Giáo sư Lê Xuân Khoa , cựu phó Viện trưởng
Viện Đại Học Sài Gòn (Ảnh: Uyên Nguyên)
Trong Hồi Ký Viết Trên Gác Bút , nhà văn Nguyễn Thuỵ Long (cháu ruột nhà văn Nguyễn Bá Học, người nổi tiếng với câu Đường đi khó , không khó vì ngăn sông cách núi mà khó vì lòng người ngại núi e sông ), kể lại thảm cảnh một vụ tịch thu sách năm 1975 sau khi chính quyền mới tiếp quản Sài Gòn :
– Một cửa hiệu chuyên cho thuê truyện tại đường Huỳnh Quang Tiên bên cạnh Nhà Thờ Ba Chuông tại Phú Nhuận phát nổ khi đoàn thu gom sách mang băng đỏ xâm nhập tiệm . Ông chủ nhà sách mời tất cả vào nhà . Rồi một trái lựu đạn nổ . Chuyện xảy ra không ai ngờ . Đương nhiên là có đổ máu … Cả chủ tiệm cũng mạng vong …
– Một cửa hiệu chuyên cho thuê truyện tại đường Huỳnh Quang Tiên bên cạnh Nhà Thờ Ba Chuông tại Phú Nhuận phát nổ khi đoàn thu gom sách mang băng đỏ xâm nhập tiệm . Ông chủ nhà sách mời tất cả vào nhà . Rồi một trái lựu đạn nổ . Chuyện xảy ra không ai ngờ . Đương nhiên là có đổ máu … Cả chủ tiệm cũng mạng vong …
Câu chuyện ông chủ hiệu sách uất ức thà chết còn hơn nhìn băng đỏ
gom và ném sách đi đốt chỉ là một trong những bi kịch của miền Nam sau
1975 . Không chỉ đốt sách , con người cũng bị triệt , đến tận cùng . Nhà
Văn , Nhà Báo , Nhà Giáo , Bác Sĩ , Kỹ Sư … đều bị tống đi học tập cải
tạo . Miền Nam không chỉ đột nhiên rơi vào tình trạng thống khổ cùng cực
mà còn chứng kiến những cảnh không thể tưởng tượng : Phu Nhân Đại Tá đi
bán rong , Vợ Giáo Sư buôn vỉa hè , Thầy Giáo mưu sinh bằng xích lô ,
ký giả chạy xe lam , con sĩ quan xếp hàng mua từng ký gạo … Những hình
ảnh đã đột ngột làm biến dạng miền Nam sau 1975 .
Trong số đối tượng hứng chịu sự
trả thù vô lý và nghiệt ngã có những trí thức đỉnh cao mà trí tuệ họ
xứng đáng đại diện cho dân tộc Việt . Điều đáng tiếc nhất là một số trí
thức này đã phải trả giá cho lòng yêu nước , khi họ chọn ở lại mà
không đi nước ngoài sau 1975 , với niềm tin ngây thơ vào chế độ mới và
với nhiệt tâm đóng góp tái thiết sau chiến tranh . Quê hương , với Họ ,
là nước nhà ; là đất nước và mái nhà .
Giáo sư Phạm Hoàng Hộ
Sinh
năm 1929 tại Cần Thơ , GS Phạm Hoàng Hộ có bằng Cử Nhân Khoa Học , Thủ
Khoa Thực Vật Học , Paris ; bằng Cao Học Vạn Vật Học , Paris ; bằng Thạc
Sĩ /Agrégé Vạn Vật Học ; bằng Tiến sĩ Khoa Học / Vạn Vật Học , Paris .
GS Hộ từng là Giám Đốc Hải Học Viện Nha Trang ; Khoa Trưởng Đại Học Sư
Phạm Sài Gòn ; Tổng Trưởng Quốc Gia Giáo Dục ; Viện Trưởng Sáng Lập Viện
Đại Học Cần Thơ … Ông cũng là Hội Viên Hội Thực Vật Học Pháp ; Hội Viện
Hội Thảo Học Quốc Tế ; Hội Viện Hội Viện Trưởng Đại Học Quốc Tế ; Cố
Vấn Môi Sinh Uỷ Ban Quốc Tế Sông Mekong … GS Hộ là người vận động cho
bằng được việc thành lập ngôi trường đại học đầu tiên ở miền Tây vào
giữa thập niên 1960 . Đó là Viện Đại Học Cần Thơ , nơi canh nông trở
thành môn khoa học chính quy được đào tạo như một chuyên ngành đại học .
Sau 9 năm sống dưới chế độ mới , GS Hộ ,
từ khát vọng , trở nên thất vọng . Môi trường giáo dục bị thay đổi hoàn
toàn . Nó bị cào xé rách nát để thay bằng chiếc áo thô đính băng đỏ .
Cuối cùng , năm 1984 , khi được Chính Phủ Pháp mời sang thỉnh giảng , GS
Hộ quyết định ở lại Paris . Tại Pháp , ông vùi mình vào Viện Bảo Tàng
Thiên Nhiên Quốc Gia Paris (thuộc hệ thống Đại Học Sorbonne) , miệt
mài làm việc suốt sáu năm , bổ túc cho công trình Cây Cỏ Việt Nam của
Ông – một công trình đồ sộ có giá trị đến mức giới thực vật học thế giới
phải nghiêng mình ngưỡng mộ .
Giáo sư Nguyễn Duy Xuân
Không
như GS Hộ , GS Nguyễn Duy Xuân có số phận cay nghiệt gấp nhiều lần .
Từng được GS Hộ mời về Viện Đại Học Cần Thơ thay mình ở ghế viện
trưởng , GS Xuân tốt nghiệp Tiến Sĩ Kinh Tế tại Đại Học Vanderbilt,
Mỹ . GS Xuân cũng là vị Tổng Trưởng Bộ Văn Hoá Giáo Dục cuối cùng của
Việt Nam Cộng Hoà . Một bài báo trên Thanh Niên ( 28/04/2015 ) nhắc
lại :
– Theo GS Võ Tòng Xuân , trước ngày 30/04/1975 , những người nào có chức sắc ở Viện Đại Học Cần Thơ đều được cấp một tấm giấy coi như giấy thông hành để ra nước ngoài khi có biến cố . Với chức vụ tương đương Bộ Trưởng, GS Nguyễn Duy Xuân có thể ra nước ngoài bất cứ lúc nào nếu muốn nhưng Ông vẫn ở lại Việt Nam .
– Theo GS Võ Tòng Xuân , trước ngày 30/04/1975 , những người nào có chức sắc ở Viện Đại Học Cần Thơ đều được cấp một tấm giấy coi như giấy thông hành để ra nước ngoài khi có biến cố . Với chức vụ tương đương Bộ Trưởng, GS Nguyễn Duy Xuân có thể ra nước ngoài bất cứ lúc nào nếu muốn nhưng Ông vẫn ở lại Việt Nam .
Không chỉ không được trọng vọng , GS Xuân
còn bị tống đi tù , bị giam tại trại Hà-Nam-Ninh . Cuối cùng , năm
1986 , GS Xuân bỏ mạng chốn thâm sơn cùng cốc . Nhắc lại điều này, BS
Ngô Thế Vinh không giấu được chua xót :
– Tôi không thể không tự hỏi nếu không có 11 năm giam hãm đầy đoạ độc ác và vô ích của những người Cộng Sản thắng cuộc , nếu GS Nguyễn Duy Xuân, một Tiến Sĩ Kinh Tế tài ba và giàu lòng yêu nước , vẫn tiếp tục ở lại xây dựng Viện Đại Học Cần Thơ với nhịp độ 1966-1975 thì không biết Viện Đại Học Cần Thơ và ĐBSCL sẽ phát triển và tiến xa tới đâu …
– Tôi không thể không tự hỏi nếu không có 11 năm giam hãm đầy đoạ độc ác và vô ích của những người Cộng Sản thắng cuộc , nếu GS Nguyễn Duy Xuân, một Tiến Sĩ Kinh Tế tài ba và giàu lòng yêu nước , vẫn tiếp tục ở lại xây dựng Viện Đại Học Cần Thơ với nhịp độ 1966-1975 thì không biết Viện Đại Học Cần Thơ và ĐBSCL sẽ phát triển và tiến xa tới đâu …
Sẽ phát triển và tiến xa tới đâu, nếu
Việt Nam sau 1975 trân trọng trí tuệ và tài năng của các trí thức như GS
Phạm Hoàng Hộ , GS Nguyễn Duy Xuân, GS Lê Xuân Khoa, cụ Bùi Diễm, BS
Ngô Thế Vinh, GS Nguyễn Tiến Hưng , GS Nguyễn Mạnh Hùng , ông Đỗ Văn
Thảo ( cựu Phó Tổng Thanh Tra Ngân Hàng Quốc Gia ; bị đi cải tạo ),
GS Vũ Quốc Thông (Khoa Trưởng Đại Học Luật Khoa Sài Gòn , cũng bị đi
tù) ? … Sẽ phát triển và tiến xa tới đâu , nếu chế độ cai trị – luôn dễ
bị kích động một cách thái quá cái gọi là tự hào dân tộc –
biết dùng hiền tài , để sự tự hào có phần đóng góp của những trí thức
đỉnh cao và trí thức đúng nghĩa ? Trí thức chân chính là những người
không chỉ thể hiện lòng yêu nước bằng ngôn từ . Họ là những người
không bao giờ ngưng bồn chồn lo lắng cho sự tụt hậu nước nhà cùng sự
lấn át ngoại tiểu bang .
Trong bài viết trên tờ Một Thế Giới ngày
02/0272017 , tác giả Lê Học Lãnh Vân thuật lại tâm sự của GS Phạm Hoàng
Hộ trong một lần gặp ông tại Pháp giữa thập niên 1980 :
– Nhiều người China từ đại lục và cả từ Đài Loan, Singapore đã đến tìm học các bộ sưu tập thực vật Đông Dương của Pháp . Tôi không biết họ có chủ trương gì đó không . Tài nguyên nước mình , mình phải biết . Mình không biết mà người ta biết thì người ta xài hết của dân mình . Lãnh vực nào cũng vậy riết rồi người ta áp chế mình, ăn trên ngồi trước còn mình cắm đầu dưới đất, tiếng là có độc lập mà còn thua hồi thuộc Pháp ! …
– Nhiều người China từ đại lục và cả từ Đài Loan, Singapore đã đến tìm học các bộ sưu tập thực vật Đông Dương của Pháp . Tôi không biết họ có chủ trương gì đó không . Tài nguyên nước mình , mình phải biết . Mình không biết mà người ta biết thì người ta xài hết của dân mình . Lãnh vực nào cũng vậy riết rồi người ta áp chế mình, ăn trên ngồi trước còn mình cắm đầu dưới đất, tiếng là có độc lập mà còn thua hồi thuộc Pháp ! …
Chưa ai thống kê cho thấy có bao nhiêu
trí thức kiều bào vang danh nước ngoài nhưng không được mời về hoặc họ
không buồn về . Thậm chí có những người bị cấm về , dù hệ thống tuyên
truyền chế độ luôn ra rả về sự trân trọng đón chào trí thức hải
ngoại . Một số trí thức đã quyết định không về . Họ không tin và họ có
đủ bằng chứng để không tin nhà cầm quyền . Khi những Nguyễn Quang A ,
Nguyễn Huệ Chi , Phạm Toàn , Chu Hảo … còn là thành phần phản động thì không ai còn ngây thơ để ngộ nhận sự thành thật của nhà cầm quyền đối với trí thức . 45 năm sau 1975 , chế độ cai trị vẫn tiếp tục chính sách triệt người , triệt cả chính người của họ . Trí thức muốn đóng góp và xây dựng nhằm thay đổi chính sách đã và sẽ không có cơ hội .
Một trong những trí thức mà khi tiếp
xúc , tôi luôn nhìn thấy sự nhiệt tình dữ dội của ông dành cho nước
nhà . Nói chuyện với ông có cảm giác như đang ngồi trước một sinh viên
tràn đầy nhiệt huyết , dù ông đã gần 80 tuổi . Đó là BS Ngô Thế Vinh .
Ông là một trong những người Việt Nam luôn nặng tình với miền Tây , với
đồng bằng sông Cửu Long , một cách bền bỉ , dù quê quán ông ở Hà Nội .
Ông là tác giả quyển khảo cứu Cửu Long Cạn Dòng , Biển Đông dậy sóng .
Ông cũng là tác giả quyển Mekong , Dòng Sông Nghẽn Mạch … Việt Nam không
chỉ có dòng Mekong nghẽn mạch . Việt Nam đang bị nghẽn cả dòng trí tuệ
của các bậc trí thức minh tuệ – hùng tâm .
Mạnh Kim 2020/04/27
No comments:
Post a Comment