Có lẽ những chiếc lá mùa thu đã
nhuộm vàng phần lớn thi ca nhân lọai. Và dường như nếu không có mùa thu thì những
cuộc tình sẽ không còn lãng mạn, thế gian này sẽ không có mặt của thi nhân. Ông
Văn Cao đã khởi đầu sự nghiệp của mình bằng “ Buồn Tàn Thu” để rồi cuộc đời của
người nghệ sĩ tài hoa này cũng tàn theo Giai Phẩm Mùa Thu (trong Nhân Văn Giai
Phẩm). Ông mất đi trong cảnh khôn cùng để lại cho đời một kho tàng âm nhạc quí
giá, cùng sự thương tiếc ngậm ngùi và bao điều suy ngẫm. “ Cây đại thụ” Phạm
Duy bắt chước một bài thơ Tây, phổ bản “Mùa Thu Chết”, để rồi tên tuổi cũng đã
chết theo mùa thu ở cái “thị trấn giữa đàng” bên tận xứ Cali, bởi cái tính kênh
kiệu và tấm lòng phản trắc, chỉ để lại cho những người từng hâm mộ ông sự chua
xót, bẽ bàng. Ở Việt nam ta, nếu “con nai vàng ngơ ngác đạp trên lá vàng khô”
đã làm nên Lưu Trọng Lư, thì bên Tây “Les Feuilles Mortes” đã khắc sâu tên tuổi
Jacques Prévert trong lòng những người mê thơ, yêu nhạc.
Riêng cái thằng vừa
nhà quê vừa ít chữ như tôi dĩ nhiên không thể nào làm nổi một câu thơ và cũng
chẳng mò ra được một nốt nhạc, vậy mà tâm hồn lại rất dễ bị đắm chìm trong những
lời thơ tiếng nhạc – đặc biệt có Mùa Thu trong đó -. Nhưng trong tất cả những
tác phẩm có bóng dáng Mùa Thu trên thế gian này, cái bài làm tôi xúc động nhất,
nằm lòng từ thời tấm bé, không phải là thơ, là nhạc, của ta hay tây, mà lại là
một bài văn xuôi rất học trò của ông Thanh Tịnh.
“ Hằng năm cứ vào cuối thu, lá ngoài
đường rụng nhiều và trên không có những đám mây bàng bạc, lòng tôi lại nao
nức những kỷ niệm hoang mang của buổi tựu trường. Tôi quên thế nào được……….
Buổi mai hôm ấy, một buổi mai đầy
sương thu và gió lạnh, mẹ tôi âu yếm nắm tay tôi dẫn đi trên con đường làng dài
và hẹp…….”
Không biết ngày ấy ông Thanh Tịnh ở tận nơi
đâu, mà sao cái cảnh ngày đầu tiên ông đi học giống tôi như đúc. Tôi cũng được
mẹ nắm tay dẫn đi trên con đường làng Phú Hội (nằm xa xôi ở phía bắc tỉnh
Khánh-Hòa, Trung Việt) cũng vào một buổi sáng có (một chút) sương thu và gió lạnh.
Một năm sau mẹ tôi qua đời, bỏ lại tôi một
mình đi trên con đường dài và hẹp đó với bóng dáng yêu dấu của bà. Rồi cũng một
năm sau nữa, cha tôi đang dạy học ở trường Pháp Việt thì bị Việt Minh bắt đưa
ra Liên Khu Năm làm “công tác xóa nạn mù chữ”. Tôi trở thành thằng bé mồ côi,
phải về ở với ông bà nội. Mỗi ngày tôi vẫn đi trên con đường làng ấy, nhưng bây
giờ tôi đến trường cùng một đám anh em bà con trạc tuổi. Sau này, trong đám học
trò dưới mái trường làng ngày ấy có vài thằng lên núi đi làm “kách mệnh”, có đứa
sớm thành liệt sĩ; nhiều đứa làm quan làm lính cộng hòa, cũng có lắm thằng đuợc
Tổ Quốc Ghi Ơn ; đám còn lại là nông dân năm tháng soi mặt với ruộng đồng,
nhưng cũng có thằng trở thành giáo sư, bác sĩ, lấy vợ rồi đóng đô luôn ở chốn
thị thành, chỉ lâu lâu dắt díu nhau về thăm làng cũ.
Vậy mà cái tình đồng môn của thời thơ ấu đó lại
keo sơn gắn bó đến không ngờ. Mấy ông nông dân có con cháu đi lính, được mấy
ông bạn nhà binh nhận về đơn vị chở che, xuống thành phố đi học có mấy ông bạn
thầy giáo hướng dẫn lo trường lo lớp, nơi ăn chốn ở; đau bệnh thì có mấy thằng
bác sĩ chăm sóc thuốc men, xin vào nhà thuơng miễn phí. Mấy thằng làm quan lâu
lâu về quê chở cả đám nông dân ra thành phố tập tễnh ăn chơi cho biết cái
sự đời. Quân với dân còn hơn cả cá với nước.
Rồi đùng một cái, tháng 4/75, bão tố bất ngờ ập
xuống, kéo theo cơn lốc đổi đời bi thảm: Mấy ông bạn trên núi nghênh ngang về nắm
chính quyền, mấy ông nông dân vốn bao năm an nhàn với đồng áng bây giờ lại được
mấy ông bạn chính quyền ưu ái lấy hết ruộng đất đưa vào hợp tác xã, giúp những
thằng bạn cũ sớm trở thành vô sản, hầu cùng nhau “tiến nhanh tiến mạnh tiến vững
chắc lên thế giới đại đồng”(!). Mây ông lính, ông thầy, ông bác sĩ tự dưng trở
thành “những con nai vàng ngơ ngác”, cuốn gói về quê nương náu để đợi chờ số phận,
lại được mấy ông bạn nông dân ngày trước cho gạo cho tiền, chí ít cũng đãi đằng
được một chầu thịt gà rượu đế, tiễn đồng môn cũ đi vào “trường cải tạo”. Một ít
vào trường sơ cấp, trung cấp trong nam, số còn lại được ưu ái ra trường cao cấp
tận vùng núi rừng Việt Bắc.
Sau sáu, tám, rồi mười mấy năm, thằng
nào còn sống mang tấm thân tàn tạ ra tù, kẻ thì vượt biển, người thì đi diện
HO, lưu lạc tha phương, bỏ lại sau lưng con đường quê, ngôi trường làng cũ với
biết bao kỷ niệm êm đềm. Đất khách gặp nhau, chỉ còn biết vỗ vai an ủi:
Qua cơn mờ
mịt binh đao
đứa còn đứa mất
ba đào tang thuơng
Lạc loài
trên chính quê hương
thôi thì gió cuốn
mười phương cũng đành
Định cư xong, lo góp tiền gom bạc gởi về
cứu đói mấy ông bạn nông dân, bây giờ đã bạc cả mái đầu mà còn trắng cả
đôi tay. Còn mấy ông bỏ trường lên núi hồi còn son trẻ bây giờ phục viên về nằm
nghỉ mát, mỗi ngày uống trà ngắm mấy cái “ bằng khen”, mấy cái huy chương “dũng
sĩ” treo tòn ten trên vách mà hận đời và nguyền rủa cái cánh đồng chí đàn em
đang giàu có ăn chơi trác táng đến tiền tỷ, trong lúc xóm làng vẫn cứ còn nghèo
xơ nghèo xác.
Rồi cũng vào một mùa thu, từ đất khách tôi về
lại quê hương. “Mùa thu năm ấy tôi ra đi, mùa thu này nữa tôi..trở về”. Khoảng
cách giữa hai mùa thu …vậy mà cũng đã hai mươi năm. Tôi về để tìm lại ngôi mộ của
cha tôi được mấy người bạn tù chôn cất sơ sài trên núi bên ngoài trại tù cải tạo
Đá Bàn. Ông đã chết sau gần một năm bị giam trong trại tù này, cũng vào một
ngày cuối thu ảm đạm (mà người ký giấy bắt giam ông lại là thằng học trò
của chính ông ngày trước). Tôi nhờ người cải táng, đưa ông về nằm bên cạnh mẹ
tôi và ông bà nội trong nghĩa trang gia tộc .
Tôi đi một vòng thăm lại làng xưa. Cái làng
Phú Hội của tôi một thời đông vui giàu có như cái tên gọi, bây giờ sao trở nên
vắng vẻ, xơ xác điêu tàn. Đám bạn bè cũ bây giờ chẳng còn mấy đứa, thằng chết,
kẻ ra đi, gởi thân khắp bốn phương trời. Hôm nay, tôi lại đi trên con đường
làng cũ, vẫn con đường dài và hẹp mà ngày xưa mẹ tôi âu yếm dắt tay tôi tới lớp.
Hôm nay cũng có nhiều sương thu và gió lạnh, tôi đi một mình trơ trọi, chỉ còn
đâu đây bóng dáng, tiếng nói tiếng cười của đám bè bạn ngày xưa rì rào trong
gió:
Tôi về đứng trước ngôi trường
cũ
nhìn xuống làng xưa chạnh nỗi
niềm
nhấp nhô những mái nhà rêu phủ
thương hải tang điền mấy biến
thiên
Tôi về xuôi một dòng sông chảy
con nước vô tình lặng lẽ trôi
hiểu nghĩa cuộc đời đành không
thể
hai lần tắm ở một dòng thôi …
…
Tôi về – có phải sông về biển
sao nghe từng con sóng não nề
như thể bây giờ là cổ tích
tôi về – chỉ gặp lại mình . .
.tôi
Bây giờ nhờ tiền tài trợ của mấy ông tư
bản, nên ngôi trường vừa được xây cất lại khang trang. Có lẽ học sinh cũng vừa
mới tựu trường, nên cờ xí khẩu hiệu còn đỏ cả sân trường. Cái trường mang tên
làng Phú Hội ngày xưa bây giờ đã được đổi tên thành “Trường Lê văn Tám”. Nhìn
các em bé sắp hàng vào lớp mà lòng tôi cứ bâng khuâng. Không phải vì vừa mới
tìm lại được bóng dáng của mình ngày trước, mà vì thấy thương và tội nghiệp cho
các cháu học trò. Không biết mỗi ngày phải học thuộc lòng những bài “thơ
trong tù” của bác, thơ “Khóc ông Lê Nin” của nhà thơ lớn Tố Hữu, có bao nhiêu
em đã “từ ấy trong tôi bừng nắng hạ, mặt trời chân lý chói qua tim”(!) (thơ
T.H), và liệu các em có còn đọc được cái bài văn xuôi “ hằng năm cứ vào cuối thu, lá ngòai đường rụng
nhiều và trên không có những đám mây bàng bạc..” hồn nhiên và dễ thương của ông Thanh Tịnh
mà thế hệ cha ông ai cũng nằm lòng? Các em có xót xa khi biết trường của các em
mang tên “anh hùng Lê văn Tám”.mà các em được dạy như là một tấm gương., lại là
một người không hề có thật, mà chỉ là nhân vật trong phim truyện của đạo diễn
Phan Vũ ( xem Báo Thế Giới – Hà Nội số 39 (154) ngày 27.09.04 trang
22-23, website Talawas ngày 11.10.04 / Quang Hùng , đài BBC chương trình
ngày 15.10.04)
Rồi mới đây bà hiệu trưởng Trần Thanh
Vân đầy quyền uy (dưới những ô dù) kéo theo một nhóm thầy cô vây cánh của trường
chuyên Lê Quí Đôn nào đó ở “thành phố mang tên bác” thản nhiên lấy tiền đô la,
làm hồ sơ ma nhận cả một đám học trò dốt nát, con cháu của những đại gia và các
ngài quan lớn (trong đó có con trai của đồng chí chánh thanh tra sở giáo dục
thành phố) vào ngôi trường chuyên một thời có tiếng.
Tôi nghiệp, chẳng
lẽ mới lớn lên, các em đã phải học những điều gian dối, và tương lai các
em sẽ ra sao với một nền giáo dục và văn hóa “phong bì ”?
Cũng may mà các em còn bé và ở tận một vùng quê, nên không biết nhiều về đạo đức của các nhà “mô phạm”, những “ nhất tự vi sư bán tự vi sư ” một thời được dân chúng trải chiếu hoa mời ngồi dưới mái đình làng.
Ngoài Hà Nội, có lẽ vì thành phố thủ đô
trử tình với mùa thu và hương hoa sữa, nên ông thầy già trưởng khoa Đỗ Tư Đông
“khả kính” ở trường Cao đẳng Truyền Thanh Truyền Hình nhà nước “lấy điểm gạ
tình” một số nữ sinh viên. Thầy chỉ cho điểm cao khi nào trò hòan thành nhiệm vụ
“trả bài” cho thầy trong khách sạn!
Dưới cái tỉnh Bình Phước mới toanh, nên
thầy Lê Hòang Sang, hiệu trưởng trường Lê văn Tám (lại Lê Văn Tám!) cũng vừa
làm một điều vô cùng tân tiến: bắt các cô giáo chưa chồng phải uống rượu cùng
các quan lớn địa phương, bất kể trưa chiều hay trước giờ lên lớp. Nếu lỡ gọi
các quan già bằng“chú” mà không phải bằng “anh” thì bị thầy hiệu trưởng nạt
nộ đòi kỷ luật.
Năm trước, hơn mười em học trò nghèo, tuổi mới
14, 15 ở cái huyện Hòa An hẻo lánh trên tận Cao Bằng heo hút gió mưa bị ép bán
dâm cho một ông thầy đang làm quan trong Sở Giáo Dục và Đào Tạo tỉnh. Và mới
đây, tại tỉnh Hà Giang, hơn 15 em nữ sinh tuổi từ 13 đến 17 bị chính ông hiệu
trưởng Sầm Đức Xương dụ dỗ, cưỡng ép, khống chế buộc phải quan hệ tình dục với
ông và sau đó còn dâng lên làm quà cho ngài chủ tịch tỉnh Nguyễn Trường Tô và một
đám quan lớn khác. Điều đặc biệt là sau khi thỏa mản thú tính, ngài chủ tịch đốn
mạt còn nằm trần truồng cho các em “vô tư” chụp hình, quay phim thoải mái, bởi
ngài nghĩ đã có bao cái lọng trên đầu! Một cô sinh viên của một trường đại học
danh giá ngay giữa lòng thủ đô, “Hà Nội.. niềm tin yêu và hy vọng của núi sông
hôm nay và mai sau”, lại trở thành tú bà, chuyên cung cấp nữ sinh viên cho các
ngài đại gia mà phần lớn là đám hôn quan lớn bé của triều đình thời mở cửa.
Cầu mong cho các em học trò nhỏ ở quê
tôi không nghe được mấy cái tin “vui”này đăng đầy trên báo, để còn thấy mùa thu
trên quê nghèo vần còn một chút gì thơ mộng dễ thương.
Trước khi rời khỏi quê hương, tôi ghé lên
thành phố thăm thằng bạn học cũ, trước kia là một giáo sư toán-lý-hóa nổi tiếng
của một trường trung học lớn. Bây giờ ngồi bán thuốc lá ở vỉa hè. Con cái nó
cũng đã nghỉ học từ lâu để lăn vào cuộc sống, nên mấy cái bằng cử nhân toán nó
chỉ còn dùng để …gói thuốc lá. Bỗng dưng tôi nhớ tới bài thơ của một ông nhà
thơ nào đó trong nước mà lòng thấy ngậm ngùi:
-Thầy có nhớ con không…?
Tôi giật mình nhận ra người
đàn ông áo quần nhếch nhác
người đàn ông gầy gò ngồi sau
tủ thuốc ven đường.
-Thầy còn nhớ con
không…?
Câu lặp lại rụt rè rơi vào im
lặng
Hoa phượng tháng năm rơi đầy vỉa
hè
Rụng xuống trên vai người thầy
học cũ
-“không… xin lỗi.. ông lầm…
tôi chưa từng dạy học
xin thối lại ông tiền thuốc…
cám ơn!”
Cuộc sống cho ta nhiều quên, nhớ,
vui, buồn
Thầy học cũ mười năm không lầm
được
Thầy học cũ ngồi kia giấu mình
sau tủ thuốc
Giấu mình sau hoa phượng rụng
buồn tênh.
Con biết nói gì hơn, đứa học
trò tôn sư
Người Thầy cũ lại chối từ kỷ
niệm,
Chối từ những bài giảng dạy
con người đứng thẳng,
Biết yêu anh em – đất nước –
xóm giềng.
Đứa học trò vào đời với trăm
nghìn giông bão,
Bài học ngày xưa vẫn nhớ mãi
không quên.
Bên hè phố im lìm,
Vành nón sụp che mắt nhìn mỏi
mệt.
Câu phủ nhận phải vì câu áo
rách
Trước đứa học trò quần áo bảnh
bao?
Tôi ngẩn ngơ đi giữa phố xá ồn
ào,
Những đứa trẻ con tan trường
đuổi nhau trên phố.
Mười năm nữa đứa nào trong số
đó,
Sẽ gặp thầy mình như tôi gặp
hôm nay?
Ngày rời khỏi quê hương, ngồi trên máy bay
nhìn xuống. Mùa thu Sài gòn không có lá vàng rơi, cũng không có con nai vàng
nào ngơ ngác, mà sao tôi thấy như vàng cả không gian, ảm đạm cả đất trời. Tôi bỗng
ngộ ra một điều ngộ nghĩnh: Đâu phải chỉ có mấy ông nhà thơ, mấy ông nhạc sĩ mới
nhuộm buồn được mùa Thu, mà có những“đỉnh cao”đang ngự trị trên quê hương tôi,
dù chẳng có một chút xíu tâm hồn nào, có khi không có cả quả tim, mà cũng có thể
làm cho mùa thu quê tôi …buồn chết được.
Phạm Tín An Ninh
No comments:
Post a Comment