Một người bán ràng rong trên đường phố Hà Nội hôm 1 Tháng Hai.
(Hình minh họa: Nhac Nguyen/AFP via Getty Images)
“Cộng sản đã tuyệt chủng rồi hay sao ấy,” ông nói.
Thiết nghĩ đây là thắc mắc chính đáng của nhiều người
nên xin tản mạn đôi điều về người cộng sản và chế độ cộng sản ở trong nước.
Trên các trang báo, thỉnh thoảng có người nêu nhận xét
Việt Nam không còn là quốc gia cộng sản nữa từ khi nước này chuyển sang kinh tế
thị trường năm 1986. Mới đây nhất, trả lời phỏng vấn của BBC Việt Ngữ hôm 29
Tháng Hai, ông Nguyễn Tiến Trung, một nhà vận động dân chủ vừa đến tị nạn tại Đức,
nhận xét: “Vấn đề chính quyền cộng sản Việt Nam, thực ra dùng chữ cộng sản thì
cũng không đúng vì tôi không thấy có người cộng sản nào ở Việt Nam hết.”
Trước ông Trung, ông Nguyễn Hữu Liêm, một giảng viên đại
học ở California, có nhận xét tương tự. Cũng trong một bài viết trên BBC Việt
Ngữ hôm 19 Tháng Mười, 2022, ông Liêm nhận định “chế độ và con người cộng sản
Việt Nam đã và đang thay đổi…” Ông dẫn chứng những cuộc gặp gỡ, tiếp xúc của
ông với những cán bộ cấp trung của chế độ, sĩ quan an ninh cấp tá mời ông uống
cà phê, thậm chí một vài nhân vật trong Bộ Chính Trị đảng CSVN mà ông có lần gặp
gỡ, quen biết để đi đến kết luận rằng “tôi không thấy con người cộng sản nào ở
họ, từ ngôn ngữ, nhân cách, phong thái,” “theo tôi họ không còn và không phải
là người cộng sản!” Đi xa hơn, ông Liêm còn đưa lập luận khẳng định đảng CSVN
đã thay đổi, đã “vươn thoát khỏi những sai lầm chính sách của trí tuệ nông
dân,” thậm chí đã có công phát triển đất nước.
Một số nhân vật nổi tiếng trong cộng đồng người Việt ở
Mỹ, trước kia từng hùng hồn tuyên bố sẽ không về nước chừng nào cộng sản còn cầm
quyền, thì gần đây cũng lục tục quay về Việt Nam làm ăn, du lịch, thăm thú bạn
bè. Thậm chí, một số người đã dọn về sống ở trong nước sau mấy chục năm “tị nạn
cộng sản” ở Hoa Kỳ. Khi được hỏi tại sao thay đổi như vậy, họ trả lời ráo hoảnh:
Việt Nam đâu còn là nước cộng sản nữa.
Nhìn bề ngoài, nhận định “cộng sản Việt Nam đã tuyệt
chủng” có vẻ đúng. Người cộng sản bây giờ không còn là những bần cố nông chân đất
mắt toét, những thợ thuyền trên răng dưới “bù lon” đi làm cách mạng để “bao
nhiêu lợi quyền tất vô tay mình” như học thuyết của Karl Marx vẽ ra. Hiện nay
không ít đảng viên cộng sản đã là những nhà tư bản đỏ, sống và làm việc trong
các dinh thự nguy nga, của chìm của nổi đếm không xuể, đi xe hơi đắt tiền, ăn uống
sơn hào hải vị, ra nước ngoài như các bà đi chợ. Nhiều đảng viên còn bất mãn ra
mặt, thậm chí tức giận, nếu người đối thoại gọi họ là “cộng sản” dù đường đường
chính chính, họ vẫn là đảng viên của một đảng chính trị có tên là đảng CSVN, độc
quyền cai trị một trong vài nước “xã hội chủ nghĩa” còn sót lại trên thế giới.
Nhưng những quan sát bề ngoài đó không thể làm thay đổi
một vấn đề có tính bản chất: Việt Nam vẫn là quốc gia do đảng Cộng Sản cai trị,
vẫn đang “tiến lên chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản” dù chưa biết đến cuối
thế kỷ này có tới đích hay không, như lời ông Tổng Bí Thư Nguyễn Phú Trọng.
Nguyên tắc căn bản nhất, nền tảng, của chế độ cộng sản
là chế độ công hữu về tư liệu [phương tiện] sản xuất. Người cộng sản cho rằng,
tư hữu là nguồn gốc của giai cấp, của tình trạng bóc lột nên mục tiêu đầu tiên
của “cách mạng vô sản” là xóa bỏ tư hữu. Cải cách ruộng đất ở miền Bắc, hợp tác
hóa nông nghiệp ở miền Nam, đánh tư sản, cải tạo công thương nghiệp,… đều là những
chiến lược nhằm xóa bỏ tư hữu. Sau năm 1986, CSVN buộc phải thừa nhận năm thành
phần kinh tế với ba hình thức sở hữu khác nhau nhưng vẫn cương quyết duy trì “sở
hữu toàn dân” về đất đai và duy trì kinh tế quốc doanh làm “chủ đạo.”
Luật đất đai của Việt Nam đã qua nhiều lần sửa đổi
nhưng CSVN cương quyết chỉ ban cho người dân “quyền sử dụng đất” chứ không thừa
nhận quyền tư hữu. Không chỉ đất đai mà tất cả các tài nguyên khác của quốc
gia, các công trình hình thành từ tiền đóng thuế của người dân như phi trường,
đường sá cầu cống, bệnh viện, trường học… đều thuộc “sở hữu toàn dân” nhưng người
dân phải trả tiền khi có nhu cầu đi lại, chữa bệnh, học hành. Nói rộng ra, toàn
bộ đất đai sông núi rừng biển của quốc gia đều là tài sản của đảng, do đảng
giành được từ thực dân phong kiến, đảng ban cho ai thì người nấy hưởng. Cái
quan niệm phản động đó – được coi là đặc điểm của chủ nghĩa cộng sản – đã bắt rễ
sâu trong tư tưởng và tiềm thức của các nhà lãnh đạo Việt Nam khó mà thay đổi
được.
Các nhà kinh doanh trong nước, dù đã bỏ tiền mua đất
mà nhà nước gọi một cách văn vẻ là “giao đất có thu tiền” hoặc nhà đầu tư nước
ngoài trả tiền thuê đất xây nhà máy đều chỉ có thể sử dụng khoảnh đất đó trong
thời gian vài mươi năm mà không có quyền sở hữu nó vĩnh viễn. Tuy không còn cảnh
cướp bóc trắng trợn như thời đánh tư sản, chính quyền cộng sản vẫn có thể tịch
thu, tịch biên tài sản của người dân một cách tùy tiện, dựa vào những cáo buộc ất
ơ nào đó như trường hợp ông Trịnh Vĩnh Bình, tức ông Bình Hòa Lan – vừa bị mất
tài sản vừa bị tù tội, phải qua nhiều lần kiện tụng trước tòa án quốc tế – đã
được báo chí nói tới rất nhiều.
Chủ nghĩa cộng sản coi kinh tế là “hạ tầng cơ sở” quyết
định “thượng tầng kiến trúc,” là thể chế chính trị, luật pháp, văn hóa, giáo dục…
của quốc gia. Khi người dân không có quyền tư hữu thì họ cũng mất quyền đại diện,
không còn tiếng nói trong việc quản trị xã hội nữa. Thể chế cộng sản xóa bỏ
cách phân chia giai cấp kiểu cũ dựa trên quyền tư hữu, thay vào đó xã hội bị
chia thành hai tầng lớp dựa vào địa vị chính trị, gồm đảng viên và quần chúng
ngoài đảng. Chỉ đảng viên cộng sản mới có quyền bầu bán và đảm nhiệm các chức vụ
quan trọng trong guồng máy điều hành. Quần chúng nhân dân chỉ là công dân hạng
hai, chỉ được làm lụng và đóng thuế, chỉ được làm chuyên viên hoặc đảm nhiệm những
chức vụ không có quyền quyết định và luôn bị chèn ép, bị phân biệt đối xử ngay
tại nơi làm việc và cư trú.
Đảng trùm lên guồng máy nhà nước và thông qua đội ngũ
đảng viên, đảng thực thi quyền kiểm soát mọi mặt đời sống xã hội. Luật pháp,
văn hoá đều thuộc về đảng, do đảng quyết định, những ai có ý kiến khác hoặc đòi
thay đổi đều bị coi là “phản động,” bị hệ thống tư pháp do đảng điều hành trừng
trị. Để duy trì một chế độ độc tài đảng trị như vậy trên đầu trên cổ quần
chúng, đảng phải dựa vào sự đàn áp, nói trắng ra là khủng bố, mà người cộng sản
gọi một cách hoa mỹ là “bạo lực cách mạng.” Đàn áp đi kèm với tuyên truyền dối
trá lừa bịp làm tê liệt ý thức phản kháng trong xã hội. Những người có lương
tâm, muốn đất nước phát triển, xã hội tiến bộ hoặc đều bị bỏ tù hoặc lưu vong ở
nước ngoài.
Những ý tưởng tiến bộ trong học thuyết cộng sản của
Karl Marx như xóa bỏ tư hữu để mang lại công bằng, không có người giàu người
nghèo, đấu tranh nghị trường để cải cách thể chế… đều đã bị vứt bỏ từ thời
Vladimir Lenin ở nước Nga. Chỉ còn lại cái chế độ toàn trị thâm độc xây dựng
trên nền tảng bạo lực đấu tranh giai cấp, trong đó không có công bằng mà cũng
chẳng có nhân bản.
Nhìn từ góc độ nào, kinh tế hay xã hội, Việt Nam vẫn
là một thể chế đảng trị theo học thuyết cộng sản. Người cộng sản bây giờ thực
chất là những kẻ tham nhũng quyền lực và tài sản. Họ không phải là công nhân
lao động mà suy cho cùng, người cộng sản ở Việt Nam chưa bao giờ là công nhân,
là vô sản, là “proletariat” như học thuyết của Marx. Họ chỉ giả danh “vô sản” để
thâu tóm quyền lực và làm giàu trên xương máu của công nhân và nông dân mà
thôi.
Trên đây chúng tôi dẫn ý kiến của hai ông Nguyễn Tiến
Trung và Nguyễn Hữu Liêm. Cả hai ông đều “không thấy có người cộng sản nào ở Việt
Nam hết” nhưng nếu ông Liêm cho rằng người cộng sản đã thay đổi theo hướng tiến
bộ – một lối nịnh bợ nhà cầm quyền trong nước – thì ông Trung lại thấy đó là những
kẻ độc tài mà ông quyết chống lại với tư cách một nhà vận động dân chủ. Thực ra
độc tài và cộng sản không khác nhau nhiều. Có những chế độ độc tài không phải
là cộng sản nhưng đã là cộng sản thì dứt khoát phải độc tài, ở Việt Nam đã vậy
mà ở các nước cộng sản khác cũng vậy.
Đừng ảo tưởng rằng cộng sản đã tuyệt chủng. Con đường
thoát ra khỏi chế độ cộng sản của đất nước Việt Nam còn nhiều chông gai lắm.
Hiếu Chân
No comments:
Post a Comment