Kính tặng Sgt. Lê Ngọc Bình & gia đình
Khi tôi đặt bàn chân đầu tiên chạm xuống đất Mỹ, tôi đã để ý rất kỹ, cái cảm giác đầu tiên bao giờ cũng vậy, nó gây một ấn tượng sâu sắc lâu dài trong ký ức. Vậy mà trong giây phút đó tôi chỉ ngẩn ngơ một chút, một chút thôi rồi bị đẩy theo dòng người… Cái cảm giác bàng hoàng, sâu sắc nhất phải kể là lúc máy bay cất cánh rời Việt Nam. Khi chiếc máy bay United Airline nhấc mình rời phi đạo, tôi ý thức được mình không còn đặt chân trên mảnh đất quê hương nữa. Tôi lơ lửng, bay cao và bay cao mãi. Đột nhiên tôi có cảm giác xác thân không còn tồn tại, tôi giống như một thứ linh hồn đang lơ lửng rời bỏ trần gian.
Mẹ
tôi nói, đặt chân lên đất Mỹ tức là đặt chân lên tới thiên đàng. Cha
nói, hãy bám trụ, đừng trở về cái địa ngục này. Tôi hiểu, cha mẹ đang
cắt ruột đấy, và tôi cũng đang quặn lòng phải rời bỏ gia đình để đi du
học.
“Phải bám trụ.” Ba cái chữ này ám
ảnh và mọc rễ trong tâm trí tôi. Nhưng mà làm thế nào để bám trụ? Để
được ở lại nước Mỹ, vào quốc tịch, và sau này kéo hết gia đình sang, đó
là mục tiêu tối thượng, và cũng là niềm mơ ước của cả gia đình, điều đó
thật không dễ. Con đường tắt là kết hôn với người có quốc tịch. Ở ký túc
xá, trong lớp, đi shopping, đi làm thêm, hay bất cứ lảo rảo nơi đâu tôi
cũng dán mắt vào những đứa con gái. Tôi đoán và xác định mục tiêu, con
nhỏ này còn Việt Nam quá, chắc chỉ có thẻ xanh, con nhỏ kia có vẻ Mỹ hóa
chắc chắn là có quốc tịch rồi hay nó đẻ ở đây.
Tôi bất kể tuổi tác,
nhan sắc, trong đầu vẽ ra một cuộc tình chớp nhoáng, mà cái nào cũng kết
thúc bằng một buổi lễ tuyên thệ tại sở Di Trú. Nhưng mà thực tế, chưa
có lần nào tôi mở miệng làm quen, tôi vẫn đứng đó với một tâm trạng xuôi
xị, hèn hèn. Tệ hơn nữa, trước mặt họ, tôi có cảm giác mình là người
làm bằng thủy tinh trong suốt, họ nhìn thấy tâm địa bất chánh, những ý
đồ đen tối rõ mồn một như một vết mực đen vấy bẩn khắp người. Những
thằng du học sinh khác bảo, hãy coi chừng, léng phéng với họ có ngày ăn
dao, ăn đạn đấy. Chúng nó bày, muốn ở lại, chỉ có nước kết hôn giả. Kết
hôn giả ngốn rất nhiều tiền. Cha mẹ tôi đã phải cầm cố nhà cửa, tài sản
duy nhất để lo chuyện du học rồi, đánh chết tôi cũng không dám nghĩ tới
tạo một gánh nặng nữa cho gia đình. Một thằng bạn khác bảo, đăng lính
đi, phục vụ trong quân ngũ một thời gian vừa được quy chế vào quốc tịch,
vừa được học bổng học đại học, nhất cử lưỡng tiện. Chiến tranh Iraq mới
bắt đầu, nhu cầu cần lính đang cao. Và tôi, quyết định ngay, mở một con
đường máu, vào quân đội để thoát hiểm.
Quyết
định vào lính làm mọi người kinh ngạc. Bạn tôi nói, “Đi lính bây giờ là
nhảy vô địa ngục.” Tôi cười cười, vò vò cái đầu gần như trọc lóc.
Không, tôi chỉ muốn làm một cú “vượt vũ môn” thôi. Tương truyền ngày xưa
có một loài cá chép, cứ ba năm thì được vượt vũ môn để hóa thành rồng.
Từ dân Việt để trở thành công dân Mỹ cũng giống như đi đầu thai kiếp
khác, tôi cần phải “vượt vũ môn” như một con cá chép thật.
Tôi
không kể cho ai nghe về thời huấn nhục ở quân trường. Làm thế nào để từ
một người dân trở thành một người lính? Nó đã tóm gọn trong hai chữ
huấn nhục. Người ta huấn luyện người lính đứng vững trong mọi tình thế,
kể cả khi địch bắt, bị tra khảo và chịu nhục hình.
Tôi
gửi cho gia đình một tấm hình lễ mãn khóa. Tôi trong bộ quân phục bộ
binh, vác súng, qua nhiều tư thế. Mẹ tôi khóc. Mẹ đã vất vả nuôi ba tôi
trong tù nhiều năm. Còn cha, tuy là lính trơn nhưng lúc xe tăng T.54
tiến vào Dinh Độc Lập, cha cùng đồng đội còn đang lập chốt làm tuyến
phòng thủ ở phía Tây Sài Gòn. Cha bị bắt ngay mặt trận vào giờ thứ 25
nên tù lâu là chuyện thường. Trong thư cha viết, “Cha tôn trọng quyết
định của con. Phải nhớ rằng, một ngày làm lính, cả đời là lính. Người
lính không sử dụng quân đội như một phương tiện… Khi con có mục tiêu thì
phải chiếm cho bằng được.” Kể từ đó, cha không viết về những chuyện đã
rồi, thư cha toàn là những trang liệt kê về những ưu điểm của đủ thứ vũ
khí các loại, và cách đối phó những tình thế nguy hiểm. Không nói ra,
nhưng tôi hiểu cha muốn truyền hết nội lực, tâm huyết cho tôi, không giữ
lại một chút gì.Tôi nghĩ, những vũ khí xưa ở chiến trường Việt Nam hiện
nằm trong viện bảo tàng. Chiến trường Iraq ở sa mạc, trong lòng núi,
ngoài thành phố, chợ búa, và bên vệ đường. Nguy hiểm nhất là những “road
bomb”. Nó chỉ là những chất nổ tự tạo, rất đơn sơ, nằm lẫn trong gạch
đá, rác rến phế thải ở ven đường. Ở một nơi mà kẻ thù không những chỉ là
con người, mà còn là gạch đá, rác rến, cỏ cây thì đó là nơi tối nguy
hiểm. Nhưng tôi không nói với cha điều này.
Ra
trường một năm đơn vị tôi mới tới phiên qua Iraq. Trước đó, chúng tôi
đã được thao tập nhuần nhuyễn về chiến trường mới, thực tập trên các địa
hình sa mạc Black Rock (Nevada), leo lên những mỏm núi chót vót ở những
vùng thạch sơn kỳ vĩ của Arizona. Mùa Đông chúng tôi len lỏi hành quân
trên những rặng núi trắng xóa trên Canada. Hè, chúng tôi xuống Texas,
lang thang lạc lối trên sa mạc miền viễn tây, chịu đựng cái nóng và khát
cả tuần để tự mưu sinh thoát hiểm. Bộ chỉ huy đơn vị nói, phải biết
sinh tồn trong “tủ lạnh” và trên “lò nướng” để khi qua Iraq làm tụi Al-
Qaeda “lé” mắt.
Chiến tranh Iraq bắt đầu
vào ngày 20 tháng 3 năm 2003 và ngày 1 tháng 5 khi viếng thăm chiến hạm
USS-Abraham Lincoln ông Bush tuyên bố chiến tranh chấm dứt. Chính quyền
độc tài bị lật đổ, chuẩn bị cho một nền dân chủ đang được tiến hành,
mọi đảng phái đều được tham chính thông qua bầu cử. Ngày 13 tháng 12
cùng năm đó, Saddam Hussein bị bắt, hy vọng phục quốc tiêu tan.
Nhưng
mà ở Iraq súng vẫn nổ khắp nơi. Từ thành phố đến thôn quê, rừng núi, sa
mạc, nhà thờ, trường học, chợ búa, đâu đâu cũng có những ổ kháng cự.
Nhỏ thì dăm ba người, lớn lên đến vài trăm. Thoạt trông họ là thường
dân, cầm súng lên họ là giặc. Không phải dân Iraq chỉ chống Mỹ, mà xem
ra họ chống nhau còn tàn tệ hơn. Quân kháng chiến có thể xả súng bắn vào
chợ búa, nhà thờ, trường học, thậm chí đám cưới hay tang lễ.
Khi tôi đặt chân đến Mosul, pháo đài kiên cố nhất của đảng Baath do giáo phái Sunni phe Saddam thì giao tranh vẫn còn ác liệt.
“Sức
mấy mới hết chiến tranh.” Thằng Michael Tea, tiểu đội trưởng mới của
tôi nói. “Mỹ có rút hết quân thì chiến tranh vẫn còn.”
“Tại sao còn?” Tôi ngạc nhiên.
“Mày
tưởng tụi Iraq chỉ có chống Mỹ hả? Tụi nó chống nhau còn dữ hơn chống
Mỹ.” Thấy mắt tôi vẫn tròn xoe, nó nói. “Cùng là dân Iraq, gốc Ả Rập,
cùng Hồi giáo, nhưng phe Sunni chống phe Shi’a, hai phe này lại cùng
chống người Kurd ở miền Bắc, người Kurd lại chống chánh quyền Iraq bất
kể phe nào cầm quyền, người Turkman cũng chống chánh quyền Iraq, chống
Sunni, chống phe Shi’a, chống người Kurd, người Assyrian Christian chống
hết tất cả các phe khác họ.”
“Trời ơi, nhức đầu quá.”
“Tao điên mất.” Mấy thằng trong đơn vị tôi ôm đầu la.
Tôi bình tĩnh hỏi, “Trong các nhóm, nhóm nào đông nhất?”
“Giáo
phái Shi’a đông nhất, chiếm gần 60% dân số. Phái Sunni 20% đứng nhì.
Thứ ba là người Kurd miền Bắc cũng khoảng 20%. Mấy nhóm còn lại chừng
3%.”
“Dễ ợt. Chỉ cần ổn định các phe phái lớn trước thì các phe nhỏ phải chịu phép thôi. Iraq sẽ thái bình”
Michael Tea cười lớn, “Chuyện đó con nít cũng biết. Nhưng mà làm sao để họ ngồi lại với nhau họa chăng chỉ có Trời mới biết.”
“Nhưng tại sao họ chống nhau?” Thằng Ted hỏi.
“Nguyên
nhân bắt nguồn từ Giáo chủ Muhammad. Sinh năm 571, nhưng mãi đến năm
610, bốn mươi mốt tuổi, ngài mới bắt đầu rao giảng kinh Qur’an và thành
lập Hồi giáo. Đến năm 632, ngài bị bệnh và nghĩ tới việc truyền ngôi.
Bấy giờ, trong hàng tín đồ bắt đầu chia ra hai phe. Một phe theo kiểu
cha truyền con nối, Giáo chủ không có con trai nên ủng hộ người con rể
tên Ali Abu Talid nối ngôi. Nhưng phe khác cho rằng, Giáo chủ là người
thừa sai của Chúa, vậy người đại đệ tử Abu Bakr mới đủ đạo hạnh tiếp tục
ngôi vị đó. Cuộc tranh chấp dẫn tới việc Giáo chủ phải ra phán quyết
cuối, nhưng cả hai phe đều không chờ được nên xảy ra bạo loạn và khi ấy
đã có kẻ ra tay giết Giáo chủ. Từ đó đến nay không thấy ai thắc mắc,
điều tra hung thủ đã sát hại Giáo chủ. Người ta bận lo tới việc tranh
ngôi. Cho tới bây giờ kể như bất phân thắng bại.”
“Hơn
cả ngàn năm trôi qua, Ali và Abu cũng không còn, ai lãnh đạo thì cũng
đọc kinh Qur’an thôi, có chi mà tranh chấp.” Tôi nói.
“Đạo
Hồi có một tỷ ba dân số khắp thế giới, giáo quy gắt gao, người lãnh đạo
quyền hạn hơn Tổng Thống, vua chúa một nước. Chính Ali và Abu chắc cũng
không ngờ, nếu biết trước họ đã tận diệt nhau chứ không chịu chia thành
hai phe, di họa tới bây giờ.” Michael Tea nói, “Mày không tranh chấp,
dễ thua thiệt lắm.”
Tôi vào quân đội,
rồi được nhập tịch, tương lai đem cả gia đình sang, nghĩ tới cảnh đoàn
tụ, tôi “lời” quá cỡ, thua thiệt chỗ nào. Tôi tiếp tục thắc mắc.
“Vậy giáo phái Sunni của Saddam thuộc dòng nào?”
“Họ là truyền nhân của đại đệ tử Abu Bakr, là thiểu số. Còn phái Ali con rể Muhammad là phái Shi’a thân Iran chiếm đa số.”
“Trời đất!” Tôi kêu lên, “Làm thế nào mà Saddam lấy thiểu số thắng đa số?”
“Lấy
bàn tay sắt.” Michael Tea trả lời tỉnh bơ. “Chính nghĩa, công lý hay gì
gì nữa cũng bị đè bẹp thôi. Trong 25 năm, Saddam xử tử cả trăm ngàn
người.”
“Ối trời ơi.” Cả tiểu đội kêu lên, thật kinh khủng.
Đêm
đó, tôi trằn trọc nghĩ về Saddam. Iraq là một vùng đất cổ, có hai con
sông Euphrates và Tigris vắt qua. Nơi đây được mệnh danh là cái nôi của
nhân loại, bởi người ta tìm thấy dấu vết con người xưa nhất trái đất ở
đây. Vì sống giữa vùng đất được bồi đắp phù sa của hai con sông nên
người ta gọi nền văn minh này là nền văn minh Lưỡng Hà. Thời đồ đá, đồ
đồng, đồ sắt được dùng làm vũ khí. Các công trình nghệ thuật kiến trúc
như thành Babylon, vườn treo sau này trở thành kỳ quan thế giới cũng
phát xuất từ đây. Văn hóa phát triển rực rỡ như thế nhưng dân cổ đại
Iraq yếu xìu, đánh giặc dở không thể tả. Liên tiếp trải mấy ngàn năm
Iraq luôn bị các chủng tộc khác xâm chiếm và cai trị. Iraq chưa bao giờ
giành được độc lập, tự vẽ biên giới cho mình. Sau thế chiến thứ nhất, đế
chế Ottoman thống trị Trung Đông bị Anh, Pháp, Mỹ đánh bại. Chính người
Anh đã vẽ lại bản đồ cho Iraq. Nhưng Saddam và đảng Baath mới giành độc
lập cho Iraq từ Anh. Như vậy kể ra Saddam là một anh hùng, chưa chắc là
tội nhân. Nghĩ tới đó, không chịu nổi, tôi hỏi Michael. Nó bật cười
lớn.
“Ya, ya. Saddam là anh hùng, nhưng
là anh hùng của 20% dân số thôi.” Nó nạt tôi, “Ngủ đi. Sống ở đây, khóa
miệng lại. Tuyên bố bậy bạ, sáng mai 60% dân số còn lại sẽ giết mày đó.”
Nhưng mà tôi vẫn không tài nào ngủ
được. Nếu Saddam là người Shi’a có thể tình thế sẽ khác. Nếu Saddam
không độc tài, tình thế sẽ khác. Nếu Saddam không xâm chiếm Kuwait,
không mơ làm Thành Cát Tư Hãn thống nhất Ả Rập, tình thế sẽ khác. Và nếu
tôi không mất ngủ, tình thế cũng sẽ khác.
Mới
mờ sáng, đơn vị tôi nhận lệnh tới Haji Ibrahim. Đây là vùng núi cao
nhất Iraq, trên 11 ngàn feet, nằm sát biên giới Iran. Bộ chỉ huy đơn vị
nói, những tổ chức người Sunni đang rút về đây, họ sẽ truy quét người
Kurd ra khỏi vùng núi để chiếm lấy địa bàn. Nếu để họ chiếm được khu vực
này sau rất khó kiểm soát. Đây cũng có thể là con đường vận chuyển vũ
khí lậu từ Iran chuyển cho khủng bố. Nhiệm vụ chúng tôi là bảo vệ người
Kurd, chận đứng con đường tiếp tế vũ khí từ Iran.
Mặt
trời chưa lên, ba phi đội UH-60 Black Hawk bay hàng một luân phiên thả
chúng tôi xuống chân núi. Chân vừa chạm đất, chúng tôi vừa lăn vừa chạy.
Phải biết biến mình thành một mục tiêu luôn luôn di động. Có thể những
tay bắn tỉa của địch đang phục kích đâu đây. Cuộc hành quân bắt đầu từ
giữa hai khe núi thấp nhất và tỏa ra những vùng phụ cận. Núi Iraq rừng
lơ thơ, cỏ không cao quá gối, nhiều nơi chỉ có toàn đá trọc. Tiểu đoàn
trưởng ra lệnh, tất cả tản ra, kiểm soát những hang động trước khi tiến
lên núi, chú ý hầm hố và những bãi mìn.
Tiểu
đội dàn ngang, ghìm súng chầm chậm tiến lên. Kiểu đội hình này, cha tôi
viết, là thế tiến nguy hiểm, vì địch nấp ở đâu đó quạt một tràng là
tiểu đội tiêu. Tôi đâm sợ, thằng Michael Tea không có kinh nghiệm, đáng
lẽ nên dàn hàng một tiến lên mới đúng. Tôi kêu Michael trong earphone.
Nó la, “Nhìn vô ống nhắm, quan sát những điểm đen kìa.” Những điểm đen
thường là những cửa hang, lấp bằng vải bạt hay ván tạp. Tôi rùn mình
xuống, lò dò tiến. Mắt dán vào ống nhắm và điều chỉnh. Cái ống nhắm này
tôi nài nỉ mãi mới được loại 50MM có thể phóng mục tiêu lớn ra từ 3 đến 9
lần, rất rõ. Tôi gắn ống nhắm trên khẩu M4A4 có 2 cò, vì bên dưới còn
thêm bộ phận phóng lựu M203, sức công phá mạnh và xa hơn M.79 ở chiến
trường Việt Nam. Tiểu đoàn trưởng nói, hành quân 2 ngày, quân trang gọn,
nhẹ để dễ leo núi, không quân yểm trợ nếu có tình thế bất ngờ. Nhưng
cha tôi viết, nếu đụng trận diễn tiến không lường được, cuộc hành quân
có thể kéo dài. Vì vậy, hành trang của tôi nặng trĩu như một cuộc chuyển
quân xa hay sắp đụng một trận lớn. Ngoài ra, cái áo khoác tactical vest
nhiều túi của tôi nhét đủ thứ, 4 băng đạn dự trữ 1,800 viên, 10 quả
M203, dao găm Ka-Bar bén ngót, kính hồng ngoại tuyến ban đêm, một
canteen nước, hai phần MRE thức ăn liền, mặt nạ chống hơi gas vì người
Kurd đã từng bị Saddam tấn công bằng hơi độc Sarin chết hàng loạt.
Lúc ngồi trên trực thăng, thấy tôi vũ trang đến tận răng, cả đội nhìn tôi như quái vật.
“Ê,
mày định một mình tiêu diệt hết một tiểu đoàn hả?” Thằng Ted xỏ ngón
tay tìm coi có cái túi nào còn trống trên cái áo vest phồng cứng của
tôi.
“Oh! My heroes” Thằng Robert láu lỉnh, giả vờ chắp tay ngưỡng mộ. “Có mày, chắc tụi tao ở không quá.”
Tôi
nổi sùng, hất tay tụi nó, nạt. “Kệ tao.” Nhưng mà nhìn lại, tôi thấy
mình giống như “Cái Bang Tám Túi” thật. Đem nhiều thứ quá cũng không
giống ai. Lần sau tôi sẽ rút kinh nghiệm.
Có một bàn to lớn mò mẫm bóp cái ba-lô sau lưng tôi.
“Trời ơi, nó đem theo mền nữa đây này.” Thằng Ed cười hô hố, “Mày tính định cư trên núi luôn à?”
“Câm
miệng.” Tôi quát lên một tiếng, bực tức, thằng này lớ quớ khi xuống đất
tôi sẽ đá cho nó một cái để đời. Nhưng mà nhìn lại, nó bự hơn, bàn tay
của nó to gấp ba lần tay tôi.
Michael Tea, tiểu đội trưởng, nạt, “Shut up.” Đôi mắt nó rà một lượt, tia nhìn phát ra lửa, chúng tôi nóng ran cả người.
Có
tiếng súng M4 “tạch, tạch, tạch… ” ròn rã. “Đụng rồi.” Có tiếng la sau
lưng tôi. Cả bọn nằm rạp xuống. Chừng ba mươi giây, Michael ở đằng trước
quay đầu ra hiệu, chúng tôi tẻ hai bên, nhường cho hai thằng mang M249
đi giữa, một thằng lui ra sau dự bị. Chúng tôi bò lên, ép sát hai bên,
tiến gần cửa động. Chắc chắn có người, tôi thấy tấm bạt rung rinh, nhất
định không phải dân, có lẽ tụi Baath đã đi trước một bước.
“Marhaba” Tiểu đội trưởng cầm micro gọi lớn ba, bốn lần, không ai trả lời.
Qua
kính nhắm, tôi thấy tấm vải bạt nhúc nhích như có người đứng ngay sau
đó. Tôi đặt tay vô cò sẵn sàng, thằng nào lú ra, tôi nả liền. “Tiên hạ
thủ vi cường.” Tôi nghĩ, “Thà bắn lầm còn hơn bị bắn chết.” Tôi không
muốn chết, nhất là chết ở đây. Mặc kệ ông Bush muốn xây dựng dân chủ hay
phát huy tự do gì gì đó, tôi không “ke”. Tụi Iraq có chết khô trên
giếng dầu, tôi cũng không “ke”. Tôi chỉ muốn sống để trở về. Để mơ, một
ngày nào, cha mẹ em út tôi được đặt chân lên miền đất hứa.
“Hello. Hello. Anybody’s there?” Thằng Michael kêu muốn tắt hơi.
Cửa
hang vén khẽ, một nhánh cây ló ra, đầu có cột một miếng vải trắng. Đầu
hàng rồi, chúng tôi thở phào, không cần phải nổ súng. Nhưng vì đề cao
cảnh giác, biết đâu địch trí trá khó lường, Michael vẫn kêu họ bằng
tiếng Ả Rập.
Họ bắt đầu đi ra, dè dặt
từng người một. A! tôi nhận ra, đây là dân quân Kurd, họ trang phục khác
người Iraq, đàn ông mặc quần phùng (kiểu Thổ), áo sơ mi, đầu quấn khăn
xếp, râu tóc ngắn gọn. Tất cả hai mươi bảy người, kể cả bốn đứa trẻ chỉ
độ 12,13 tuổi. Trong bộ tộc Kurd, người nào vác nổi súng, người đó là
lính, bất kể nam phụ lão ấu.
May quá, người Kurd ở đây, có nghĩa vùng này an toàn. Trong khi tiểu đội liên lạc cấp trên, tôi đi một vòng khảo sát.
Chỉ
suy diễn từ cái hang này tôi cũng thấy vấn đề kiểm soát an ninh, hay
ngăn chận sự chuyển vận vũ khí qua lại biên giới là một chuyện nan giải.
Cửa hang nhỏ, nhưng càng vào trong càng rộng, khuôn viên chính giữa có
thể chứa vài ngàn người. Ở giữa động có một hồ nhỏ, nước trong vắt. Họ
nói, mùa Xuân tuyết trên núi tan, nước theo khe chảy xuống tích tụ nên
hồ, đủ dùng quanh năm. Đàng sau còn có một cửa khác ăn thông, có thể
thoát ra bằng vách khác. Cái cửa hậu này không phải do thiên nhiên mà do
họ đào phá từ năm này qua năm khác mà thành. Tôi đi vòng lòng xem qua
nơi ăn, chốn ở của họ. Có lẽ đây là trạm trú quân của quân du kích nên
đồ đạc, bếp núc không có dấu vết đàn bà. Nồi niêu xoong chảo, ấm chén
của họ có lẽ toàn là đồ từ thời Adam, Eva, cũ kỹ thấy phát sợ.
Người
Kurd có mặt ở Iraq có lẽ từ thời khai thiên lập địa. Họ không phải
giống dân Ả rập, không theo đạo Hồi. Sự khác biệt văn hóa, phong tục,
ngôn ngữ, trang phục, biến họ thành cái gai trong mắt dân Ả Rập. Trải
qua hàng ngàn năm, họ đã bị các chủng tộc, các thời đế chế, vua chúa
khắp nơi truy sát. Nhưng mà, với sức chiến đấu dẻo dai, khả năng sinh
tồn mạnh mẽ, họ đã trốn chạy liên tiếp từ đời này qua đời khác. Khi bị
truy sát ở Iraq, họ bồng bế nhau qua Thổ, khi Thổ đánh đuổi, họ chạy qua
Syria, khi bị Syria càn, họ trốn qua Iran, bị Iran đánh, họ lại chạy về
Iraq. Họ sống du mục và chạy loanh hoanh khắp biên giới bốn nước. Lịch
sử của người Kurd là lịch sử chạy. Cho tới bây giờ họ chưa có điểm dừng
chân.
Tôi nghe nói, sau thế chiến thứ I,
người Anh ký hiệp ước giúp họ thành lập quốc gia Kurd, thủ đô đáng lẽ
là Mosul. Đổi lại, người Kurd ký kết cho Anh khai thác mỏ dầu lớn ở miền
Bắc, lãnh địa Kurd. Hiệp định đã ký kết, năm 1927, Anh đã khai thác
dầu. Nhưng quốc gia Kurd đến nay vẫn còn nằm trên giấy. Không phải người
Anh bội ước mà người Kurd đã bỏ mất cơ hội lập quốc có một không hai.
Vì đây là thời gian, Anh cũng đang thành lập Iraq. Do trốn chạy khắp
nơi, người Kurd đã bị phân hóa từ đời nào cũng không biết. Khi tiến hành
việc thành lập quốc gia, người Kurd ở Thổ thích chính sách của Thổ,
người Kurd ở Iran thích theo khuôn mẫu Iran, người Kurd ở Syria thích
theo chế độ như Syria, người Kurd ở Iraq lại không thích ý kiến các nhóm
khác. Không ai nhường ai. Mấy năm sau, Iraq tuyên bố độc lập, biên giới
bao trùm luôn phần đất Kurd. Và người Kurd từ đó lại tiếp tục: Chạy.
Nghe
tới đoạn này, tôi cảm thấy buồn. Mong rằng người Việt tỵ nạn khắp nơi
Mỹ, Anh, Úc, Pháp, sau này trở về sẽ tránh vết xe đổ như người Kurd.
Tiểu
đội ra lệnh tập hợp, chúng tôi trở vào trong hang. Một vòng tròn, nửa
là Kurd, nửa Mỹ. Tiểu đoàn mới thả dù một quân nhân thông dịch tới.
Người Mỹ sẽ bảo vệ người Kurd, tạm thời vẽ một khu tự trị cho họ. Từ
thành phố Tikrit trở lên là khu Cấm Bay, ngoại trừ máy bay Anh Mỹ và
Liên Hiệp Quốc. Phía Mỹ sẽ cung cấp khí giới và huấn luyện dân quân
Kurd. Đổi lại, Kurd kiểm soát và phát hiện những con đường vận chuyển vũ
khí lậu qua biên giới. Vũ khí và toán huấn luyện sẽ tới sau. Nhiệm vụ
chúng tôi rời khỏi nơi đây và tiếp tục hành quân sau lưng núi.
Thằng Ted chửi, Robert chửi, Ed cũng chửi, còn tôi chửi… thầm.
“Tại sao họ không để tụi mình ở lại huấn luyện?” Thằng Bob cự nự.
“Đây là lệnh. Chấm hết.” Tiểu đội trưởng kết thúc.
Chúng
tôi đi vòng sau lưng núi. Núi này tiếp ngọn núi kia. Màu đá tim tím,
phẳng lì, dốc cao thoai thoải. Ba-lô trên vai tôi chĩu xuống, oằn vai.
Mới 17:00 tức năm giờ chiều, trời đã nhá nhem. Gió thổi buốt mặt. Chúng
tôi dừng lại bên một khe trũng, mấy lùm cây thưa cao quá đầu người, che
khuất một cái hang. Tôi mệt đứ đừ. Tựa vào gốc cây, tôi đứng thở dốc.
Mấy thằng kia quân trang nhẹ hửng, cũng mướt mồ hôi. Khi thằng Michael
chạy tới, nó xua tụi tôi như xua tà.
“Đi, đi vào trong kia kiểm soát trước.” Nó chửi te tát, “Chưa kiểm soát mà đứng đây chơi, tụi bây muốn chôn thây ở đây chắc?”
Cái thằng này có thể lên tới tướng đây. Nó không hề biết thương anh em đồng đội. Mồ hôi người ta mà nó tưởng như nước lã.
Chúng
tôi chạy vào trong hang, kiểm soát. Tôi mệt muốn xỉu, từ sáng tới giờ
chỉ đi và chạy, chưa có hột cơm nào. Đã vậy, đôi mắt chập chập cứ muốn
ríu lại. Nếu gặp địch, tôi cũng phải ngã ra ngủ một giấc cái đã, chuyện
đánh đấm tính sau.
May quá, cái hang
cạn, không có người. Michael nói, khi nào chắc chắn an toàn mới được
nghỉ ngơi, ăn uống. Thằng Ted giỡn, “Sao nó không nói, khi nào bắt được
Bin Laden, ăn cơm cũng chưa muộn.”
“Clear.” Thằng Bob từ bên sườn chạy vòng qua nói.
“Clear.” Thằng Tom ở vách sau hay đâu đó cũng la lên trong máy.
“Clear,
clear.” Hai ba tiếng nữa của ai đó vọng ra. Tiểu đội trưởng liên lạc
với trung tâm hành quân rồi phân công. Chúng tôi đóng chốt ở đây. Một,
hai, ba, thằng Michael chỉ tôi, Ed và Ted, ba đứa bây: chốt Một. Rồi nó
khoác tay, kéo một đám theo sau, đi đóng chốt Hai. Nhưng mới vài ba bước
nó quay lại, chỉ xuống chân núi.
“Đêm
nay, tụi bây chia nhau canh giữ hẻm núi phía dưới. Có phát hiện gì báo
ngay, không được tự ý hành động.” Nó quay qua tôi, “Còn mày, tối nay,
không được làm thơ, không được ngủ.”
Chưa kịp phản đối, nó khóa miệng tôi. “Đây là lệnh.”
“Yes, sir.” Tôi gào lên, tức muốn ói máu.
Ted
và Ed bảo, “Ăn cái đã, từ sáng tới giờ tao đói muốn rã ruột.” Tụi nó
ăn, tôi kê đầu trên ba-lô ngủ. Có nhiều khi ngủ ngon hơn ăn gấp cả ngàn
lần.
Ngủ được ba tiếng, thằng Ted lôi
tôi dậy. Đổi phiên. Trời bây giờ tối đen như mực. Tôi có cảm giác bị
người ta quẳng vào cái lỗ đen trong vũ trụ. Vừa nằm xuống, thằng Ed,
thằng Ted đã ngủ say như chết. Tôi dụi mắt, mắt cay xè. Tôi uống một hớp
nước, cũng chưa tỉnh nổi. Bây giờ thiên đường không phải là thành
Babylon, không phải là vườn treo Hanging Garden, không phải ở Địa Đàng,
hay trên Thiên Đàng, mà là ở trong cái mền bông mềm như nhung, mướt
rượt, mượt mà. Tôi đang ước được chui đầu vào đó, đánh một giấc trăm
năm.
Tiếng Michael léo nhéo trong máy.
Tôi trả lời rồi lôi trong ba-lô một tấm ponchos, một lọ thuốc Alert.
Thuốc này uống vào bảo đảm tỉnh như sáo suốt 48 tiếng đồng hồ. Tấm
ponchos, tôi trải ra tủ đều cho hai đứa bạn. Đêm trên núi cao, sương
xuống lạnh lắm.
Tôi ngồi thu lu trong
bóng tối. Một chút sau mắt quen với màn đêm, tôi thấy đêm không đen như
tôi tưởng. Trời trong và cao vút, đêm có ngàn sao lấp lánh, một mặt
trăng lưỡi liềm chênh chếch hướng Đông. Trăng lưỡi liềm cong vút, bóng
nguyệt treo ơ hờ, sắc trăng mờ nhạt lung linh làm đêm trở nên huyền ảo.
Không hiểu sao trong tất cả truyện cổ Ả rập người ta chỉ thấy bầu trời
và ánh trăng lưỡi liềm. Bây giờ, tôi ngó trăng. Trăng cũng ngó tôi. Mà
không, trăng ngó vạn vật. Tôi cũng ngó vạn vật. Đêm thật yên tĩnh. Tôi
lắng nghe tiếng gió mơn man vuốt ve lưng núi, tiếng cỏ lao xao, rì rào
chen lẫn trong tiếng đập đều đặn của trái tim tôi.
Ba
tiếng đồng hồ trôi qua. Tôi ngồi im trong một tư thế gần như bất động.
Nhìn xuống khe núi bên dưới, bốn bề vắng tanh. Có ai biết nỗi khổ của
một con sói rình mồi? Phải kiên nhẫn lắm. Tôi nhìn vào khe núi như nhìn
vào một khoảng không vô định.
Hai giờ
sáng. Giờ này là của thằng Ed đây. Nhưng tôi tỉnh táo lắm, cho hai đứa
nó ngủ thêm một chút. Bây giờ, trăng chếch về Tây. Đêm Iraq thật huyền
diệu, nhưng mà tôi vẫn nhớ một vầng trăng vằng vặc xa tít ở quê nhà.
“Trời xanh, trăng có tự bao giờ?
Ngưng chén, đêm nay hỏi một câu
Người với lên trăng, vin chẳng được
Khi đi, trăng lại mãi theo nhau.”°1
Có
phải ánh trăng này từ Việt Nam đã theo tôi tới đây chăng? Còn sao nữa?
Sao Hôm, sao Mai đâu? Tôi nhìn trời rồi nhìn điểm “nóng” dưới khe núi.
Một vì sao đang rơi trong lùm cỏ. Sao nhấp nháy, nhấp nháy. Thật vô lý.
Tôi dụi mắt mình mấy lượt. Quả thật, có một ngôi sao đang rơi trong lùm
cỏ. Cái gì đó hả? Tôi chộp khẩu súng, mở kính nhắm, điều chỉnh tầm nhìn.
Không phải ánh sao. Điểm sáng là ánh đèn pin đang vẫy qua, vẫy lại. Tôi
lấy googles°2 nhìn, đèn tắt. Nghe tiếng lách cách, thằng Ted, thằng Ed
đồng nhỏm dậy. Chúng bò lại bên tôi, thì thầm.
“What’s up?” Nó hỏi, “Cái gì vậy?”
Không đợi tôi trả lời, nhanh như cắt, nó chộp súng, quan sát qua ống kính, “Oh, men.”
Tôi
gọi máy, báo cáo tình hình. Michael lệnh, theo dõi mục tiêu, khoan nổ
súng. Nó báo cáo về Trung Tâm hành quân. Ba thằng tôi xác định tọa độ,
theo dõi địch. Có thể đây là tụi vận chuyển vũ khí tiếp tế cho khủng bố.
Có một đường hầm hay hang động bí mật nào đó đi ngang qua eo núi này.
Có lối vào ắt phải có lối ra. Không biết phía trước núi có ai phát hiện
gì không? Không biết số lượng vũ khí là bao nhiêu và số người tham dự
đường dây này? Của tổ chức nào?
Mười
phút sau, tiểu đội tôi tề tựu. Vì hang động ăn sâu trong núi, không thể
tiêu diệt hết nếu chỉ tấn công bên ngoài. Các đơn vị khác cũng đang bao
quanh trước và sau núi. Trung Tâm sẽ chi viện một phi đội trực thăng
AH-64 Apache để tấn công cả hai cửa hang. Nếu sức kháng cự lớn, trung
tâm sẽ gọi các loại F mang bomb bunker°3 yểm trợ sau.
Trong
khi chờ đợi chúng tôi di chuyển vào vị trí phối hợp. Mắt tôi không rời
mục tiêu. Bên dưới một toán người sắp hàng một, lặng lẽ trước và sau đẩy
những thùng sắt to và dài bắt đầu xuất hiện. Chúng tôi nóng ruột. Có
thể là những air-missile SA-7B hay SA-14, dễ di chuyển. Cả đoàn khoảng
hai mươi người đã bắt đầu đi vào cửa hang. Trời ơi! Không khéo họ sẽ mất
hút trong ấy hay cố thủ sẽ khó đây. Cần phải tấn công ngay. Nhiều họng
súng chĩa ngay về phía họ.
Trong phút
chốc, tiếng máy bay vần vũ ngay trên đầu. Cả chục chiếc đèn cực mạnh
sáng rực như ban ngày. Có tiếng loa kêu gọi đầu hàng. Phía địch bỏ chạy
tán loạn. Có kẻ chạy thẳng vào hang, có kẻ trở đầu súng chĩa lên bắn máy
bay. Những chiếc Apache đảo vòng vòng. Chúng tôi nổ súng bắn địch. Họ
buông súng, thân xác ngã vật ra. Tai tôi không nghe thấy gì. Tiếng nổ
chát chúa, liên tục. Trên không, máy bay nả những chiếc rocket AGM-114
Hellfire bay liệng vô hang. Ầm. Ầm. Những tiếng nổ lớn, mặt đất rung
rinh, lửa vụt sáng chóe và những luồng khói đen bốc lên cuồn cuộn. Tôi
xoay nòng súng bắn như điên vào những lùm bụi gần cửa hang. Không thể để
chúng bắn tỉa máy bay vì họ đang bay rất thấp.
Khi
trận công phá kết thúc, tôi đi xuống dưới coi. Xác địch ngổn ngang,
không biết tên nào do tôi bắn chết. Những kẻ này mặt mũi bình thường,
nhưng giờ đã là những cái xác vô tri. Nếu sống, có thể có một ngày nào
đó dám tôi mời hắn uống café trên đường phố Baghdad. Xem chán, tôi vào
hang động, nhưng bị chận lại. Người ta đang đưa những chuyên viên vũ khí
tới đây. Cũng có thể có mìn hay chất nổ tự hủy đã được gài sẵn.
Đơn
vị tôi được lệnh trở về, tuy cuộc hành quân vẫn còn tiếp diễn. Về sau
quân đội phải khóa kín biên giới Iran, Syria ngăn chận vũ khí đổ vào
Iraq.
Từ mùa Xuân năm 2004, tổ chức
Al-Qaeda với Musab-al-Zarqawi, dân quân vũ trang Mahdi của phái Shi’a,
phe giáo sĩ Al- Sadr, tổ chức tấn công dữ dội khắp nơi. Trong đó Musab
al-Zarqawi là tên khủng bố kinh hoàng nhất. Hắn dùng kiểu hành hình thời
thượng cổ, lấy lưỡi gươm Sinbab chặt đầu tất cả các con tin ngoại quốc
để áp lực Mỹ rút quân vô điều kiện. Các nạn nhân trước khi chết đều sợ
hãi. Nhưng những người chưa bị bắt, chưa bị chặt đầu, chưa sợ.
Thế giới
Hồi giáo khắp nơi cũng phản đối. Al-Zarqawi bôi nhọ Hồi giáo. Hồi giáo
không man rợ như Zarqawi. Phải chống Mỹ kiểu khác. Lực lượng vũ trang
Sunni tổ chức phản công mạnh mẽ ở Fallujah bắt đầu tháng 3 năm 2004,
giết bốn nhân viên an ninh cung cấp lương thực của tổ chức Blackwater.
Họ cột bốn cái xác vào một chiếc xe, diễu lê khắp phố phường Iraq. Chủ ý
răn đe buộc Mỹ rút quân. Nhưng cách đó thất bại. Người ta nhìn thấy tổ
chức Sunni dã man, cần phải tiêu diệt. Trận đánh đẫm máu với Sunni là
trận 46 ngày đêm ở Fallujah. Người Mỹ so sánh với trận Mậu Thân Huế năm
1968. Mỹ mất 95 binh sĩ, và địch bỏ lại 1,350 xác chết đủ mọi sắc tộc
như Chechnyan, Iran, Syrian,… Ả Rập,…… Sau tháng 11 năm 2004 trở đi,
tình hình có vẻ lắng xuống.
Người Iraq
xoay qua chống Mỹ theo kiểu khác: Kiểu Việt Nam. Trong chiến tranh Việt
Nam, người Mỹ “thua” không phải trên mặt trận quân sự, mà “thua” trên
mặt trận tâm lý. Chiến tranh tâm lý mở rộng. Phong trào phản chiến,
những vụ Mỹ Lai được khai thác triệt để. Các tổ chức chống Mỹ, tổ chức
nhân quyền đua nhau tố cáo những vụ vi phạm nhân quyền. Nổi tiếng nhất
là cô Lynndie England và anh lính Charles Graner của trại tù Abu-Ghraib.
Bức hình nổi tiếng tình tứ nhất của họ là bức hình lột truồng sáu người
tù và bắt họ chồng chéo nhau xếp thành hình Kim Tự Tháp. Thế giới phẫn
nộ, người Mỹ phẫn nộ, lính Mỹ phẫn nộ, chính quyền Mỹ rất phẫn nộ, nhưng
tôi không… phẫn nộ. Tôi nghi, cặp tình nhân này điên ư? Họ không biết
hành động vậy là vi phạm nhân quyền, vi phạm quân kỷ à? Tù như chơi. Họ
biết, nhưng vẫn làm. Và ai là người đang đứng chụp hình cho họ đấy? Một
nhân vật thứ ba. Rõ ràng đây là một vụ vi phạm nhân quyền có dự mưu. Cặp
Lynndie và Charles đã lãnh bao nhiêu tiền? Khác với vụ Mỹ Lai, tòa án
quân sự Mỹ làm rùm beng chuyện này. Họ xử nặng và tuyên bố sẽ lôi hết
các vụ vi phạm nhân quyền ra công lý.
Cuối
năm 2005, chúng tôi được lệnh điều về miền Nam. Mười lăm ngàn quân nhân
canh giữ an ninh cho các thùng phiếu. Tất cả các tổ chức, giáo phái,
phe phía chủng tộc, ghét Mỹ hay thân Mỹ đều được mời tham chính. Tất cả
do người dân quyết định bằng lá phiếu. Ông Bush tin, với cách này, mọi
người đều có mặt trong chính quyền, người dân sẽ quyết định chính thể
của họ. Chúng tôi nghĩ, ông Bush lầm. Mọi phe nhóm đều không có ý định
hợp tác tham chính, mỗi một phe đều muốn giành lấy độc quyền cai trị và
tiêu diệt đối lập. Họ muốn dùng bàn tay sắt như Saddam. Họ chống Mỹ vì
Mỹ không để điều đó xảy ra.
Sau bầu cử,
người Iraq mở những mặt trận mới. Họ tiêu diệt nhau tận tình. Người
Sunni xả súng bắn vào chợ búa người Shi’a, 65 người chết. Người Shi’a
ném bom vào đám cưới Sunni, 124 người chết. Người Sectarian (không biết
từ đâu tới) đánh bom vào thánh đường Al-Askari của người Shi’a ở
Samarra, 165 người chết. Người Sunni lái xe bom lao thẳng vào lãnh địa
Sadr giết chết 215 người. Con số người chết tăng đều như người ta nhân
các giải độc đắc lotto hàng tuần. Đây chỉ là khúc dạo đầu cho một cuộc
nội chiến tương lai.
Đầu năm 2007, ông
Bush tuyên bố tăng quân, tăng chi cho cuộc chiến Iraq. Mặc, trong khi
người ta phản chiến khắp nơi. Tình hình Iraq không thể ổn định, nhưng
cũng không thể rút quân. Tiến thoái lưỡng nan. Mỹ rút, một cuộc nội
chiến chắc chắn sẽ xảy ra. Tàn khốc còn hơn thời Saddam và chiến tranh
hiện tại. Người Iraq giết người Iraq. Và mọi tội lỗi sẽ đổ lên đầu người
Mỹ.
Giấc mơ ổn định Iraq giống như
chuyện nằm mơ ban ngày. Mọi hận thù sắc tộc, tôn giáo gì đó là những mối
thù truyền kiếp có thể sẽ kéo dài cho tới ngày tận thế. Đồng minh các
nước lục tục rút quân về. Người Anh cũng bắt đầu giảm quân ở căn cứ
Basra.
Tiểu đoàn tôi được lệnh di chuyển
từ Samarra tới Basra. Khi ngang qua Baghdad chúng tôi được viếng thủ
đô, thăm thắng cảnh trong 48 giờ. Nhiều người không đi, họ ở lại trong
đơn vị, chỉ ra ngoài khi có nhiệm vụ. Baghdad là tụ điểm của khủng bố,
phá hoại, bắt cóc, của “road bomb” và “tự sát”. Bởi đây là nơi gây nhiều
tiếng vang, lấy thành tích dễ nhất. Nhưng cơ hội ngàn năm một thuở,
tiểu đội tôi quyết định ra ngoài. Viếng thăm xứ Ngàn Lẻ Một Đêm là điều
tối ư cần thiết.
Chúng tôi mặc thường
phục, lận súng ngắn, máy định vị, rồi ra đường. Baghdad lớn lắm, người
đông, có con sông Tigris bắc ngang chia thành hai khu vực. Thủ đô đầy
nhà cửa dinh thự, kiến trúc cổ công phu rất đẹp, khu dân cư tầm thường
đơn giản, và đường sá xây dựng rất cẩu thả. Những người trẻ mặc âu phục,
đa số trung niên người già ăn vận theo truyền thống. Đàn ông mặc thawbs
(áo dài chấm chân), đội mũ kufiyah (mũ úp) hoặc gutra (khăn trùm) có
egals (vòng vải quấn quanh đầu). Đàn bà mặc abaya (áo đen trùm kín thân
người), đầu quấn khăn choàng lớn.
Bỗng dưng, thằng Ted hỏi đố, “Thằng nào thấy đứa con gái Iraq đi giày cao gót đầu tiên, tao tặng $100 dollars.”
Cả
bọn xôn xao, cười như Tết. Giải thưởng hấp dẫn đây. Nhưng làm sao kiếm
ra. Bọn tôi chúi mắt vào chân tụi con gái. Thật đáng kinh ngạc. Lòng
vòng nãy giờ, thấy hơn trăm đứa, chẳng có mạng nào mang giày cao gót cả.
Mà đàn bà đẹp là nhờ giày cao gót. Giày cao gót làm dáng đi yểu điệu,
mảnh mai. Bây giờ tôi chợt hiểu ra, trông con gái Iraq không có nét dịu
dàng, mềm mại là bởi tướng đi chắc nịch, hơi giống tướng đàn ông. Đã
vậy, khăn áo kín mít, trông như những con quạ di động, chẳng có gì hấp
dẫn. Vòng qua nhiều đường phố, cả thành phố chỉ có một loại cây duy nhất
là cây Chà là. Chúng tôi lẩn quẩn khắp nơi, đường phố Iraq rất dễ lạc,
nhà cửa cây cối các nơi đều giống nhau. Chiến tranh, khủng bố, bom nổ
làm khắp nơi tiêu điều. Iraq ít có nhà hàng, quán xá, café… như các
thành phố khác. Tiếp xúc người dân ở đây cũng đáng ngại. Họ sợ bị nghi
ngờ, bị trả thù. Chúng tôi cũng sợ hỏi trúng những người ôm bom tự sát.
Chúng
tôi quyết định trở về khu trung tâm, viếng dinh Saddam. Nghe nói,
Saddam cũng chán đàn bà trùm chăn, trong dinh treo toàn hình Marilyn
Monroe vén váy. Nhưng mà Saddam có tới 23 cái dinh, luân phiên ngủ mỗi
ngày, vậy cái nào mới có hình các kiều nữ Hollywood khỏa thân, ở truồng.
“Mày tưởng Saddam có dành một cái dinh để tu chắc?”
Cả bọn cười sằng sặc.
Chúng
tôi quay lại con sông Tigris, băng qua cầu. Tại đầu cầu này, năm đó,
khi tiến vào Baghdad, sư đoàn 3 đã dừng lại mấy ngày chờ lệnh. Người ta
đợi một sự thỏa thuận buông súng của lực lượng Vệ binh Fedayeen trung
thành với Saddam, để tránh những tổn thất nhân mạng không đáng có. Lúc
đó Baghdad có tin đồn, Mỹ hết đạn. Một số tay súng lập lô cốt phòng thủ
ngay trên đường phố, dùng AK-47 chống xe tăng M1Abrams. Trong chiến
tranh đôi lúc cũng khiến người ta chết vì những tin đồn nhảm nhí như
thế.
Bốn mươi tám giờ ở Baghdad qua mau,
đơn vị gấp rút chuyển quân xuống Basra. Cách 55 dặm về phía Nam Baghdad
là thành Babylon. Đoàn quân xa chầm chậm qua khu vực này. Thành Babylon
cổ xưa, rộng tới mười cây số vuông, nơi cách đây gần ba ngàn năm người
ta đã xây dựng đền đài cung điện cao ngất để lên trời. Năm 1258, Hốt Tất
Liệt đã dẫn đại quân Mông Cổ đánh chiếm một nửa Châu Âu, rồi tràn qua
Iraq. Lịch sử ghi, người Mông Cổ đi tới đâu, cái gì không cướp được là
phá hủy. Kinh sách không đọc được đều bị đốt, kể cả những thứ về kiến
trúc, y học, thiên văn. Ngọn lửa đốt cháy thành Babylon và tất cả sách
vở hơn ba tháng mới tắt. Dân trong thành cũng chết sạch. Người Mông Cổ
đã tiêu hủy cả một nền văn minh cổ xưa, phát triển rực rỡ nhất của loài
người. Bây giờ, gạch đá ngổn ngang, phế tích tang thương, khiến chúng
tôi không khỏi ngậm ngùi.
“Ôi, bên bờ sông Euphrates
Thành Babylon đổ nát
Mà ta còn ngồi đây
Đàn đã lỡ lên dây
Kẻ thù còn bắt hát,
Ngợi ca về Zion
Làm sao ta hát được
Bài ca trên đất lạ…”
(Psalm 137)
Nhưng
mà, đáng lẽ người Iraq phải thù Mông Cổ mới đúng. Đằng này, họ đi thù
Mỹ. Tôi nghĩ, có thể bắt đầu do một sự hiểu lầm nào đó. Năm 1927, khi
người Anh phát hiện mỏ dầu ở Kirkuk, lần đầu tiên khoan giếng, một tai
nạn khủng khiếp đã xảy ra. Dầu bắn mạnh và phun cao như một thứ nham
thạch vọt ra từ trong miệng núi lửa. Ngọn cao tới 15 mét, dầu tràn như
lũ lụt. Chỉ cần một que diêm cả thành phố sẽ ra tro. Sau chín ngày,
người Anh mới dập tắt được ngọn lửa. Mặc dù đó là một tai nạn, nhưng
người Iraq vẫn ngờ, đó là một đòn dằn mặt. Chớ có tự ý khai thác dầu. Kỹ
thuật khoan dầu, xưa nay vẫn được giữ kín như một thứ bí mật quốc
phòng.
Đoàn quân xa theo quốc lộ chạy
thẳng xuống Basra. Chúng tôi vượt qua nhiều khúc sông, hồ và đầm lầy.
Nơi đây là bình nguyên trù phú nhất của Iraq, nhưng đất đai không màu
mỡ. Cỏ lún phún thưa, gần đầm có lau sậy, có nơi có những hàng Chà là
rợp bóng như hàng dừa của Bến Tre. Vùng cằn cỗi vậy mà là cái nôi của
con người ư? Thủy tổ của loài người, dấu tích ông Abraham đã từng sinh
sống nơi đây. Vùng đất nghèo dân khó, nông dân ở đây đi xuồng thô, ở lều
vải, chẳng có ai cất nổi một căn nhà.
Bây
giờ là tháng Sáu, trời vào Hè. Nhiệt độ 120F, Iraq trở thành một cái lò
nướng khổng lồ. Nóng rát mặt, rộp da. Chúng tôi băng qua một khu sa
mạc. Gió bắt đầu nổi lên. Bộ chỉ huy báo động, khoảng một tiếng nữa sẽ
có bão. Bão sa mạc đến bất ngờ và qua cũng trong chớp mắt. Chúng tôi
dừng lại và chờ đợi. Những tấm bạt, lều, ponchos được trưng dụng tối đa.
Chúng tôi phủ lên những vũ khí, đạn dược và bịt chặt các nòng súng. Cá
nhân đeo mặt nạ, và chui vào xe trú ẩn. Hơn một tiếng sau, bão rú. Tiếng
gió rít như xé lụa tận trên cao, rồi bão ầm ầm xô tới. Một con sóng màu
vàng cuồn cuộn cuốn tung đất cát ngùn ngụt lăn qua sa mạc. Chúng tôi
khum đầu xuống, đất cát đổ xuống mình lộp độp nghe như tiếng mưa rào.
Khi trời im bão, chúng tôi đứng lên, rũ cát, nhìn ra xa. Mặt đất như mới
thay da, một màu cát mới tinh khôi trải dài ngút tận chân trời.
Cách
Basra hơn 46 dặm, chúng tôi dừng lại nghỉ. Lính đua nhau nhẩy ào ào
xuống, chạy vào làng. Đây là Al-Qurnah, Vườn Địa Đàng của Adam và Eva,
thủy tổ của loài người. Tất cả kinh thánh viết, trong vườn Địa Đàng đầy
cây trái và bát ngát hương hoa, duy chỉ có mỗi một thứ Trái Cấm của cây
Tree of Life là không ăn được. Ai ăn Trái Cấm sẽ bị đuổi ra vườn Địa
Đàng, tự trồng trọt để nuôi thân, rồi sẽ già và chết. Nhưng Eva hàng
ngày nhìn quả Cấm trên cây và thắc mắc. Satan dụ dỗ, Chúa cấm ăn vì ăn
Trái Cấm con người sẽ thông minh như Chúa, sẽ làm được những điều Chúa
muốn làm. Eva cắn ngay một miếng và nàng dành một trái cho Adam. Ăn
xong, khi đến trước Chúa, lần đầu tiên Adam bỗng mắc cỡ vì thấy mình lõa
lồ. Chúa biết hai người đã phạm điều cấm nên đày họ ra khỏi vườn Địa
Đàng…
Bây giờ, tôi cũng muốn chạy tới
xem cây Tree of Life, bằng cách này hay cách khác, tôi sẽ trộm cắn một
Trái Cấm. Xin Chúa hãy đày tôi ra khỏi Vườn Địa Đàng hay nói đúng hơn
đày tôi ra khỏi Iraq, tránh xa cuộc chiến này. Tôi chưa muốn chết, nhất
là chết ở một đất nước không có dây mơ rễ má nào với tôi. Nhưng khi vào
làng, tôi thấy một đám đông chùm nhum chờ đợi để chụp hình dưới cây Tree
of Life. Một gốc cây sù sì không có lá, đang giơ những cành khô hiểm
hóc nổi bật dưới trời xanh.
Tháng 7 năm
2007, 441 lính Anh thuộc nhóm Danish rời Basra. Đây có lẽ là nhóm thứ
chín rời trại. Những chiếc trực thăng bốc họ rời căn cứ. Tôi ngó lên bầu
trời nhìn cho tới lúc dấu trực thăng mất dạng. Tôi thèm có một ngày tôi
cũng bay bổng để ra khỏi vùng đất Basra.
Chúng
tôi đóng quân gần căn cứ Anh. Nơi này là ngoại ô bảo vệ Basra, bảo vệ
các giếng dầu và hệ thống dẫn xuất, hệ thống khí đốt quan trọng của
Iraq. Ngoại trừ thủ đô, đây là thành phố lớn nhất Iraq, dân số một triệu
rưỡi. Basra còn nhiều ngành hóa học, công nghiệp khác. Chỉ nói về dầu,
Iraq đã cung cấp 20% năng lượng cho thế giới. Trong cuộc chiến với Iran
năm 1980, do lượng định sai, Iraq đã bất ngờ tấn công và bao vây nhiều
làng mạc Iran, tiêu diệt hàng trăm binh sĩ. Nhưng sau đó Iran tập trung
lực lượng phản công, đánh thẳng vào Basra, giết chết hàng ngàn lính
Iraq, phá hủy hệ thống dẫn dầu của Basra. Tuy vậy, Saddam vẫn tuyên bố
chiến thắng. Để bù đắp chiến phí và thiệt hại chiến tranh, Saddam quyết
định cần phải nâng cao giá dầu gấp bốn, năm lần. Thế giới phải trả giá
cho những sai lầm của Iraq. Nhưng Kuwait, một quốc gia kề cận Basra vẫn
bán dầu với giá rẻ. Saddam lên án Kuwait phá giá dầu. Hơn nữa mỏ dầu
Kuwait có một phần nằm dưới lòng đất Iraq. Năm 1990, Iraq xua quân xâm
chiếm Kuwait. Cả thế giới nổi giận. Mỹ và đồng minh đánh vào Iraq. Trước
khi rút quân, Saddam ra lệnh đổ hàng triệu thùng dầu xuống vịnh Persian
và đốt 700 giếng dầu của Kuwait. Đầu năm 2003, để tử thủ Basra, Saddam
cũng ra lệnh quấn mìn dầy đặc chung quanh 400 giếng dầu của Basra. Nhưng
người Mỹ mua dầu bằng dollars, họ không bao giờ đi đốt tiền, dù là tiền
của người khác. Mỹ bao vây giếng dầu, lính Iraq cũng không thể uống dầu
để chiến đấu. Họ lục tục theo nhau kéo cờ trắng.
Chiến
tranh kéo dài đến mệt mỏi. Để áp lực nước Mỹ rút quân, khối Ả Rập dùng
đủ mọi cách tăng giá dầu. Thế giới bắt đầu bước vào thời kỳ khủng hoảng
năng lượng. Giá dầu nhích dần. Chính phủ mới của Iraq đã thỏa thuận ký
hiệp khai thác dầu với Mỹ, Anh, Trung Quốc.
Ước
mơ kết thúc cuộc chiến là ước mơ chung của tất cả mọi người. Hơn thế
nữa, nó là nỗi hy vọng lớn nhất của những người lính, nhiều khi còn vui
hơn niềm vui chiến thắng.
Ngày 10 tháng 9
Tư lệnh chiến trường Iraq General David Petraeus tuyên bố, Hè năm tới
sẽ rút 30,000 quân số. Ông Bush cũng hứa, cho phép 5,700 quân nhân từ
các đơn vị được về đón Giáng Sinh. Chao ơi! Chúng tôi nhẩy cỡn vì sung
sướng. Niềm vui như được ngồi trên một tấm thảm thần của xứ sở Aladin
bay lượn ra khỏi nơi đây.
“Kỳ này về, tao sẽ đi học trở lại.” Thằng Ted nói, nó vào lính để được hưởng học bổng toàn phần.
“Tao sẽ ứng cử nghị viên thành phố.” Michael Tea, đúng là con nhà nòi, ba nó là Thượng nghị sĩ.
“Tao sẽ lấy vợ và đẻ một chục con.” Edward tuyên bố thẳng thừng.
Tụi tôi hè nhau thụi nó. “Ê, mày muốn quân đội phá sản vì đám con của mày à?” Ed cười hô hố.
“Còn mày?” Tụi nó quay qua tôi.
“Ước mơ lớn nhất của tao là được nhập quốc tịch, rồi bảo trợ gia đình sang.” Tôi cười ngượng nghịu.
Cả bọn vỗ vai tôi, “Ô! Chuyện nhỏ.” Chúng nó cười khuyến khích, “ Mày sẽ được như ý.”
Hôm
sau, đúng vào ngày thứ Sáu, tiểu đội nhận lệnh trực. Tiểu đội trưởng
huấn thị, theo báo cáo Bộ chỉ huy tuy cường độ khủng bố giảm nhẹ, nhưng
số thương vong do các vụ tấn công vào mục tiêu dân sự vẫn còn nhiều. Ở
Baghdad 265 người, Kirkuk 450 người,… Dự báo, khắp nơi sắp có nội chiến.
Tôi mặc kệ nội chiến. Cứ giết nhau đi.
Saddam này chết, sẽ có một Saddam khác lên thay. Còn tôi sẽ rời khỏi nơi
đây, bằng cách này hay cách khác.
Chúng
tôi bốn thằng, hai thằng trên lô cốt, hai thằng ở ngay cổng. Vai đeo
súng, mắt nhắm ra xa, chúng tôi rảo bước trước doanh trại. Đi lính, tôi
ghét nhất là đi tuần và canh gác. Nhiệm vụ chán chết người. Mà trong
phim mấy thằng lính gác đều là mấy thằng chết trước.
Hai
tiếng đồng hồ trôi qua. Trời ơi, khát. Uống bao nhiêu đi nữa, nước cũng
bốc thành hơi trong bụng.Tôi nhìn qua thằng Ted, mặt mày nó khô khốc,
đôi môi rộp, da đỏ bừng. Tôi tưởng tượng, chỉ cần bật tí lửa nó sẽ bốc
cháy như cây đuốc sống. Nhìn nó, tôi thông cảm được tâm trạng người lính
Mỹ từng tham chiến tại Việt Nam. Tại sao tôi lại đổ mồ hôi và máu tại
chiến trường này? Vì lý tưởng tự do dân chủ ư? Hai phần ba thế giới
không có dân chủ, đâu phải chỉ mỗi mình Iraq? Vì Saddam độc tài, sở hữu
vũ khí giết người hàng loạt à? Mỗi một nước thuộc thế giới thứ ba đều có
một thằng lãnh đạo độc tài như thế. Hay vì dầu hỏa? Phong trào phản
chiến ở tại nước Mỹ lên án, chính phủ đem sinh mạng người lính đi bảo vệ
túi tiền cho các hãng dầu. Nhưng muốn ký kết hiệp ước khai thác dầu,
hay hạ giá dầu có nhiều cách, không nhất thiết phải mở một cuộc chiến.
Tổn phí cuộc chiến Vùng Vịnh lần I, sáu tuần lễ, ngốn hết 61 tỷ dollars,
buôn bán dầu hỏa đâu giàu mau thế; chiến tranh Vùng Vịnh lần II trong 5
năm tiêu hết 577 tỷ. Thế giới nói, người Mỹ đánh giặc theo kiểu con nhà
giàu. Nhưng trong chiến tranh Việt Nam, Mỹ keo kiệt đến mức độ kinh
tởm. Mỹ chi 111 tỷ cho cuộc chiến 20 năm. Lấy 111 tỷ chia cho 20, mỗi
năm 5 tỷ rưỡi. Và trong thời kỳ cuối, quốc hội Mỹ đã từ chối 300 triệu
dollars viện trợ để cứu lấy đồng minh.
Trưa
đúng Ngọ, mặt trời đang đứng ở đỉnh đầu. Tôi đứng tỳ tay vào thành
cổng, ôm chặt khẩu M4A4, đây là loại tối tân nhất, chỉ thiếu bộ phận
hồng ngoại tuyến IRIS như đội đặc nhiệm. Còn cha tôi, và những người
lính miền Nam chỉ được dùng loại M1 Garant hay Carbine, bắn từng phát để
chống với AK-47 tối tân, hiện đại nhất Liên Xô. Dùng xe tăng M41, thiết
vận xa M113 để dàn trận đánh nhau với T.54 của địch. Ví như người ta
dúi cho lính miền Nam một con dao cùn trong trận tử chiến. Mãi đến sau
Tết Mậu Thân, miền Nam mới được tiếp viện giới hạn M.16 và chiến xa
M.48. Nhưng, đã quá muộn.
Người ta ví,
chiến tranh Việt Nam là nơi tiêu thụ vũ khí thừa từ thế chiến thứ II,
cứu các xưởng vũ khí Mỹ bị thua lỗ. Chiến tranh Iraq là nơi thử nghiệm
những thứ vũ khí mới. Và những người lính miền Nam chết trong tay đồng
minh nhiều hơn trong tay địch.
Ôi! Việt Nam. Ôi cha ơi! Những người tù sau chiến tranh bị đày đi chém tre, đẵn gỗ trên ngàn và bỏ xác trên núi rừng xa lạ.
Nước mắt tôi rơi, trái tim tôi vỡ.
“Khát quá.” Tiếng thằng Ted khàn đục. “Nước đâu?”
Nó chụp chai nước suối của thằng Ed quăng xuống, chuyền cho tôi một chai.
Không.
Tôi không khát. Nước ở đây này. Nước mắt tôi rơi như mưa, và tôi đang
nhấm từng giọt mằn mặn trên môi như người ta nhấm rượu.
Từ
xa, một chiếc xe vận tải xuất hiện. Thằng Ted chộp ống nhìn, quan sát.
Nó nói, xe giao sữa. Nó lui vào trong, ra sau cổng, lấy máy rà mìn. Tôi
cũng ngó qua ống nhìn. Xe chạy băng băng. Tôi nhận ra, thằng lái xe là
Abu gì đó, tôi quên mất. Nó vẫn thường giao sữa mỗi thứ Hai, thứ Năm.
Nhưng hôm nay là thứ Sáu mà. Ngày thứ Sáu người Hồi giáo đồng loạt nghỉ,
không có ai làm việc vào ngày này. Tôi dán mắt vào ống nhìn. “Trời ơi!”
Tôi kêu lên, gần đến cổng, mà nó xả hết tốc lực.
“Xe
bomb.” Tôi thất thanh kêu. Không còn kịp nữa, tôi lao ra về phía trước,
đưa khẩu súng nhắm. Trong trại, đơn vị đang ăn trưa, hơn 400 lính đang
ngồi đầy trong đó. Nếu bắn, thật nguy hiểm. Có thể tôi bị thương hoặc sẽ
chết. Bắn thằng Abu, xe vẫn lao tới. Không suy nghĩ nữa, tôi quyết định
trong nháy mắt.
Tôi bóp cò phóng lựu
bên dưới khẩu M4, một quả M203 bắn vọt ra như hỏa tiễn, đâm ngay thùng
xe. Tôi nhìn thấy một đường khói còn chưa tan hẳn. Một tiếng nổ kinh hồn
rung chuyển mặt đất. Lô cốt rung rinh. Cát và đá mịt mù. Mà lạ quá,
bỗng nhiên tôi thấy mình nhẹ hửng, bay lên, bay lên cao. Tôi nhìn xuống.
Ôi, thân xác tôi kia. Tôi nằm bất động. Những mảnh kim loại cắm đầy
người. Chiếc xe bomb nát như tương. Thằng Abu mất xác.
Khi cả đơn vị chạy ra, tiếng xe cứu thương kêu inh ỏi. Họ khiêng xác tôi lên. Cả tiểu đội khóc cuống cuồng.
“Còn nước còn tát.” Michael đập đập tay vô xe cứu thương.
“Hãy cứu nó đi.” Tụi nó gào lên, chạy theo xe.
“Cứu cái gì?” Tôi la lên, nhưng chúng không nghe. “Tao ở đây nè.”
Bây giờ, thế giới hai nơi. Tôi bắt đầu mơ màng chìm trong giấc ngủ. Đâu đây văng vẳng bài hát tôi yêu.
“… Trả súng đạn này. Ôi, sạch nợ sông núi rồi
Tôi trở về quê, trở về quê tìm tuổi thơ mất, năm nao… ”
Cuối cùng thì tôi cũng tìm được con đường ra khỏi Basra.
Nov. 10/2008
Nguyễn Thị Thảo An
Câu chuyện xúc động quá! Tôi đã đi qua vùng đất này và hiện đang ở
ReplyDeletelàm việc ở 1 nước kề cận đó nên càng thấu hiểu nỗi niềm và suy tư của anh. Tôi như thấy tôi đang sống những gì anh đã trải qua.