hai bông khác cho tôi dâng cúng Phật. Phu nhân
lại lập nguyện như vậy: “Tôi nguyện
cầu sao trong những kiếp vị lai tôi cứ
được làm vợ chàng, dầu lịch sự,
dầu xấu xa tôi không hề xa chàng”.
Tôi có nói
với Công chúa rằng: “Nếu nàng muốn làm vợ tôi
thì phải tuân theo chánh ý tôi, tôi sẽ đem hết tâm
lực hành pháp bố thí, không hề thối chuyển cùng
trái ý một ai. Trừ cha mẹ tôi, ai xin vật chi tôi
đều hoan hỷ. Công chúa ưng chịu bằng lòng.
Nay tôi cho hai con, Vương phi lại làm rối loạn
đến mối từ tâm của tôi”.
Nghe Ðông
cung nói, bà liền tỉnh ngộ; bà nhớ lại trong
kiếp quá khứ kia, bà có hứa hẹn và nhận các
việc bố thí của Thái tử.
Ðế Thích thấy Thái
tử hành pháp bố thí Ba La Mật Ða, cố ý thử lòng
Thái tử. Ngài hóa thân làm người Bà La Môn xấu xa
và cũng dị tướng như người trước,
đến trước mặt Thái tử và thốt
rằng. “Ðông cung ơi! Tôi hằng nghe Ðông cung rất
hoan hỷ làm các việc phước thiện và không
hề từ chối việc chi. Vậy tôi đến
đây xin bà Vương nữ, vợ của Ðông cung”.
Hoàng
tử đáp: “Công chúa là người của Ngài”.
Công chúa
nói: “Nếu Thái tử cho tôi rồi, lấy ai mà giúp
đỡ Thái tử”.
Ðông cung
nói: “Nếu tôi không cho Công chúa thì tôi không đạt
được đạo vô thượng Ba La Mật”.
Thái tử múc nước
rửa tay cho người Bà La Môn và dắt vợ cho người.
Ðế
Thích đã nhận được lòng Thái tử không còn
tiếc việc chi. Các thiên thần lại ca tụng lòng
từ bi bác ái của Ðông cung, tức thì trời đất
tối tăm, thế giới đều rung động.
Người
Bà La Môn dắt Công chúa ra đi, được bảy bước,
trở lại trả Công chúa cho Thái tử.
Thái
tử hỏi: “Sao Ngài không giữ Công chúa cho Ngài? Công
chúa nết na tánh hạnh xấu chăng? Trong cả Hoàng
nữ, Công chúa là cực phẩm phu nhân, nàng là Công chúa
của một nhà vua kim thời. Cũng vì tôi mà nàng
phải nhảy vào vạc dầu sôi, trong đống
lửa đỏ, phải chịu ăn uống kham khổ
không hề than thở vì đau khổ phong trần; trong
mỗi sự hành động, nàng rất ân cần chú ý
và gương mặt vẫn thư thái tươi cười.
Ngài nên đem nàng đi, tôi mới được an
vui”.
Người
Bà La Môn nói với Ðông cung: “Ta không phải là Bà La Môn,
ta là Thiên Ðế Thích. Ta đến thử lòng Ngài. Nhưng
bổn nguyện của Ngài là chi?” Nói xong Ðế Thích hoàn
nguyên hình diện mạo oai nghi dung nhan tuyệt mỹ.
Công chúa
đảnh lễ Ðế Thích và cầu xin ba điều:
“Trước nhất xin Ngài làm sao cho người Bà La Môn
đem lại hai con tôi về bán tại bổn xứ, cho
chúng tôi được về nước cho chóng”.
Ðế
Thích đáp: “Bà sẽ như nguyện”.
Ðông cung
nói: “Kính ngài, tôi nguyện sao cho cả thảy chúng sanh
đều được giải thoát và hết khổ
về sự sanh, già, bệnh, chết.”
Ðế
Thích: “Lời nguyện của Ngài thật vĩ đại
cao thượng không chi hơn. Nếu muốn sanh cõi
trời, làm vua Thượng thiên, làm đại Hoàng đế
tại cõi trần, trường thọ như bá, như tùng,
thì tôi có thể làm được như ý; chớ cái
oai linh tối yếu trong ba giới ta ngoài bản năng tôi.”
Ðông cung
tiếp: “Tôi tạm xin cho được giàu có muôn xe
đặng bố thí hơn xưa. Tôi mong sao cho Hoàng
phụ cùng các quan đại thần hoài tâm sum hiệp cùng
tôi”.
Ðế
Thích đáp: “Bản nguyện của Ngài sẽ
được thành tựu.” Dứt lời Ðế Thích
biến mất.
Ðồng
thời khi ấy người Bà La Môn dẫn mấy đứa
nhỏ về tới nhà. Vợ chàng ra đón và nhiếc
rằng: “Thật chàng quả lớn mật to gan mới
đem mấy trẻ này về đây. Nó là dòng dõi vua chúa,
sao chàng lại tàn nhẫn đánh đập đến
nỗi vết tích máu mủ đầy mình. Hãy tức
khắc đem bán đi và kiếm đứa khác cho tôi”.
Chồng nghe lời vợ đem bán trẻ con.
Ðế
Thích thể theo lời nguyền của Công chúa liền
đổi ý cho người Bà La Môn đưa qua nước
Diệp Ba.
Ðến
xứ ấy, các quan và dân nhìn biết con của Ðông cung
cháu nội của đức Kim Thượng, lớn
nhỏ đều động lòng thương xót liền
vào tâu vua.
Vua nghe nói
lấy làm ngạc nhiên, cho đòi vào. Xa xa vừa chợt
thấy Hoàng tôn, Thiên tử, Hoàng hậu, quần thần
và cung phi đều khóc nức nở. Vua hỏi người
Ba La Môn làm sao mà có mấy đứa trẻ này? Nó tâu:
“Tôi xin Ðông cung Thái tử”.
Vua kêu cháu
đến và muốn ôm, nhưng nó khóc không chịu
lại gần. Vua hỏi giá cả. Người Bà La Môn
chưa kịp trả lời, Hoàng tôn mạn tâu: “Trai
định giá một ngàn bạc với một trăm bò
cái, gái định giá hai ngàn bạc với hai trăm bò
cái”.
Vua nói
rằng: “Lẽ thường thì người ta yêu
chuộng con trai hơn con gái, sao trai lại rẻ giá hơn
gái?”
Hoàng tôn
nói: “Tâu Bệ hạ những cung phi mỹ nữ của
Bệ hạ không phải là quyến thuộc của Ngài,
người thì hèn hạ kẻ lại hoa đời; nhưng
ai được Hoàng thượng yêu vì thì được
tăng phẩm tước, trang điểm mỹ lệ,
ăn uống sung sướng! Ngài chỉ có một
mụn con trai mà Ngài đày chốn non rừng rậm, còn
Ngài thì sớm tối sung sướng với cung phi,
chẳng chút đoái hoài tới nghĩa cha con. Ðó rõ ràng
biểu thị trai ít có giá trị hơn gái”.
Thoạt
nghe, vua liền tỉnh ngộ, khóc than rằng: “Ta
tội cùng cháu, lẽ nào cháu chẳng chịu lại
gần ta? Ghét ta hay sợ người Bà La Môn?”. Hoàng tôn
vội tâu: “Chúng con đâu dám tự phép ghét Hoàng thượng
và chúng con cũng chẳng sợ gì người Bà La Môn này.
Xưa chúng con là con vua, cháu chúa, nay lại tôi tớ
kẻ phàm phu. Làm sao đứa nô bộc lại dám lòn dưới
tay Hoàng thượng? Bởi vậy nên chúng con không
thể tự tiện làm việc ấy”.
Hoàng tôn
dứt lời, vua thêm sầu muộn. Liền đó Thánh
hoàng trả theo giá định của người Bà La Môn,
rồi kêu hai cháu hai trẻ chạy vào lòng Ngài. Vua ôm cháu
vuốt ve và hỏi: “Cha con ăn mặc những gì trên
núi?”.
Hai cháu nói:
“Cha con ăn toàn lê hoắc (tên trái cây) mễ cốc,
mặc áo vải quần nâu, có trăm thứ chim làm cho
cha con được giải khuây và không chút chi
phiền.”
Vua cho người
Bà La Môn về.
Hoàng tôn
tâu: “Người Bà La Môn đói khát, xin Thánh hoàng cho
một bửa cơm”.
Vua nói:
“Vậy chớ cháu không giận nó sao, lại còn cho nó
ăn uống nữa?”.
Hoàng tôn
tâu: “Cha con ham tu phước huệ, đến nỗi không
còn vật chi bố thí nên đem hai con cho người, người
là chủ của hai con, chúng con rất tiếc chưa làm
nô lệ cho người, hòng khỏi phụ lòng bác ái
của cha con. Chúng con sao đành để người
đói khát. Cha chúng con còn cho chúng con được thay,
huống chi bố thí một bửa cơm có lẽ nào Hoàng
thượng từ chối?”.
Vua
lại sai sứ giả đi triệu Ðông cung về. Ðược
lệnh, sứ thần đi tìm Hoàng tử; tới núi
Ðàn Ðặc liền tuyên đọc Thánh chỉ và xin Ðông
cung lập tức về cung.
Ðông cung
đáp: “Hoàng thượng đã đày ta ở núi này
12 năm và còn một năm nữa mới mãn hạn,
chừng nào khâm kỳ viên mãn ta sẽ về chẳng
muộn”.
Sứ
giả về tâu lại cho vua nghe, rồi Thánh hoàng tự
tay hạ bút đề thơ cho Thái tử như vầy:
“Con thật đáng vị hiền nhân, nên lấy dạ
khoan hồng quên chuyện đã qua. Con giận dữ có ích
lợi gì, không trở về Tổ quốc. Cha đợi
con về đặng đoàn viên cộng hưởng
sự an vui”.
Khâm
sứ mang bức thơ đem đưa cho Ðông cung.
Tiếp
chiếu, Hoàng tử liền quỳ lại trước
mật chiếu, đoạn lui lại, đi vòng mật
chiếu bảy vòng rồi mới khai thơ ra đọc.
Hay tin Hoàng
tử sắp hồi trào, các loài cầm thú nhảy nhót
cảm động, kêu gào tha thiết, suối khe bỗng
cạn, thú cái dứt sữa, chim chóc hót tiếng như
than như sầu.
Hy
hữu thay loài cầm thú cũng biết đau thương
trong khi vĩnh biệt!
Ðông cung
và Công chúa đổi y phục lên đường.
Nghe tin
Ðông cung về nước, vua địch dạy thám
tử bắt bành vàng cho bạch tượng, lại đem
theo một ô vàng đựng bạc, một ô bạc đựng
vàng đón đường Thái tử xin trả lại và
tỏ dấu ăn năn hối ngộ cùng Hoàng tử như
vầy: “Trước kia bởi mê muội tôi cố ý xin
Ngài voi báu, vì tôi nên Ngài phải bị đày ở thâm
sơn rừng rậm. Nay nghe tin về nước, tôi
rất vui mừng cho khâm sứ đưa bạch tượng
trả lại cho Ngài cùng dâng chút lễ bạc vàng,
rất trông mong được Ngài hạ cố thứ
lỗi cho tôi.”
Ðông cung
nói: “Giá như một người kia sắm sửa các
thức ăn đủ mùi vị và dâng cho ai dùng, người
ấy ăn vô rồi nhả ra, thức ăn đó còn hương
vị thanh khiết chăng? Các việc bố thí của tôi
chẳng khác chi đồ ăn kia, thế thì tôi không
thể bắt voi lại. Các quan hãy lên tượng mà
về và nói tôi có lời cảm tạ nhà vua.”
Thám
tử lên voi về tâu lại nhà vua. Cũng nhờ câu
chuyện con voi mà vua địch được tỉnh
ngộ, trở nên người hiền, thành bậc trượng
phu. Vua quan và dân lại tín ngưỡng đạo Bồ
đề và bắt đầu hành pháp vô thượng Ba
La Mật Ða.
Hoàng thượng,
cha Ðông cung ngồi đón con. Hoàng tử chợt thấy,
vội trổi bước đảnh lễ sát đất
rồi theo sau vua cha. Cả thảy văn quan, võ tướng
và lê dân rất hoan hỷ đồng rải bông, đốt
hương trầm treo cờ lọng, rưới nước
thơm dưới đất, làm lễ tiếp rước
Ðông cung một cách long trọng linh đình.
Ðông cung
đã về tới thành, liền vào lạy và vấn an
Hoàng hậu.
Hoàng thượng
giao cho Ðông cung hết thảy kho tàng trong nước. Thái
tử đem ra bố thí cho thập phương và còn nhân
đức hơn xưa. Sự bố thí của Ngài viên mãn
nên sau này Ngài sẽ chứng quả Niết bàn (Cảnh
giới hoàn toàn an vui, sung sướng, không còn phiền não,
đau khổ.)
Ðức
Phật nói với ông A Nan: “Ðó là cách ta hành pháp bố
thí trong một tiền kiếp của ta. Ðông cung Tu Ðại
Noa tức là ta đó vậy.
Thuật
giả: Minh Châu
Lê Hoàng Ân chuyển
Lê Hoàng Ân chuyển
No comments:
Post a Comment