Đức Phật thường nói rằng nếu không nợ nhau thì làm sao gặp gỡ. Cùng khám phá nghiệp quả, nhân duyên vợ chồng, cha mẹ và con cái.
Có
thể người vợ ở kiếp này là người bạn chôn kiếp trước, tới trả nợ cho
bạn. Đứa con trai ở kiếp này, là chủ nợ của bạn ở kiếp trước, để đòi món
nợ chưa trả. Đứa con gái ở kiếp này, là người tình ở kiếp trước, tới vì
tình cảm chưa dứt. Người tình kiếp này, là vợ chồng
của kiếp trước tới nối tiếp phần duyên phận chưa dứt. Hồng nhan tri kỷ
của kiếp này là anh em của kiếp trước tới chia sẻ những tâm sự chưa nói
hết. Người giàu có kiếp này là người giàu lòng thiện kiếp trước, tới
nhận phần công đức đã phát ra từ kiếp trước….. Đây không phải là mê tín
mà là nhân quả luân hồi, là số kiếp. Phật thường nói rằng nếu không nợ
nhau thì làm sao gặp gỡ.
Bất cứ việc gì, bất cứ người nào, trong
gia đình (ngay cả ngoài gia đình, bề trên, cấp dưới…) phàm làm khiến cho
ta tổn hại, đều phải gánh chịu thọ báo. Gia quyến lục thân, đều do tứ
nhân tương tụ (tứ nhân là trả nợ, đòi nợ, trả ơn và báo oán) bất luận
chúng ta thọ báo bao nhiêu oan ức, không những không được sân hận, ngược
lại phải sám hối cho nghiệp chướng của chính ta, tội nghiệp của quá khứ
hay đời trước nay phải trả, nếu đem lòng sân hận, làm sao không tạo
thêm nghiệp mới, “Chúng sanh oan oan tương báo đến bao giờ mới hết, nếu
biết lấy ân báo oán thì oán liền tiêu trừ”.
Tất cả mọi nơi đều có oan gia trái chủ đến gây nạn (làm khó dễ) chúng
ta phải phản tỉnh lại, tại sao họ không tìm người khác để gây phiền
phức, đều do trong quá khứ hay đời quá khứ, chúng ta có làm điều gì sai
lỗi với họ, ta phải tu nhẫn nhục, làm nghịch tăng thượng duyên, lúc đó
mọi oán thù trong quá khứ nhờ đó mà được tiêu trừ.
Có rất nhiều người kết hôn nhưng suốt đời chẳng có con, vì sao?
Chẳng có duyên! Con cái phải có duyên với quý vị thì chúng mới đầu thai vào nhà quý vị. Chúng nó chẳng có duyên
với quý vị, sẽ chẳng đầu thai vào nhà quý vị. Nói cách khác, chúng nó
đi đầu thai, phải tìm đối tượng. Quý vị mong cầu chúng nó, chưa chắc
chúng nó đã để ý tới quý vị! Tìm đối tượng nào? Có mối quan hệ trong đời
quá khứ. Trong kinh, đức Phật đã nói bốn loại nhân duyên.
1) Loại
thứ nhất là báo ân. Trong quá khứ (hay đời quá khứ), đôi bên có ân huệ
với nhau, lần này chúng nó lại thấy quý vị, bèn đầu thai vào nhà quý vị,
sẽ trở thành con hiếu, cháu hiền, đến để báo ân tình xưa.
2) Loại
thứ hai là báo oán. Trong quá khứ (hay đời quá khứ), quý vị kết cừu hận
với họ. Gặp gỡ lần này, họ đến làm con cái quý vị, mai sau lớn lên sẽ
thành đứa con khiến cho gia đình suy bại, khiến cho quý vị nhà tan,
người chết, nó đến để báo th quý vị..! Vì thế, chớ nên kết oán cừu c ng
kẻ khác. Kẻ oán cừu bên ngoài có thể đề phòng, chứ họ đến đầu thai trong
nhà quý vị, làm cách nào đây? Quý vị hại người đó hay hại chết kẻ đó,
thần thức kẻ ấy sẽ đến làm con cháu trong nhà quý vị. Đó gọi là “con
cháu ngỗ nghịch” khiến cho nhà tan, người chết..!
3) Loại thứ ba
là đòi nợ. Đời quá khứ (hay đời quá khứ), cha mẹ thiếu nợ chúng nó,
chúng nó đến đòi nợ. Nếu thiếu nợ ít, nuôi hai, ba năm, con bèn chết.
Nếu thiếu nợ nhiều, đại khái là nuôi đến khi tốt nghiệp đại học, sắp có
thể làm việc bèn chết mất. Nợ đã đòi xong, nó bèn ra đi.
4) Loại
thứ tư là trả nợ. Con cái thiếu nợ cha mẹ quá khứ (hay đời quá khứ) hiện
tai hay đời này gặp gỡ, nó phải trả nợ. Nó phải nỗ lực làm lụng để nuôi
nấng cha mẹ. Nếu nó thiếu nợ cha mẹ rất nhiều, nó cung phụng cha mẹ vật
chất rất trọng hậu. Nếu thiếu nợ rất ít, nó lo cho cuộc sống của cha mẹ
rất tệ bạc, miễn sao quý vị chẳng chết đói là được rồi. Hạng người này
tuy có thể phụng dưỡng cha mẹ, nhưng thiếu lòng cung kính, chẳng có tâm
hiếu thuận. Báo ân bèn có tâm hiếu thuận, chứ trả nợ chẳng có tâm hiếu
thuận. Thậm chí trong lòng chúng nó còn ghét bỏ, chán ngán cha mẹ, nhưng
vẫn cho quý vị tiền để sống, nhiều hay ít là do xưa kia quý vị thiếu
chúng nó nhiều hay ít.
* Nhưng cũng có thể họ có nhiều duyên nợ
với chúng sanh nhưng lại đi gieo nhân không con (như phá thai, sát sanh,
giết người…) ở quá khứ hay tiền kiếp nên hiện tại lại phải trả nghiệp
nên không có con. hoặc họ muốn có con thì phải sám hối, và làm thật
nhiều việc tốt, hướng thiện và phóng sanh… Nói chung thì đường đi của
Luật nhân quả rất phức tạp khó ai thấu hiểu hết.
Đức Phật dạy rõ
chân tướng sự thật, người một nhà là do bốn loại quan hệ ấy mà tụ hợp.
Gia đình là như thế, mà người trong một họ cũng là như thế. Ân, oán, nợ
nần nhiều, bèn biến thành cha con, anh em một nhà hay ân oán, nợ nần ít
hơn cũng có thể biến thành thân thích, bầu bạn. Do đó, giữa người và
người với nhau đều có duyên phận. Quý vị đi đường, một kẻ xa lạ gật đầu
mỉm cười với quý vị cũng là do duyên phận xưa kia. Thấy một kẻ xa lạ,
vừa thấy kẻ ấy liền cảm thấy gai mắt cũng là do duyên phận trong quá
khứ.
Phải hiểu rõ chân tướng sự thật, chúng ta khởi tâm động niệm
chớ nên không cẩn thận, ngàn muôn phần đừng kết oán cừu với hết thảy
chúng sanh, đừng nên có quan hệ nợ nần với hết thảy chúng sanh. Thiếu nợ
phải trả cho sạch nợ, để tương lai hay đời sau khỏi phải đền trả nữa.
Chuyện này rất phiền toái! Giáo huấn của thánh hiền Nho và Phật đều dạy
chúng ta phải hóa giải ân oán. [Hóa giải] sẽ là phương pháp tốt lành
nhất và viên mãn nhất. Chỉ có Nho và Phật mới có thể làm được, những thứ
giáo dục khác trong thế gian chẳng thể thực hiện được!
Chúng ta
cùng tìm hiểu sâu thêm về các mối quan hệ giữa vợ chồng, cha mẹ và con
cái được trích từ “Những bí ẩn cuộc đời” để tham khảo thêm về vấn đề này
nhé.
– Trong nhiều thế kỷ, gia đình là một tổ chức riêng biệt mà
người gia trưởng là người cha, hay người mẹ, theo phong tục ở một vài
xứ. Những tổ chức gia đình ấy vẫn luôn luôn tồn tại ở khắp nơi. Theo một
quan niệm duy vật, người ta coi những trẻ con như là một sở hữu của cha
mẹ của chúng: Chúng sinh ra do bởi sự mang nặng đẻ đau và hy sinh của
người mẹ; chúng được nuôi dưỡng do bởi sự làm lụng khó khăn vất vả của
cha mẹ. Nói về phương diện vật chất, những người làm cha mẹ có một thể
chất khỏe mạnh hơn, già dặn hơn thông minh hơn những đứa con; vì lẽ đó
họ có quyền ngự trị trong gia đình.
Nhưng nói về phương diện tâm
linh, thì không hề có vấn đề cha mẹ là tuyệt đối cao cả hơn con cái vì
tất cả sinh linh trong Trời Đất đều là những đơn vị bình đẳng của toàn
thể một cơ cấu rộng lớn. Trên bình diện tâm linh, cha mẹ không có sở hữu
con cái, thậm chí cũng không phải là những người sáng tạo ra con cái.
Họ chỉ là những phương tiện cho những linh hồn của những đứa con mượn
chỗ đầu thai ở cõi thế gian. Một sự vận hành mầu nhiệm trong cơ thể họ
khiến cho họ giao hợp với nhau trong một lúc và làm vận chuyển một cơ
cấu cũng không kém mầu nhiệm, mà kết quả là sự cấu tạo và sinh sản ra
một thể xác hài nhị Cái thể xác đó trở nên chỗ nương ngụ của một linh
hồn khác cũng tiến hóa như chúng ta. Linh hồn ấy nhất thời bị yếu kém vì
cơ thể còn non nớt và chưa thể biết nói ngay được, trách niệm và bổn
phận của chúng ta trong sự nuôi dưỡng cho nó lớn lên, đều là những kinh
nghiệm rất quý báu cho ta. Đó là những kinh nghiệm để giúp ta tiến hóa
trên con đường tâm linh và khai mở đức hy sinh và bác ái, với một tấm
lòng thương cảm và trìu mến sâu xa thâm trầm.
Những sự việc tốt
lành kể trên chỉ xảy ra khi người làm cha mẹ không có lòng chiếm hữu và
áp chế con cái dưới một hình thức nào đó. Trong quyển “The Prophet”, ông
Khalil Gibran viết như sau:
“Con cái của anh sinh ra, không phải là của anh.
Chúng nó chỉ là con cái của “Sự sống bất diệt trường tồn”
Chúng
nó do bởi anh sinh ra, chớ không phải là của anh. Và tuy chúng sống
chung với anh trong một nhà, nhưng chúng không thuộc quyền sở hữu của
anh. Anh chỉ là những cái cung nhờ đó những đứa con anh lấy đà vùng vẫy,
chẳng khác nào như mũi tên bắn ra tận bốn phương trời. Người Cung Thủ
kéo sợi dây cung là nhằm mục đích hòa vui, và trong khi Người yêu cái
mũi tên bay, Người cũng yêu cái cung còn ở lại.”
Đối với con cái,
những bậc phụ huynh không nên có một thái độ áp chế quá vô lý của kẻ bề
trên, hoặc một thái độ ganh ghét ruồng bỏ. Một thái độ bình thản ôn hòa
là thái độ thích nghi nhất của người cha mẹ đối với con cái mà họ có bổn
phận nuôi dưỡng chăm nom, dạy dỗ cho thật tốt. Họ chỉ có được thái độ
ấy khi nào họ hiểu biết điều chân lý căn bản này, là tất cả chúng sinh,
tất cả mọi sinh linh đều bình đẳng với nhau. Nói theo danh từ thường
dùng trong những cuộc soi kiếp của ông Cayce, những người làm cha mẹ là
những con “Kinh vận hà” để cho nguồn sinh hoạt đi xuyên qua, và nhờ đó
những linh hồn có phương tiện để đầu thai ở cõi trần. Bởi vậy những cặp
nam nữ sắp sửa thành hôn được khuyên nhủ và dặn dò về tánh cách thiêng
liêng của sự giao hợp giữa vợ chồng. Quan điểm này đúng với quan điểm
triết học Ấn Độ cho rằng vấn đề tình dục và sinh lý giữa nam nữ có
một ý nghĩa thiêng liêng và cao quý. Nhưng bất hạnh thay, khoa Thần học
cổ truyền của đạo Gia Tô lại coi mọi vấn đề liên quan đến sự sinh dục
như là dấu vết của tội lỗi. Do một sự hiểu lầm đáng tiếc về biểu tượng
diễn tả trong Chương La Genèse của bộ Kinh, toàn thể nhân loại bị coi
như là kết quả của “Tội lỗi nguyên thủy” gây ra bởi ông Adam và bà Evẹ
Tuy rằng lễ hôn phối hợp pháp hóa sự giao hợp giữa vợ chồng, người ta
vẫn nghĩa rằng con cái được sinh sản ra trong vòng tội lỗi. Đó là những
quan niệm sai lầm về vấn đề sinh lý tự nhiên của cơ thể con người theo
như ý muốn của Thượng Đế.
Quan niệm sai lầm ấy có những hậu quả
tâm lý rất tai hại, gây nên những sự dồn ép sinh lý, ý niệm tội lỗi và
những xung đột tâm lý thuộc về loại trầm trọng và tê liệt nhứt. Tuy
nhiên, giải pháp đối tượng của vấn đề này không phải là tự do luyến ái,
hay tự do thỏa mãn dục tính. Giải pháp thích nghi là sự thông hiểu một
cách tường tận rằng cơ năng sinh sản sáng tạo của con người là một
quyền năng thiêng liêng. Một cuộc soi kiếp nói: “Ái tình và sự giao hợp
với một thể xác tinh khiết là cái kinh nghiệm thiêng liêng cao quý nhất
một linh hồn có thể thâu thập trong một kiếp sống ở cõi trần” Quan điểm
này được nhấn mạnh trong nhiều cuộc soi kiếp, và người ta nhận thấy nó
trong những trường hợp mà một người phụ nữ muốn biết xem nàng có thể nào
có con được không? Trong những trường hợp đó đương sự thường yêu cầu
một cuộc khám bệnh rằng Thần Nhãn để xem nàng có thể tự chuẩn bị bằng
cách nào để thụ thai và sinh sản.
Trong những cuộc khán bệnh đó,
những phép điều trị về cơ thể nêu ra rất nhiều, nhưng không có gì khác
thường. Có khác chăng là sự soi xét bằng Thần Nhãn giúp cho ông Cayce
biết rõ nhu cầu của mỗi cơ thể riêng biệt của mỗi người tùy theo trường
hợp. Tuy nhiên, những cuộc soi kiếp cũng nhấn mạnh về tánh cách quan
trọng của sự chuẩn bị tư tưởng và tâm linh, vì thái độ tinh thần của
người mẹ sẽ hấp dẫn những linh hồn cùng có một tâm trạng tương tự, theo
luật “Đồng thinh tương ứng; đồng khí tương cầu.”
Cuộc soi kiếp
nói: Linh hồn này hãy nên biết rằng sự chuẩn bị tư tưởng và tâm linh là
một việc có tính cách sáng tạo, cũng cần thiết như sự chuẩn bị về thể
chất, có lẽ còn cần thiết hơn.
Đối với một người đàn bà ba mươi
sáu tuổi hỏi ông rằng bà ấy còn hy vọng có con hay không, cuộc soi kiếp
nói: “Bà hãy tự luyện mình thành một khí cụ tốt lành hơn về mọi mặt thể
chất, trí não, và tâm linh. Người đời thường có thói quen chỉ xem sự thụ
thai như một việc làm thuộc về thể chất mà thôi.”
Một cuộc soi
kiếp khác nói: “Do sự giao hợp, con người có dịp tạo nên một đường vận
hà để cho đấng Tạo Hóa có thể hành động xuyên qua nàng bằng quyền năng
Sáng Tạo của Ngài. Vậy đương sự hãy cẩn thận coi chừng thái độ của mình
và của người bạn trăm năm của mình khi các người tạo nên các cơ hội đó,
vì linh hồn đầu thai vào làm con các người sẽ có một tánh tình tùy thuộc
một phần nào ở thái độ của cha mẹ.”
Những cuộc soi kiếp cho biết
rằng những mối liên hệ giữa cha mẹ và con cái không phải do sự ngẫu
nhiên tình cờ. Những sợi dây duyên nghiệp thường đã có sau từ những kiếp
trước giữa người con với người cha và cả người mẹ hoặc chỉ người cha
hay người mẹ. Trong những trường hợp rất hiếm mà sợi dây liên lạc đó
không có, thì tình trạng gia đình tạo nên cái hoàn cảnh thích ứng với
nhu cầu tâm lý của đứa trẻ. Những hồ sơ Cayce cho biết rằng vài đứa trẻ
có một sợi dây duyên nghiệp với người cha mà không có với người mẹ, hoặc
đảo ngược lại, có duyên nghiệp với người mẹ mà không có người cha Trong
những trường hợp đó, thường có một trạng thái dửng dưng giữa đứa con
với người cha hay người mẹ mà nó mới quen biết lần đầu tiên trong kiếp
này. Những trường hợp dưới đây chỉ cho ta thấy một cách đặc biệt nhiều
mối liên hệ khác nhau giữa cha mẹ và con cái.
Hai mẹ con người kia
có một tình mẫu tử rất khắn khít: Họ đã là hai mẹ con trong kiếp trước.
Hai cha con người kia cũng có một tình phụ tử nồng nàn: Trong một kiếp
trước họ đã là hai anh em trong một gia đình. Một người mẹ không hạp với
con gái của bà: Họ chưa từng có sự liên hệ gì với nhau ở trong kiếp
trước. Giữa một người con gái kia với người mẹ của cô ấy, chỉ có một sự
dửng dưng lạnh nhạt; cuộc soi kiếp cho biết kiếp trước hai người là hai
chị em ruột nhưng lại có một mối bất hòa trầm trọng: Hai người thường
xung đột cãi vả lẫn nhau, và vẫn chưa hòa thuận trở lại. Hai cha con
người kia kiếp trước là hai vợ chồng. Một người mẹ và con gái thường
xung đột lẫn nhau: Trong kiếp trước, họ là hai bạn gái tranh dành nhau
một người đàn ông và tranh dành địa vị. Trong hai mẹ con người, người
con trai hay lấn át người mẹ: Trong kiếp trước, họ là hai cha con, với
sự liên hệ gia đình trái ngược lại.
Những trường hợp đó chỉ rằng
sự hấp dẫn của con cái đến với cha mẹ là do bởi sự hành động của nhiều
nguyên tắc. Những nguyên tắc đó nhiều đều ẩn dấu đối với cặp mắt phàm
của chúng ta Những hồ sơ soi kiếp của Cayce giúp cho ta có những tài
liệu suy gẫm, nhưng không có đầy đủ chi tiết để cho ta có thể dịch ra
thành một định luật nhất định.
Theo luật hấp dẫn, những người đồng
thanh khí và giống nhau về tâm tình tánh chất thường rút lại gần nhau
hơn. Nhưng đồng thời vì những lý do duyên nghiệp nợ nần hay nhân quả nào
đó, những kẻ thù nghịch cạnh tranh nhau và tâm tính tánh chất đối chọi
nhau thường cũng hay rút lại gần nhau. Một thí dụ điển hình là trường
hợp một đứa trẻ được ông Cayce soi kiếp khi mới lên năm tuổi. Cuộc soi
kiếp cho biết những đặc tính của đứa trẻ là thói ích kỷ, sự thờ ơ lãnh
đạm và ngoan cố không chịu phục thiện khi y có lỗi. Y có những khả năng
tiềm tàng của một nhà khảo cứu khoa học.
Trong một kiếp trước, y là một
nhà sưu tầm về tiềm lực của hơi nước như là một khí cụ sản xuất tinh
lực. Ở một kiếp trước, y là một chuyên viên hóa học chế tạo cac loại
chất nổ, trong kiếp trước nữa y là một chuyên viên ngành cơ khí và đi l i
về dĩ vãng một kiếp nữa, người ta thấy y là một kỹ sư điện khí ở châu
Atlantidẹ Bốn kiếp dành cho sự hoạt động tích cực về ngành khoa học thực
dụng đã làm cho đương sự hoạt động tích cực về ngành khoa học thực dụng
đã làm cho đương sự phát triển những khả năng đặc biệt, nhưng y lại quá
thiên về giá trị của khoa học vật chất mà khinh rẻ giá trị của tình
thương, đức tính mỹ lệ, và sự hợp nhất tâm linh của mọi loài vạn vật.
Bởi
đó, y có một thái độ thản nhiên lạnh lùng đối với người chung quanh.
Cuộc soi kiếp còn cho biết rằng đứa trẻ ấy sẽ thành công vẻ vang trong
kiếp này nếu nó theo đuổi ngành kỹ thuật điện khí, hay cơ khí dùng sức
mạnh của hơi nước, và gồm một công việc có dùng đến sự tính toán bằng
phép đại số. Lời tiên tri đã tỏ ra hoàn toàn đúng. Đứa trẻ ấy bây giời
đã trở nên một viên kỹ sư điện khí và những điểm chính trong tánh tình
của y đều giống y như cuộc soi kiếp đã tiết lộ, tuy rằng y đã có một sự
thay đổi tánh tình nhờ ảnh hưỡng của hoàn cảnh gia đình trong kiếp hiện
tại.
Nếu nói rằng theo luật đồng khí tương cầu, những người giống
nhau sẽ rút lại gần nhau, thì trong trường hợp này có lẽ đứa trẻ đã sinh
ra trong một gia đình khoa học trí thức, mà người cha có lẽ là một kỹ
sư và người mẹ là một giáo sư toán pháp ở một trường Đại Học chẳng hạn.
Nhưng trái lại, y lại sinh ra trong một gia đình gồm những người nuôi lý
tưởng vị tha, không có óc hoạt động thực tế. Người cha có óc tín ngưỡng
tôn giáo và thích hoạt động xã hội; người mẹ tuy rằng bề xã giao hơi
kém, nhưng có khuynh hướng hoạt động xã hội do ảnh hưởng của người chạ
Người anh cả của đứa trẻ cũng là một người có lý tưởng vị tha, và sự
hoạt động chính của y trong đời là giúp đỡ kẻ khác.
Xét về bề
ngoài, thì sự đầu thai của một đứa trẻ như thế trong gia đình kể trên
chưa thể nói là do nhân quả gây nên. Tuy nhiên, dường như có một nguyên
tắc sửa đổi, chấn chỉnh những điều thiên lệch để đem lại sự thăng bằng
trong tâm tính của một con người.
Có thể rằng linh hồn đứa trẻ đã
nhận thấy sự khuyết điểm của mình và đã chọn lựa đầu thai vào một gia
đình có lý tưởng vị tha giúp đời, để cho y có cơ hội phát triển khía
cạnh vị tha bác ái trong tâm tính của y.
Trong kiếp hiện tại, đứa
trẻ luôn luôn có dịp tiếp xúc với những người mà mục đích chính trong
đời là phụng sự kẻ khác. Óc thực tế của y thường ảnh hưởng đến những
người khác trong gia đình một cách lành mạnh, trái lại, lý tưởng vị tha
của họ hằng ngày đều nhắc nhở cho y biết rằng ngoài ra những giá trị
thực tế và vật chất của cuộc đời, còn có những giá trị đạo đức tâm linh.
Tuy rằng kinh nghiệm đó không có đem đến một sự thay đổi hoàn toàn
trong cái giá trị căn bản của cuộc đời y là khoa học thực dụng, nhưng nó
đã ảnh hưởng đến con người của y bằng cách làm cho y trở nên bớt ích kỷ
khô khan và trở nên cởi mở hồn nhiên hơn về mặt giao tế ngoài xã hội.
Như
thế, việc chọn lựa hoàn cảnh để đầu thai dường như đã đạt được mục đích
sửa đổi tâm tính và cuộc đới của y ít nhất là một phần nào. Những tài
liệu hồ sơ Cayce chứng minh một cách đầy đủ rằng những linh hồn sắp sửa
tái sinh trở lại cõi trần có một ít là được tự do trong việc chọn lựa
hoàn cảnh và gia đình nào họ muốn đầu thai đây cũng có thể là duyên
nghiệp hay nợ nần gì với người cha, người mẹ. Có vài bằng chứng chỉ rằng
đối với những linh hồn kém tiến hóa, thì sự tự do chọn lựa ấy có giới
hạn, nhưng nói chung thì sự lựa chọn cha mẹ để đầu thai dường như là một
cái đặc quyền của mỗi linh hồn.
Người ta không dễ hiểu lý do tại
sao một linh hồn lại cố tình chịu đầu thai vào một nhà ổ chuột tôi tăm
trong ngõ hẻm, với những cha mẹ bần cùng khốn khó, một thể xác yếu đuối
bệnh tật, và những hoàn cảnh bất lợi khác. Xét qua bề ngoài thì dường
như một sự chọn lựa như thế có vẻ vô lý, nhưng nếu xét kỹ người ta thấy
rằng điều ấy cũng có một lý do sâu xa về nhân quả – nghiệp báo nên họ
mới bị đầu thai vào đó nhưng lại có khi một linh hồn cố ý chọn lựa một
hoàn cảnh xấu xa bất lợi để làm phương tiện lấy đà, hầu có nỗ lực cố
gắng vượt qua mọi chướng ngại và chiến thắng nghịch cảnh.
Có một
điều lạ là sự tự do chọn lựa ấy dường như là có một ảnh hưởng đến tỷ lệ
chết yểu của trẻ con. Nói chung thì khi sinh ra, một linh hồn có thể
thoáng thấy một phần nào cái viễn ảnh cuộc đời tương lai của mình ở thế
gian, khi y chọn lựa cha mẹ của y và hoàn cảnh để đầu thai. Nhưng vì con
người còn có quyền xử dụng ý chí, tự do nên luật Tự Nhiên khiến cho y
không thể nào biết trước tất cả mọi việc xảy ra trong tương lai. Sau khi
đã chọn lựa cha mẹ và sinh ra ở thế gian, một linh hồn có thể nhận thấy
rằng những người làm cha mẹ của y không ứng đáp lại đúng y như nguyện
vọng của y sở cầu. Bởi đó, cái mục đích của y nhắm khi đầu thai vào làm
con trong gia đình ấy đã hỏng, vì y đã gặp phải những hoàn cảnh khác
hẳn, nên linh hồn bèn không muốn sống nữa và tự ý rút lui.
Dưới
đây là một trường hợp một thiếu phụ mà cuộc soi kiếp cho biết rằng trong
một kiếp trước, nàng đã bị chết yểu. Kiếp này nàng đầu thai trở lại một
gia đình nọ do bởi sự hấp dẫn của người mẹ, nhưng sau khi sinh ra nàng
được ít lâu thì người cha bắt đầu say sưa chè chén, trở nên thô lỗ cộc
cằn và đánh đập vợ con. Thất vọng vì cảnh gia đình ấy, linh hồn đứa trẻ
bèn quyết định không sống nữa và sau một cơn đau ốm vặt thuộc về bịnh
trẻ con, nàng bèn từ giả cõi trần để trở về chốn cũ! Cuộc soi kiếp cho
biết rằng những sự “Rút lui” như thế là những hiện tượng rất thông
thường. Nếu như vậy, thì sự chết yểu của trẻ con, ít nhất trong vài
trường hợp, có thể ví dụ như sư rút lui âm thầm của một khán giả đi xem
hát, bị thất vọng khi xem một màn đầu không được hấp dẫn, bèn lẳng lặng
đứng dậy bỏ ra về. Trong vài trường hợp như trường hợp kể trên, một sự
rút lui như thế có thể là do sự lỗi lầm của những người làm cha mẹ;
nhưng trong những trường hợp khác, nó chỉ là do sự xét đoán sai lầm của
linh hồn đầu thai.
Đôi khi, sự chết yểu của một đứa con vừa sinh
ra có thể được coi như một kinh nghiệm đau khổ cần thiết cho những người
làm cha mẹ. Đứa con chỉ sinh ra có một lúc ngắn ngủi với một tinh thần
hy sinh, để đem lại cho một bài học đau khổ mà họ cần dùng, và nhờ đó họ
sẽ có cơ hội tiến hóa về tinh thần.
Một điểm lý thú khác đã được
xác nhận rõ ràng và nhiều lần trong những tập hồ sơ của Cayce, là lúc
thụ thai không phải là lúc nào linh hồn của đứa trẻ nhập vào trong bụng
người mẹ. Những cuộc soi kiếp thường khuyên các bà mẹ có mang hãy giữ
gìn tư tưởng trong thời kỳ thai nghén, vì những tư tưởng của người mẹ có
thể ảnh hưởng đến cái bào thai, và quyết định một phần nào về loại linh
hồn nào sẽ đầu thai vào làm cho con họ.
Về điểm này và nhiều điểm
khác nữa, người ta cần có những cuộc sưu tầm bằng khả năng khiếu Thần
Nhãn. Sự sinh sản không phải là một sự tình cờ, và việc một đứa trẻ lọt
lòng mẹ để chào đời không phải là một điều giản dị như người ta có thể
tưởng. Về vấn đề này cũng như bao nhiêu vấn đề khác trên địa hạt nhân
sinh, những cuộc soi kiếp của ông Cayce đã tỏ ra vô cùng lý thú và hữu
ích vì nó hé mở những chân trời mới lạ để dìu dắt những cuộc sưu tầm
khảo cứu của người đời nay.
*Kết: Thực ra chỉ có những người
nghiệp tương đối nhẹ mới có thể ước nguyện lựa chọn cha mẹ. Những người
cực thiện sẽ đầu thai ngay về cõi lành (cõi trời), những người cực ác sẽ
bị lôi kéo ngay vào các nơi xấu (địa ngục hay ngạ quỷ ), không thể tự
mình quyết định nơi đầu thai.
Nói chung vẫn chủ yếu do duyên
nghiệp của họ với người cha và người mẹ hoặc nghiệp người ấy đã gây tạo
khi còn sống thế nào họ sẽ thác sinh về cõi giới tương ứng.
Bài
trên chủ yếu nêu các vấn đề xảy ra trên thực tế, còn những việc sâu xa
và các đường đi của duyên nghiệp hay nhân quả thì không thể dùng thuật
thôi miên soi kiếp mà biết được vì rất phức tạp và còn rất nhiều nguyên
do khác nữa, do đó cũng có những nhận xét chủ quan. Chúng ta đọc để tham
khảo và suy ngẫm là chính, chứ không có bất kỳ một ai rõ được đường đi
tường tận của Luật Nhân quả, nghiệp báo và luân hồi.
Nguồn: Niemphat.vn
No comments:
Post a Comment