Khi
tôi trả lời một cách đầy kiêu hãnh rằng mình là người Việt Nam, chị im lặng,
cúi đầu, rồi ngẩng lên nhìn thẳng vào mắt tôi, chậm rãi nói: “Xin lỗi bạn,
nhưng tôi phải nói thật lòng với bạn rằng: Người Việt của bạn là những người
hung dữ”.
Người
Việt chúng ta là những người hung dữ.
Đấy
là tình cảnh một dịp gần đây, trong buổi giao lưu giữa những người nước ngoài
hiện sống và làm việc tại thành phố Jakarta (Indonesia), tôi gặp một người phụ
nữ Mỹ gốc châu Phi. Trò chuyện vui vẻ với nhau một lúc, chị hỏi tôi từ đâu đến.
Câu
nói của người phụ nữ làm tôi choáng váng. “Tại sao chị lại nghĩ vậy?” – Tôi vội
hỏi và chị giải thích rằng vừa qua Việt Nam du lịch.
Đến
TP.HCM, khi đang say sưa với cảnh vật và con người, chị đứng bên đường chụp ảnh
khu nhà thờ Đức Bà bằng chiếc điện thoại vừa mới mua thì bị kẻ cướp lao đến giật
phắt điện thoại, rồi vút đi bằng xe máy.
Vụ
cướp giật không chỉ để lại cho chị những vết sẹo trên cơ thể (do bị kéo té ngã)
mà còn cú sang chấn về tinh thần: Hiện nay, mỗi khi nhìn thấy hoặc nghe tiếng
xe máy chị lại hoảng hốt.
Khi
tôi xin lỗi chị và nói rằng chính quyền TP.HCM đang làm các bước để cải thiện sự
an toàn cho khách du lịch, người phụ nữ ấy lắc đầu và nói cái cần sửa nhất là bản
tính tham lam, bon chen và hung hăng của người Việt.
Chị
cho biết, trong khoảng ba tuần ở Việt Nam, chị đã quan sát thấy cái bản tính ấy
trong nhiều hoàn cảnh: Người ta không chịu xếp hàng mà sẵn sàng chen lấn, xô đẩy;
người ta bóp kèn inh ỏi trên phố để cố nhanh hơn vài giây, vài phút.
Khi
va quẹt vào nhau trên phố, thay vì nhã nhặn giải quyết vụ việc, người ta sửng cồ,
sẵn sàng lao vào nhau.
Người
ta sẵn sàng bắt chẹt khách du lịch chỉ vì lợi nhuận trước mắt: Khi trả giá để
mua hàng, chị đã bị người bán nói những lời rất khó nghe, thậm chí còn xúc phạm
đến nguồn gốc châu Phi của chị. Người phụ nữ thở dài nói rằng chị đã ở
Indonesia 5 năm nhưng chưa bao giờ sa vào hoàn cảnh tương tự và so với những gì
chị đã trực tiếp trải nghiệm, người Indonesia vô cùng hiền lành, tốt bụng, vui
vẻ và tử tế.
Người
Việt có hung dữ không? Câu hỏi ấy đeo đẳng tôi suốt nhiều tháng trời để rồi khi
về Việt Nam lần gần đây nhất, tôi đã có câu trả lời.
Tại
con hẻm nhỏ ở quận Gò Vấp, tôi chạy xe kế bên người mẹ vừa đón con đi học về.
Giây phút hội ngộ của hai mẹ con sau một ngày làm việc và học tập vất vả đáng lẽ
là những giây phút hạnh phúc, đầy ắp tiếng cười, nhưng không phải. Người mẹ vừa
chạy xe vừa ra rả rủa xả con mình trong khi cô con gái nhỏ co rúm vì sợ hãi.
Người
mẹ chửi con vì điểm kiểm tra toán hôm đó không như bà mong đợi. Nhìn nét mặt
đau khổ của cô con gái, tôi tự hỏi người phụ nữ đang dạy con những gì? Hay bà
đang cố gắng gieo mầm mống của sự hung dữ vào tâm hồn trẻ nhỏ?
Người
Việt chúng ta là những người hung dữ., Khi chửi rủa con trẻ, phải chăng người mẹ
đang gieo mầm tính xấu cho nó
Tôi
tự hỏi có phải vì điều kiện sống quá áp lực, vì hoàn cảnh kinh tế bức bối mà
con người ta dễ dàng trút giận lên nhau?
Trong
những năm gần đây, tôi sống và làm việc ở hai thành phố lớn với môi trường khá
tương tự TP.HCM. Đó là Manila (Philippines) và Jakarta (Indonesia).
Đây
là hai thành phố có tình trạng người thất nghiệp khá cao, an sinh xã hội thấp,
nhiều người nghèo và đặc biệt với tình trạng ùn tắc giao thông dễ khiến người
ta nổi nóng.
Nhưng
thật lạ, trong bốn năm sống ở Manila và một năm rưỡi sống ở Jakarta, tôi thấy
trên đường phố, dù kẹt xe đến mấy, ít ai bóp còi.
Văn
hóa xếp hàng ở hai thành phố này cũng vượt trội hơn hẳn các thành phố của Việt
Nam và đặc biệt là tại các cơ sở kinh doanh, tôi chưa từng gặp tình trạng bị
chèo kéo, hăm dọa và bắt nạt như tôi từng gặp mỗi khi về nước.
“Người
Việt là những người hung dữ”, câu nói đó không hẳn là đúng, nhưng tôi thấy sự
hung dữ ngày càng lộng hành và bột phát không chỉ ngoài đường phố mà còn trong
các gia đình (bạo hành phụ nữ, trẻ em, người thân trong gia đình giết nhau vì
mâu thuẫn hay tranh chấp tài sản), trong trường học (bạo hành học sinh), trên mạng
xã hội (người ta có thể thoải mái mạt sát, thóa mạ lẫn nhau). Đặc biệt là các vụ
giết người vì mâu thuẫn nhỏ ngày càng gia tăng.
Tôi
đã nghe cha mẹ tôi kể những câu chuyện rất xúc động về sự tử tế của con người
trong những năm tháng khi đất nước chúng ta còn chìm trong khói lửa chiến
tranh.
Điều
đáng buồn là khi chiến tranh lùi xa, sự tử tế cũng đang dần biến mất nhiều nơi.
Bộ phim “Chuyện tử tế” của đạo diễn Trần Văn Thủy sản xuất năm 1985 đã cảnh báo
về tình trạng ấy. Giờ đây, sau 34 năm, bộ phim vẫn còn nóng hổi tính thời sự.
Theo
lời bình của bộ phim: “Tử tế có trong mỗi con người, mỗi nhà, mỗi dòng họ, mỗi
dân tộc. Hãy bền bỉ đánh thức nó, đặt nó lên bàn thờ tổ tiên hay trên lễ đài của
quốc gia. Bởi thiếu nó, một cộng đồng dù có những nỗ lực tột bực và chí hướng
cao xa đến mấy thì cũng chỉ là những điều vớ vẩn…”.
Vâng,
sự tử tế chính là cái gốc cho sự phát triển bền vững của một xã hội. Nếu chúng
ta không sớm hành động để đánh thức và khích lệ sự tử tế trong mỗi con người, nền
tảng đạo đức xã hội sẽ tiếp tục lung lay, khiến cho những thành tựu phát triển
kinh tế của chúng ta trở nên vô nghĩa.
Nhà văn NGUYỄN PHAN QUẾ MAI
dung rat la dung.
ReplyDelete