Tác giả là một nhà báo,
người phụ trách một cột mục trên tạp chí Ca Dao tại Dallas, đã nhận giải danh
dự Viết Về Nước Mỹ 2007. Sau đây là hồi kết bài viết mới của ông, với lời ghi:
“Gởi chút niềm riêng...”
*1.
…Cha tôi đánh mẹ tôi như cơm bữa, lần cuối cùng, năm tôi 6 tuổi. Hôm đó, cha về nhà với người đàn bà son phấn chứ không xoàng xĩnh như mẹ tôi. Sáu tuổi đầu nhưng tôi đã linh cảm được đại sự xảy Ra! Thay vì chạy trốn đòn như mọi lần cha về thì tôi chạy xuống bếp với mẹ để nhớ đời về trận đòn kinh khủng mà mẹ tôi phải gánh chịu. Cha đuổi mẹ ra khỏi nhà bằng những câu chửi tục tằn, những hành vi ghê sợ. Người đàn bà kia đứng khoanh tay nhìn cha tôi đá cái lò củi đang cháy mà trên đó là nồi cơm chiều đang sôi. Có lẽ do nước cơm đang sôi làm phỏng chân vì cha đi dép chứ không phải giày nên ông nóng giận hơn bình thường và đã trút cơn thịnh nộ lên mẹ tôi một trận đòn kinh khủng. Ong đá mẹ tôi liên miên đến không đứng dậy nổi, cuối cùng là nắm tóc và giập đầu mẹ vô vách đến khi dòng máu đỏ chảy dài xuống mặt thì người đàn bà kia can Ra, không cho đánh nữa. Bà at mở bóp đầm, lấy Ra cái khăn tay để hỉ mũi… chứ không phải lau máu cho mẹ tôi.
Mẹ nắm tay tôi, lom khom vì đau đến không đứng thẳng người lên được, trở lên nhà trên, mẹ xốc thằng em tôi đang ngủ dúi ở góc nhà. Mẹ vác nó lên vai, cố tha lưng nó cho đừng khóc nữa. Chúng tôi Ra khỏi nhà trong bóng chiều chạng vạng. Người đàn bà kia đứng lặng nhìn theo… tương lai của bà. Con chó phân bua vài tiếng sủa, rồi quyết định chạy theo những kẻ khốn cùng.
Chúng tôi đi bộ thật gần để sang nhà bà nội. Mẹ tôi
gởi chị em tôi cho bà nội để đến nhà ông y tá trong xóm băng bó vết thương vì
máu chảy đầm đìa. Nội xua đuổi chúng tôi làm om xòm cả xóm. Chú Tư tôi ngoài
quán nhậu, nghe chuyện trở về nhà. Ong Ra lệnh cho bà nội giữ đứa con trai,
(năm đó, em tôi 4 tuổi) và Ra lệnh cho mẹ dẫn tôi đi đâu thì đi, đừng về nhà
nữa, đừng đến đây nữa. Mẹ tôi miễn cưỡng gởi lại thằng em tôi cho bà nội, nhưng
nó khóc la, không chịu rời mẹ tôi. Chú Tư táng nó một bạt tai đến sặc máu mũi,
chửi tới ba đời nhà nó. Mẹ tôi không cho đánh nó nữa bằng cách ôm nó vào lòng
mẹ. Chú Tư trút giận lên mẹ tôi còn tàn nhẫn hơn cha tôi. Chú đánh mẹ tôi như
đánh chó. Đá lăn lông lốc trên sân… Tôi không còn khóc la nổi nữa, chỉ đứng há
hốc miệng Ra nhìn. Thằng em tôi thôi khóc, máu mũi nó chảy xuống đỏ cả ngực áo
nó lẫn áo tôi, nó vùng Ra khỏi tay tôi đang ôm nó trong lo sợ, nó dõng dạc chỉ
mặt chú Tư! "Đụ má mày chú Tư." Ông cho nó một đá văng Ra ngõ, nó
giẫy đàng đạch như con cá lóc bị đập đầu. Mẹ tôi bò Ra ngõ, lôi thằng em tôi và
gọi tôi. Chạy. Con chó chạy theo…
Đêm đó, chúng tôi ngủ sạp ngoài chợ Chồm hổm là ngôi chợ tự
phát, mọc lên sau "giải phóng". Bờ sông bãi rác trước đây nhưng có
lợi thế trên bờ dưới bến, thuận tiện cho việc mua bán của ghe thương hồ. Đêm
xuống, mấy chiếc ghe thương hồ Leo lét đèn bão và tiếng hát lời ca vang lên
cùng tiếng đàn vọng cổ. Tôi quá lạnh, sợ và đói nên không ngủ được, rúc vô mẹ
tôi thì thằng em không nhường hơi ấm, nó xô tôi Ra. Tôi ôm con chó, khóc thút
thít… rồi lịm đi.
Khuya, mấy người Phường đội, du kích, công an… đi bắt vượt biên làm náo
động mấy chiếc ghe thương hồ đã yên giấc. Họ bắt chúng tôi Chung với những
người lạ, những người vượt biên lớ ngớ không biết chạy di đâu. Tất cả những
người bị bắt, được giải về Công an Phường. Sáng hôm sau, công an nhận mặt ba mẹ
con tôi là người địa phương nên thả Ra chứ không đưa đi trại giam.
Mẹ dẫn chị em tôi xuống cuối chợ, mua cho mỗi đứa một trái bắp
luộc và dặn ngồi ngoan ở đó để mẹ đi xin việc làm. Con chó cũng kêu đói ăng ẳng
đòi phần, mẹ nhường cho nó củ khoai lang luộc là phần của mẹ. Bây giờ, tôi mới
thấy trên đầu mẹ tôi được buộc lại như đeo tang, máu khô còn đầy ở mang tai và
gương mặt tím bầm nhiều chỗ. Chúng tôi ăn xong, ngồi ngoan một chỗ để mẹ đi
gánh nước và rửa tô cho hàng hủ tiếu. Con chó lẽo đẽo theo mẹ đi gánh nước…
Từ đó, chúng sống ngoài chợ. Tối ngủ coi đồ cho hàng hủ tiếu khỏi dọn
bàn ghế về nhà như trước đây. Gia đình tôi cũng quen được ông bà Mười làm nghề
thương hồ. Ong bà lên hàng là cả ghe cá mắm tới rau trái, dừa khô, khoai lang,
bí đỏ… Họ mua bán trao đổi không hết hàng thì để lại cho mẹ tôi bán chợ chiều
vì công việc phụ hàng hủ tiếu chỉ bán chợ sáng. Những ngày tháng ấy, tôi thấy
mẹ tôi cười khi chợ vắng tanh về tối và thằng em tôi chơi với con chó nhiều hơn
chơi với chị.
Chuyện ba mẹ con tôi sống ngoài chợ được đồn đến tai cha tôi và chú Tư
cũng đồng nghĩa với hết yên ổn từ hôm bà nội đi chợ. Bà ngồi ăn bún thịt nướng
chả giò thơm lừng. Tôi không giữ nổi thằng em như lời mẹ tôi dặn dò, nó vùng
khỏi tay tôi để chạy đến bà nội xin ăn vì thịt nướng thơm lắm! Bà nội hất
nguyên tô bún vô mặt nó. Bảo lượm lấy mà ăn! Chửi ba đời chín kiếp nhà nó. Nó
không lượm thịt nướng chả giò dưới đất mà chỉ thẳng vào mặt bà nội! "Đụ má
mày bà nội". Người dưng cười hả hê bao nhiêu thì mẹ tôi bị chú Tư ra chợ
đánh cho một trận còn thê thảm hơn thế. Chiều tối hôm sau, tới phiên cha tôi
ghé chợ, đánh cho mẹ tôi một trận nữa, đánh tới gẫy xương sườn. Từ đó về sau,
thằng em tôi chỉ nói một câu: "Đụ má". Ai hỏi nó ăn hôn? Chơi hôn?
Ngủ hôn? Đi đái hôn?... nó chỉ trả lời…! Người kẻ chợ gọi nó là "thằng Đụ
má".
Chị em tôi sống nhờ cơm ông Mười nấu dưới ghe, bà Mười đưa mẹ tôi
đi nhà thương chưa về. Dì Hường (cháu gọi bà hủ tiếu bằng dì, là người làm côn
việc gánh nước, rửa tô với mẹ tôi). Dì mua cho chúng tôi hai bộ đồ mới… là tất
cả những gì tôi còn nhớ được tới hôm nay.
Ông ngoại (ông Mười) bỏ chị em tôi xuống ghe, con chó đã bị người ta bắt
trộm làm thịt trong hôm mẹ tôi đi nhà thương. Chúng tôi khóc con chó quá mức
nên quên khóc cho mẹ dở sống dở chết nơi đâu chúng tôi cũng không biết! Ông
ngoại đưa chị em tôi về nhà ngoại ở dưới quê. Bà ngoại ở bệnh viện chờ bác sĩ
"hàn xương sườn" cho mẹ tôi. Ông ngoại nói với chị em tôi như thế.
Chúng tôi được ở nhà ngoại với dì Hai, (dì bị té sông hồi nhỏ nên tâm thần lãng
đãng). Nhưng dì biết nấu cơm cho chúng tôi ăn, dì biết ca vọng cổ, hay lắm!
Không nhớ bao lâu thì mẹ tôi cũng được ông bà ngoại đưa về quê. Từ đó, mẹ tôi
làm người đi trao đổi hàng hóa từ thành phố về, thu mua đặc sản trong xóm, sắp
sẵn cho ông bà ngoại về tới là lên hàng và xuống hàng, đi liền. Ông bà ngoại
không phải ở lại xóm một hai hôm để mua bán, trao đổi hàng hóa với xóm làng vì
đã có mẹ tôi lo.
Thương vụ của ông bà ngoại phát đạt nhờ có mẹ tiếp sức. Ông
bà ngoại tôi tin là mẹ tôi đã đem may mắn đến gia đình có bốn người con gái nên
làm ăn ạch đụi hoài! Từ hồi có mẹ tôi thì gia đình ông bà ngoại đã đủ Ngũ Long
Công Chúa nên ai cũng ăn nên làm ra. Trừ dì Hai bị tâm thần nên không lập gia
đình, còn lại các dì kế đều tự nhiên làm ăn được nên khá lên. Cả nhà ngoại
thương mến mẹ con tôi đến độ ông bà ngoại gả chồng cho mẹ tôi với người đàn ông
trong xóm, cũng làm nghề thương hồ và vợ chết khi sanh đứa con thứ hai cho ông.
Mẹ tôi chưa đồng ý chuyện cưới hỏi thì chú Tư đã xuống tới nơi, tố cáo với công
an địa phương là ông bà ngoại tổ chức vượt biên nên mẹ con tôi bị bắt lần nữa.
Ông bà ngoại xạt nghiệp lần đó, phương tiện làm ăn chỉ là cái ghe thương hồ mà
bị cấm hoạt động vì tội đưa người; chứa người vượt biên thì còn gì để sống!
Ngoại bán ghe để chạy chọt cho họ thả chúng tôi ra.
Dì dượng ba của tôi đã âm thầm chuẩn bị cho chúng tôi ra
khỏi trại giam với lệnh phải trở về Sài gòn trong ngày. Nhưng dì dượng đón
chúng tôi khi xe đò rời Vĩnh Long không xa và đưa chúng tôi đi trốn trong gò mả
- ngoài đồng hoang cả tuần tới hôm đi vượt biên.
2.
Chúng tôi đến đảo như mọi người vượt biên khác và khác người là ba mẹ con thui
thủi, không biết có được đi định cư ở nước thứ ba vì hoàn toàn không có thân
nhân ở ngoại quốc. Cơ may bất ngờ là có một gia đình vượt biên như chúng tôi,
họ có thơ của thân nhân ở Pháp gởi tới trại. Trong thơ có mấy câu tiếng Pháp do
đứa cháu nội của ông già vượt biên viết hỏi thăm ông nội, nhưng ông không biết
đọc tiếng Pháp. Mẹ tôi dịch được sang tiếng Việt cho ông hiểu. Nhờ đó, mẹ tôi
quen chú Thành. Chú giỏi tiếng Anh và làm việc cho ban lãnh đạo trại để giúp đỡ
đồng bào tỵ nạn, chứ chú đi Mỹ lúc nào cũng được vì gia đình chú đã sang Mỹ từ
lâu.
Ngày tháng, những gia đình vượt biên cùng chuyến đã đi định cư,
chỉ còn gia đình tôi ở miết vì không người bảo lãnh đi nước thứ ba; cũng không
phái đoàn nào nhận chúng tôi đi bất cứ đâu để khỏi bị cưỡng bức hồi hương. Chú
Thành quyết định làm đám cưới với mẹ tôi ngay bên trại tỵ nạn. Đám cưới được
Ban lãnh đạo trại tổ chức cho và có mấy phái đoàn ngoại quốc dự đám cưới nữa
nên gia đình tôi đi Mỹ với chú Thành, khá dễ dàng.
Tôi không tưởng tượng được sự giàu sang của gia đình chú Thành, khi tôi
tới Mỹ. Nhưng tôi không được sống trong căn nhà lộng lẫy, gọi bà cụ hiền khô là
bà nội. Chúng tôi sống riêng ở một căn aparterment. Cuối tuần, chú Thành ghé
thăm.
Mẹ tôi, một lần nữa lăn xả vào cuộc sống mới vì hai đứa con nhỏ. Ai cũng
khen mẹ tôi giỏi giang vì tới Mỹ mấy ngày thôi đã lội tuyết đi làm cho tiệm
fast-food Mỹ. Đêm, ngồi may tới khuya lơ để kiếm tiền. Từ khi mua được chiếc xe
hơi cũ, cuối tuần nào mẹ cũng chở chúng tôi đến thăm bà… với quà bánh cho bà
rất hậu.
Cuộc sống chúng tôi ổn định dần thì bà bị trợt té gẫy chân, phải nằm
bệnh viện lâu vì giập lá lách nữa. Mẹ chú Thành có bốn người con trai thì ba
người con dâu trước đây không công nhận mẹ tôi là em dâu út, nhưng bây giờ cần
người vô bệnh viện với mẹ chồng thì gọi vợ Ut Thành! (Tôi đã bắt đầu biết suy
nghĩ về gia cảnh của mình và hoàn cảnh của mẹ vì tôi đến Mỹ năm 10 tuổi, bây
giờ đã sắp 13).
Mẹ tôi nói với chú Thành là mẹ xin nghỉ vacation, sau đó nghỉ
không ăn lương để có thể chăm sóc cho bà. Nhưng mẹ nói với tôi: "Chú Thành
đã cứu chúng ta, bây giờ mẹ phải giúp chú ấy. Mẹ bị buộc thôi việc vì nghỉ
nhiều quá, nên không có tiền lương nữa. Cũng không có thời giờ may để kiếm tiền
trả tiền thuê aparterment…" Mẹ dạy tôi may và tôi đã ngủ gục trên bàn may
nhiều lần để có tiền trả aparterment, năm tôi 13 tuổi.
Khi bà được xuất viện về nhà, mẹ tôi vẫn chăm sóc bà thêm mấy
tháng. Khi bà tự nói: Bà đã có thể tự túc một mình, mẹ tôi nên đi làm lại để
nuôi con. Bà cho mẹ tôi một số tiền lớn lắm, có thể mua được căn nhà để ở.
Nhưng mẹ tôi không lấy và trình ra giấy ly dị với chú Thành mà mẹ đã ký sẵn để
trả lại tự do cho chú Thành như thoả thuận của mẹ với chú Thành từ hồi làm đám
cưới bất đắc dĩ bên đảo.
Tôi với thằng em, phản đối vì chúng tôi đã thân quen với chú Thành như
con với cha, dù chú không ăn ở với mẹ tôi. Tôi nhớ lần cuối đến thăm bà vào
ngày cuối tuần vì mẹ tôi quyết định dời đi tiểu bang khác sinh sống. Mẹ không
giải thích lý do nhưng tôi lờ mờ hiểu là mẹ muốn xa bà và chú Thành.
Hôm đó thật buồn, bà ngồi trên ghế bành và khóc. Cuối cùng, bà tuốt cái nhẫn
trên tay bà mà bà nói là quà cưới của bà. Bà trịnh trọng trao cho mẹ tôi:
"Bác không có con gái để trao lại cái nhẫn này nên bác cho cháu. Về chuyện
của cháu với thằng Thành, nó là người tín nghĩa trong việc giúp cháu qua được
Mỹ, hai đứa phải mang danh nghĩa vợ chồng trên giấy tờ mà nó thì sống độc thân
mấy năm nay. Nó chờ cháu đó! Cháu cứ nhận cái nhẫn gia bảo này như cháu là
người xứng đáng được bác trao lại kỷ vật của gia đình. Nếu cháu nhận thêm ý
nghĩa thứ hai - là cái nhẫn đính hôn cho con trai của bác thì bác cảm ơn cháu
thật nhiều."
Mẹ tôi khóc, chị em tôi cũng khóc, mẹ đưa tay cho bà đeo nhẫn vào.
Chúng tôi trở về aparterment của chúng tôi. Tôi bắt đầu suy nghĩ về tình
cảm của người lớn! Tôi ước gì chú Thành đến tặng hoa cho mẹ tôi vì nhẫn đính
hôn thì bà đã trao rồi. Tôi hỏi thằng em: "Mày có muốn chú Thành làm ba
của mình hôn?" Nó trả lời tôi bằng cái ôm chị hai thật lâu. (Nó là người
khô khan tình cảm tới lạnh lùng, nó không thích nói và chỉ thích đánh lộn.)
Không ngờ, mẹ tôi khóc sau lưng chúng tôi - hôm đó là thứ bảy. Sáng hôm sau,
chú Thành ghé aparterment chở chúng tôi đi chơi như chú hứa. Hai chị em tôi xin
qua cây xăng - sát bên aparterment mua kẹo để mang theo ăn. Mẹ tôi đang chuẩn
bị đi làm, mẹ tôi đi làm liên tu bất tận…
Lần đầu tiên, chúng tôi nói dối mẹ với chú Thành vì chúng tôi băng qua
chợ Mỹ, mua một bó hoa hồng rẻ nhất (loại người ta đã bỏ ra ngoài tủ lạnh chưng
hoa với bảng giá 50% off, vì tiền chúng tôi có tới đó thôi!) Chúng tôi mang về,
dúi vô tay chú Thành và hai đứa đứng yên. Chú nhìn chúng tôi thật lâu sau lớp
kính cận rất dày của chú… chỉ có nước mắt chảy ra. Cuối cùng, chú cũng tiến đến
mẹ tôi để trao bó hoa, chú trao luôn ra cái hộp bé xíu mà xinh xắn đến tuyệt
vời…
Ba mẹ tôi đã ôm nhau thật lâu - trước mặt chị em tôi - để vài năm
sau - tôi có thêm đứa em cùng mẹ khác cha. Lần đầu tiên từ khi đến Mỹ, mẹ tôi
bỏ việc không làm để đi chơi. Ngày chủ nhật đầu tiên trong đời chị em tôi được
đi chơi với cha mẹ. Chiều về, ăn nhà hàng sang trọng để hai chị em tranh nhau
cái toilet mà ói vì đứa nào cũng không quen với cao lương mỹ vị.
3.
Hai năm trước, tôi ghé thăm ba mẹ nhằm hôm ba đi câu với thằng em khác cha của
tôi. Mẹ đưa tôi lá thơ viết tay có dấu Bưu điện Sài gòn chứ không phải Vĩnh
Long. Tôi bình tĩnh theo phản xạ của người trưởng thành dị biệt. Tôi ngồi nghĩ
về ngôi chợ Chồm hổm ở bờ sông Dương Bá Trạc…
…Nhớ ba lần về Việt Nam, gia đình tôi đều thuê xe về thẳng Vĩnh Long. Lần
đầu về thăm ông bà ngoại và các dì; lần sau về xây mộ cho ông ngoại; lần cuối
về xây mộ bà ngoại. Mẹ tôi về một mình trong lần thứ tư để chôn cất dì
Hai đã mãn phần vì chứng tâm thần từ nhỏ của dì nên dì kém thọ. Không biết lần
về một mình, mẹ tôi có ghé thăm bên nội?! Tôi không nghĩ mẹ tôi còn ghé bờ sông
Dương Bá Trạc làm gì! Nhưng bằng cách nào mà bên nội biết được địa chỉ của mẹ?
Tôi không hỏi, cũng không đọc thơ dù phong bì đã xé. Tôi ngồi lặng thinh, ký ức
trở về năm lên 6 tuổi của mình với lòng oán hận tới ứa nước mắt. Mẹ tôi nói:
"Vì lá thơ có liên quan tới con nên mẹ phải đưa cho con." Tôi ngước
lên nhìn mái tóc bạc sớm của mẹ, đôi vai gầy và đôi mắt sâu… làm tôi không nói
được lời oán trách nào hết! Mẹ ngồi xuống bên tôi như đêm đầu ngủ chợ, vết
thương trên mang tai mẹ chỉ còn vết sẹo lu mờ, máu khô nâu đã sạch nhờ ơn chú
Thành chùi rửa! Không biết mẹ có biết vết thương trong lòng tôi với em tôi
không bao giờ khép miệng!
Một tuần trôi qua, tôi mất ngủ hoàn toàn vì tò mò muốn đọc lá thơ nhưng
lại tự lòng không cho mình đọc. Tôi không muốn xát muối lên vết sẹo còn mưng mủ
trong lòng em tôi. Tôi không muốn làm tổn thương chú Thành khi ơn chú chưa trả
mảy may! Vì ở vai trò người cha kế, chú xử tệ với chị em tôi thì đã sao? Ngược
lại, chú thương tôi bằng vất vả, hy sinh, chia sẻ… cho đứa con gái nhiều mặc
cảm về gia đình và xuất xứ bản thân. Chú khổ sở với tánh tình hung bạo, hận thù
tất cả, không tin ai ở đời… của thằng em bất trị của tôi. Không ít lần nó làm
cho chú suýt vô tù, mất việc, tiền bạc tiêu tan trong những lần phải bồi thường
cho những người mà nó gây hại cho người ta. (Nó đánh người vô cớ khi chợt nhớ
về thù hận đâu đâu trong tuổi thơ của nó.) Nó quên tiếng Việt đến 99%! Phần
trăm còn lại là câu "Đụ má". Mỗi lần nhìn mẹ tôi cắn răng chịu đựng
những cơn đau nội tạng bị tổn thương khi trở trời. Nó chửi thề tiếng Việt ỏm
tỏi, mắt long lên giận dữ như con chó điên! Những lúc ấy, tôi an ủi, vỗ về nó
để nó đừng ra đường đánh đại - bất cứ ai mà nó thấy mặt. Chú Thành lặng lẽ săn
sóc mẹ tôi hết khăn nóng tới khăn lạnh. Chú nói chơi mà tôi khóc thiệt,
"Lau mòn da cũng không hết cái đau bên trong! Tụi con ngoan ngoãn nghe
lời, cố gắng vươn lên… mới là cái khăn lông lau được nhức nhối trong lòng của
mẹ con. Hai đứa ráng lên…"
Tôi đến nhà em tôi sau cú điện thoại nó gọi, tôi đoán được việc nó đã thu
xếp trước với anh rể vì chồng tôi ít khi để tôi đi đâu môt mình trong ngày nghỉ
cuối tuần. Tôi đến một mình và người vợ mới cưới của nó cũng vắng nhà vô cớ để
chỉ có hai chị em tôi gặp nhau. Tôi ngồi chưa nóng ghế thì ba tôi đến - chú
Thành ở trại tỵ nạn năm xưa - nay đã già, qua hai tròng kính cận thật dày, đôi
mắt nhân từ độ lượng của ông vẫn như xưa - người đàn ông khuôn mẫu trong quyết
định của tôi khi lập gia đình vì chồng tôi giống chú đến 90%, mười phần trăm
còn lại là khoảng cách tuổi tác của hai người.
Ba chúng tôi không vào chuyện được khi chai rượu vang đã gần cạn. Chú
Thành hỏi tôi:
- "Con đã đọc lá thơ của ba con chưa?"
Tôi trả lời:
- "Dạ chưa"!
Chú nói:
- "Không cần đọc nữa! Vì mẹ con đã đưa chú đọc.
Chính chú nói:
- Cứ đưa cho con để con quyết định. Nội dung bức thơ do cha con viết, chỉ một
yêu cầu: Con bảo lãnh ông ấy sang Mỹ vì thằng Thắng (em tôi) không có giấy khai
sanh. Con thì có. Cha con cũng không có giấy kết hôn với mẹ con, nên chỉ mình
con có tư cách bảo lãnh ông ấy sang Mỹ. Mẹ các con nhờ chú suy nghĩ giúp vì bà
không lường được hậu quả chuyện này. Với lòng tin mà mẹ các con đã gởi gắm nơi
chú! Chú tin mình có thể vượt qua những khó khăn của gia đình chú. Nhưng, hai
con đã trưởng thành nhiều, chú muốn chính chúng con giải quyết việc riêng của
gia đình riêng của các con…"
Thằng em tôi nổi giận, mắt nó long lên! Chửi thề văng tục… nó thề giết
cha tôi, giết hết bên nội… rồi tới đâu thì tới nếu tôi bảo lãnh ông ấy sang
đây.
Tôi biết không bàn tính được gì với em tôi, tôi với chú Thành và chồng
tôi lại ngồi xuống với nhau. Hai người đàn ông đã gầy dựng lại cuộc đời tôi từ
đổ nát… cũng không ai cho tôi được quyết định cuối cùng vì mỗi mình tôi có liên
hệ pháp luật với quá khứ! Tôi có tờ khai sanh oan nghiệt.
4.
Tôi đi gặp mẹ để đi đến quyết định cuối cùng cho chuyện có bảo lãnh cha tôi hay không? Mẹ tôi biết trước cuộc gặp này nên có lẽ mẹ đã chuẩn bị chu đáo cho một lần nói hết với con. Tôi như người bạn của mẹ tôi nơi một góc nhà hàng xa lạ, hai người phụ nữ Việt Nam lạc lõng trong cái nhà hàng Mỹ như đôi bạn dạt trôi đến nơi này từ địa ngục trần gian. Mẹ tôi ăn mặc đẹp, nét đẹp trời cho… rồi tiếc! Nên ông ấy ganh tỵ với mẹ tôi hoài. Lâu lắm rồi, tôi mới nhìn kỹ mẹ mình bằng con mắt khách quan để hiểu thêm vì sao mẹ khổ! Người đàn bà nào không ham nhan sắc! Và đó là nguồn gốc của bất hạnh bản thân cùng những liên lụy đến đời sau… những nghĩ suy miên man trong đầu tôi không trốn chạy được ánh mắt mệt mỏi của mẹ mình. Mẹ tôi dở lại từng trang đời cho đứa con nghe như nước đã qua cầu! Cầu bao nhiêu nhịp lòng sầu bấy nhiêu…
Mẹ tôi nói:
"…mẹ không trả lời những câu hỏi của con, khi con còn quá nhỏ. Đến khi
nói được với con thì tự con thấy không nên hỏi mẹ nữa! Cảm ơn con đã xử sự với
mẹ bằng sự chia sẻ thầm lặng đó! Nhưng hôm nay, mẹ nói hết một lần với con về
xuất xứ của con và cả xuất xứ của mẹ nữa, khi định mệnh đã không buông tha
mình…
Biến cố 1975 đã liệng mẹ ra khỏi Viện mồ côi với tuổi đời 16, thân xác trưởng
thành hơn đồng lứa, có lẽ hai người sinh ra mẹ cũng khá đẹp đôi. Mẹ không biết
đi về đâu, làm gì để sống?... Khi trong tay chỉ có vốn tiếng Pháp ở trình độ
biết đọc, biết viết mà các dì Phước đã dạy cho mẹ; một chút tài may vá, thêu
thùa học được trong Viện mồ côi. Mẹ với người bạn thân trong Viện đã đói khát
nhiều ngày mới xin được việc ở đợ cho một gia đình mà trước mặt tiền đường là
tiệm may. Người bạn của mẹ phải ở nhà dưới lo cơm nước, giặt giũ. Mẹ biết cắt
may nên được bà chủ may mặc cho dễ coi để đứng tiệm ở nhà trên, dù thời ấy cũng
chẳng ai may mặc gì nhiều. Tưởng cuộc đời có ăn có mặc được yên thân, ai dè ông
bà chủ bảo coi nhà cho gia đình họ đi chơi Đà lạt dăm hôm. Họ không trở về nữa.
Họ đã vượt biên. Công an đến niêm phong nhà cửa, tịch thu tài sản. Mẹ với người
bạn bị bắt đưa về Phường để điều tra! Thuở ấy, hai đứa trẻ mồ côi đâu biết được
cạm bẫy ngoài đời. Đó chỉ là cái cớ cho họ đưa hai đứa con gái mồ côi ngờ
nghệch về hành lạc, chứ ai đi bắt đám con ở làm gì! Cả hai đứa bị hãm hiếp tập
thể trên tầng ba của ngôi nhà lầu, bất kể ngày đêm… Hai (chị em) mẹ quyết định
tự tử. Cô chị nhảy lầu trong hoàn cảnh không mảnh vải che thân. Mẹ nhảy theo
không thoát vì bị níu lại. Người chị chết thảm trên lề đường đêm khuya, chắc
cũng không được chôn cất gì đâu. Sáng hôm sau, họ giải mẹ lên công an quận để
xoá dấu cái chết đêm qua của bạn mẹ. Từ quận giải đi tiếp đến đâu thì mẹ không
biết! Chỉ biết trên xe có chú Tư của con. Dọc đường, đồng bọn của chú Tư giải
cứu, cướp tù. Họ bắn nhau với công an. Trong hỗn loạn tiếng súng, chú Tư nói mẹ
chạy theo chú chứ ở lại thì họ xử bắn mẹ. Mẹ chạy theo chú Tư… để ân hận suốt
đời.
Chú, đưa mẹ về nhà bà nội con, rồi đi biến đến mấy tháng. Mẹ không có
khái niệm về một gia đình vì nhỏ lớn ở trong Viện mồ côi. Mẹ chỉ biết so sánh
gia đình bà nội với gia đình tiệm may và thấy khác xa, thế thôi. (Con cứ nhớ lại
năm con 16 tuổi và sự khờ khạo của mình thì mẹ khờ gấp đôi con vì mẹ ở trong
Viện mồ côi nhỏ lớn. Không biết gì về đời sống bên ngoài). Có bà hàng xóm với
bà nội, xúi mẹ trốn đi vì bà nội là người hành nghề chứa chấp mãi dâm, đó.
Nhưng mẹ biết trốn đi đâu, khi miếng băng vệ sinh, mẹ cũng phải xin bà nội vì
mẹ đâu có đồng nào trong túi để tự mua.Mẹ ở nhà nội như con ở, trong tủi nhục
cũng có cái mừng là mình không bị có thai với đám công an. Mẹ bắt đầu hiểu biết
về chuyện đó từ bà hàng xóm của bà nội. Mấy dì Phước chỉ dạy mẹ phải giữ gìn vệ
sinh thật kỹ, hàng tháng thôi. Các dì không dạy chuyện hơn. Nhưng ông nội con
đã hãm hiếp mẹ đến có thai. Lần ông đang hãm hiếp mẹ thì chú Tư đột ngột về
nhà, vô phòng. Chú, rút dao găm và đâm chết ông nội ngay trên người mẹ. Chú kéo
xác ông xuống gầm giường vì đang trưa. Đến đêm, chú Tư với bác Hai của con đưa
xác đi đâu thì mẹ không biết. Mẹ lên cơn sốt vì khủng hoảng tinh thần triền
miên mấy ngày. Bà nội cho uống thuốc bắc, đối xử tử tế ra mà mẹ không biết? Khi
biết thì đã thành kẻ giết người vì thuốc đó là thuốc trục thai. Mẹ nhớ suốt đời
chỗ bờ sông mà bà nội đã ném cái thai xuống dòng nước… trôi đi.
Sau đó, mẹ lại có thai vì chú Tư hãm hiếp. Tiếp theo, chú Tư đi tù bất
ngờ vì chú là người đâm thuê chém mướn. Tới bác Hai ra tù, (anh em họ vào tù ra
khám như đi chợ). Bác Hai về nhà cũng bất thường như chú Tư, bác Hai cũng hãm
hiếp mẹ như chú Tư. Mẹ biết mình đã có thai với chú Tư nhưng không nói ra vì sợ
bà nội cho uống thuốc nữa. Mẹ không muốn giết người. Con hiểu! Khi bụng mẹ lớn
rồi, mà vẫn chưa có tiền và có cách để trốn đi thì bà nội bắt uống thuốc phá
thai như lần trước. Mẹ đã biết gian ngoa, nói dối từ cuộc sống dạy mình. Mẹ cầu
cạnh bác Hai che chở và nói dối với bác: Cái thai trong bụng mẹ là con của bác
Hai. Con ra đời như thế đó!"
(Tôi điếng người khi hình dung ra gương mặt chú Tư… lờ mờ trong trí
nhớ! Gương mặt mà những khi thằng Thắng ngủ khò trên sofa… tôi nhìn mặt nó rồi
nổi da gà vì vừa thương vừa giận mà tôi không bao giờ hiểu được vì sao? Tôi
giải thích cho mình không thoả đáng khi nghĩ thương vì là chị em; giận vì nó
gieo tai họa cho gia đình nghiêm trọng. Nó không biết thương chú Thành chút nào
hết! Tôi giận nó để rồi thương trong vòng lẩn quẩn. Sao nó lại giống người đàn
ông mà tôi ghê sợ nhất là chú Tư! Cha tôi là chú Tư. Còn gì cay đắng hơn trong
đời tôi?!)
Qua cơn xúc động nhất thời, tôi không muốn nghe thêm về gia đình bên nội
tôi nữa! Nhưng tôi nghe vì thương mẹ tôi. Tôi hiểu lòng người đàn bà được nói
ra những khổ tâm sẽ dễ chịu lắm! Nên mẹ tôi nói tiếp:
"Bác Hai thích mẹ thì đúng hơn thương. Những người nhà nội mà biết thương
ai! Mẹ cũng không hiểu vì sao họ thích khi trong tay họ biết bao nhiêu cô gái
trẻ. Bác Hai làm khai sanh cho con để phòng khi chú Tư ra tù thì không tranh
chấp nữa vì mẹ đã như là vợ bác Hai. Bác đưa mẹ qua sống ở căn nhà mà mình đã
từ đó ra đi…
Khi chú Tư ra tù (vượt ngục hay được thả thì mẹ không biết). Chú Tư lầm
lì tới đáng sợ! Lui tới nhà mình khi bác Hai vắng nhà và hãm hiếp mẹ. Sự chống
đối của mẹ hoàn toàn không có vì chỉ thiệt thân với những trận đòn không tả
nổi. Mẹ thật sự không biết thằng Thắng là con bác Hai hay con chú Tư. Chỉ sau
này, căn cứ vô tính tình của nó thì mẹ đoán nó là con chú Tư. Phần bác Hai con,
là người nghiện rượu, xì-ke ma túy. Nên mẹ càng tin là thằng Thắng con chú Tư.
Mẹ đối phó với hoàn cảnh mình là gian ngoa, nói dối… với chú Tư để bảo vệ cái
thai thằng Thắng vì mẹ không muốn giết người - dù mới là phôi thai. Trong hoàn
cảnh của mẹ lúc ấy, không có chọn lựa!
Chú Tư đánh bác Hai suýt chết vì bác Hai cướp mẹ trên tay chú Tư , bác
Hai trở mặt tố cáo chú Tư giết ông nội tại nhà. Sau này mẹ biết ra, ông nội
cũng không phải là chồng bà nội. Ong có gia đình và chỉ lui tới với bà nội theo
lối già nhân ngãi non vợ chồng. Ông là cán bộ, đã che chở cho bà nội làm ăn phi
pháp. Nên chính bà nội cũng nổi ghen với mẹ vì bị ông bỏ rơi.
"Trong tình thế gia đình tranh giành bát nháo đó, họ thi nhau trút
giận lên mẹ là vậy! Mẹ hiểu chú Tư có tình cảm với mẹ hơn nhưng kẹt người anh
tán tận, người mẹ bất nhân. Mẹ không muốn chú Tư giết bác Hai vì mình - dù họ
tàn ác như nhau, nhưng là chuyện của họ! Không nên xui anh em người ta giết
nhau để mình mang tội. Người ta có tàn nhẫn với mình thì để bề trên xét xử.
Sau khi thằng Thắng ra đời, bác Hai không làm khai sanh cho nó vì nghe
lời người ngoài, bà nội… rồi tin nó là con chú Tư. Bác trở nên tàn độc với mẹ
hơn, những lúc không tiền uống rượu, chích xì-ke, bác Hai bắt mẹ tiếp khách tại
nhà để ông lấy tiền uống rượu và chích. Giai đoạn này thì mẹ đã học được cách
tránh thai từ những cô gái trong nhà chứa của bà nội. Chú Tư thù bác Hai về
việc bắt mẹ tiếp khách, điều đó thì mẹ biết! Nhưng chú bị người ta đâm lòi ruột
trong những tranh chấp ngoài đường, cũng là việc làm ăn của chú. Chú về nhà nội
nằm dưỡng thương mấy tháng. Giai đoạn đó, mẹ chỉ muốn tự tử vì tủi nhục. Nhưng
hai con mình ai nuôi? Mẹ rối trí dữ lắm! Mẹ nhớ những người khách hiền lành, họ
thật sự có nhu cầu giải quyết sinh lý đơn thuần. Họ thương cảm những cô gái
điếm bằng những đồng tiền dấm dúi cho riêng trong khi hành lạc vì họ dư biết số
tiền trả cho ông/ bà tú thì bản thân người gái đĩ đâu có bao nhiêu, thậm chí
không được đồng nào trong những hoàn cảnh bị khống chế.
Mẹ chắt chiu tiền đó để chờ cơ hội dẫn tụi con trốn đi nơi khác, sống. Mẹ
có mua cho chú Tư gói thuốc lá, tô hủ tiếu… không phải vì tình cảm của mẹ với
chú mà đơn giản - chú là cha của tụi con. Mẹ phải có trách nhiệm với ông ấy cho
tới khi tụi con trưởng thành. Suy nghĩ của mẹ lúc ấy là như thế.
Khi chú bình phục lại thì nói mẹ dẫn tụi con lên Long Khánh sinh sống.
Chú sẽ giúp đỡ về tài chánh và sẽ sinh sống với mẹ như vợ chồng. Nhưng mẹ tưởng
tượng ra tương lai của tụi con… thì trốn đi làm chi? Mẹ có mưu đồ trốn chạy
nhưng với hai con thôi. Đó là căn nguyên của những trận đòn tàn tạ mà bác Hai
với chú Tư đã trút lên mẹ.
Chuyện người đàn bà son phấn xuất hiện ở nhà mình để bắt đầu một cuộc ra
đi của ba mẹ con mình, mẹ vẫn tin là Ơn trên đã cho mình một lối thoát.
Bên ngoài cửa kính của nhà hàng, lá thu bay xào xạc về đâu? những chiếc
lá tụ ở một góc parking thì mục rữa theo thời gian. Tôi theo chiếc lá bay một
mình trên parking mênh mông - vô định! Không còn tập trung nổi để nghe mẹ tôi
nói, nhưng mẹ cứ nói như không còn cách nào dừng lại được!
Từ khi ngủ chợ thì con biết rồi. Những lần về Việt Nam thì con cũng đã có
trí nhớ. Hôm nay, mẹ chỉ nói về lần mẹ về một mình. Sau khi xây mộ cho dì Hai,
(là các dì muốn mẹ về chơi chứ không ai cần tiền của mẹ.) Lần đó, chú Thành đã
chuyển về cho dượng Ba hai chục ngàn đô la, nên khi mẹ về tới là có hai chục
ngàn và năm ngàn trong bóp tay của mẹ. Mẹ rời Vĩnh Long với tiền bạc còn nguyên
vì không dì nào cho mẹ chi trả gì hết. Mẹ lên Sài gòn với tâm nguyện thực hiện
những điều mình đã nghĩ trước đó. Mẹ tìm lại xóm xưa để thăm dì Hường, (Dì bây
giờ khổ lắm! Con cái cũng nghèo nên không nhờ được gì. Người chồng thì y như
bác Hai - xì-ke, nghiện rượu. Thiệt là khổ cho dì. Mẹ cho dì mười ngàn đô la để
sửa sang lại ngôi nhà đã mục nát tới hết cỡ. Bỏ nhà bank cho dì mười ngàn đô la
để dì có thể sống bằng tiền lời từ nhà bank, chứ tuổi tác chưa già nhưng sức
khoẻ yếu kém của dì thì chắc chắn khổ tới chết. Mẹ có đến bờ sông để thắp cây
nhang xin lỗi người anh/ chị của con, mẹ đã bỏ nó mấy chục năm trời lạnh lẽo
ngoài bờ sông - dù mới là phôi thai nhưng nó đã có linh hồn.
Không ngờ dì Hường là người chị em mà Ơn trên đã ban cho mẹ. Dì nghèo vậy
mà cũng đã xin lễ cầu siêu cho nó, rước vong linh nó vô Chùa để cầu siêu theo
tín ngưỡng của dì. Mẹ nhớ hoài về hai bộ quần áo mà dì đã mua cho tụi con - hôm
tụi con theo ngoại về quê - là tiền giành dụm của một đứa rửa tô ngoài chợ. Hôm
mẹ xuất viện, ông bà ngoại phải lén đưa mẹ xuống ghe (sợ gia đình nội biết được
thì không biết điều gì xảy ra cho mẹ). Vậy mà trước lúc ông ngoại nhổ sào cho
ghe đi, dì Hường có mặt kịp thời. Dì đặt chồng tô đi thu gom từ những bạn hàng
ở chợ xuống đất, dì xuống ghe và ôm mẹ khóc hết nước mắt. Khi ghe đã đi rồi, mẹ
mới biết được dì đã lén đút hết cuộn tiền đi thu tiền hủ tiếu vô túi áo mẹ.
Nghe bà ngoại nói, dì bị đòn cũng tan xương nát thịt vì tội ăn cắp số tiền đó.)
Bao năm nay, mẹ cứ tâm niệm là mẹ còn thiếu người chị em một trận đòn, thiếu dì
Hường cái tình nghĩa người dưng mà hơn cả ruột thịt.
Mẹ không ghé thăm bà nội hay bác Hai, vì chẳng có gì cho mẹ thăm. Nhưng
dì Hường có cho mẹ hay là chú Tư đang ở tù vì vận chuyển xì-ke ma túy,
chờ ngày ra pháp trường chứ không phải tù ngồi một thời gian như những lần
trước. Mẹ suy nghĩ thật kỹ và tự đi thăm ông. Lúc đối mặt nhau ở nhà tù, ông
nói: "Ong đã cầu nguyện cho được gặp lại mẹ một lần. Và ông đã mãn
nguyện". Những câu xin lỗi của một người ăn năn thật hay giả thì mẹ không
quan tâm, Mẹ chỉ nói với ông: "Tôi, không đến đây để thăm ông. Tôi đến đây
chỉ để nói với ông: Những gì ông đã gây ra cho tôi thì tôi bỏ qua! Những gì gọi
là giúp đỡ tôi lúc khốn khổ thì tôi trả ơn ông bằng cách cho ông biết: Hai đứa
con tôi đã nên người…" Mẹ không muốn nói thêm nên ra về.
Vì mẹ không yên tâm lắm về cuộc sống của dì Hường nên đã để lại địa chỉ
cho dì Hường liên lạc khi túng thiếu và cần mẹ giúp đỡ. Theo dì Hường cho biết
qua thơ thì người chồng của dì đã ăn cướp hết tiền sửa nhà (nên nhà cũng chưa
sửa được gì mà tiền thì đã hết). Phần tiền trong nhà bank thì ông không lấy ra
được nhưng đánh đập dì mỗi tháng khi lấy ra tiền lời nhưng không đưa cho ông.
Tóm lại, mẹ cũng không giúp được dì sướng hơn mà làm cho dì còn khổ hơn không có
tiền. Thật là đau khổ.
Dì cũng cho mẹ biết: Sau lần mẹ vô thăm chú Tư trong tù thì ông đã tự tử
chứ không đợi ngày bị đưa ra pháp trường. Mẹ không ăn năn, hối hận gì về việc
đó! Biết ông là cha của tụi con, và mẹ nghĩ ông ấy đã để lại một chút con người
cho con cái không quá xấu hổ về người cha - như thế cũng tốt!
Chuyện ông chồng của dì Hường đã đánh cắp địa chỉ của mẹ để đưa cho bác
Hai với thoả thuận gì giữa họ thì mẹ không biết. Mẹ chỉ trình bày hết sự thật
cho con quyết định có bảo lãnh bác Hai sang đây hay không? Cho con hiểu rõ hết
những điều mà bao năm qua mẹ đã không nói! Con thương hay oán trách mẹ thì mẹ
cam chịu khi không thể làm gì hơn được…"
Vậy là bức màn u uất về bản thân tôi đã được vén lên rõ ràng. Xét về
mọi mặt… thì tôi không nên bảo lãnh bác Hai sang đây làm gì! Nhưng lòng riêng
tôi cứ muốn đưa ông sang đây để ông tận mắt thấy được hạnh phúc mà mẹ tôi đang
có. Để ông thấm thía tội ác mà ông đã gieo cho người vô tội thì về sau: Người
hiền vẫn được trời thương, người ác vẫn bị trừng phạt. Tôi muốn ông sống thật
lâu để chết mòn trong bơ vơ và đau khổ ở xứ người, hơn là để ông chết với một
cơn say thuốc phiện quá liều bằng cách gởi tiền về cho ông ăn hút ngập mặt;
chết vô thừa nhận như một kẻ vô lại.
Những thù oán xưa cũ đã cho tôi nghị lực để hoàn thành ý nguyện từ
mỗi miếng giấp khai sanh - xét ra chẳng có giá trị gì! Tờ khai sanh như tờ giấy
lộn với cái mộc đỏ của cấp Phường, là đơn vị hành chánh cấp địa phương, vừa vô
nghĩa, vừa nực cười… Nhưng lòng riêng đã quyết nên tôi không ngại tốn kém. Tôi
thực hiện bằng được một cuộc trả thù xứng đáng cho những gì mẹ con tôi đã chịu
đựng từ mấy mươi năm qua và tới hết đời chúng tôi không chừng! Tánh tình em tôi
có dịu lại từ khi Ơn trên đã sai phái người vợ hiền ngoan của nó đến giúp nó
làm lại cuộc đời. Nhưng tôi biết trong lòng nó chẳng bao giờ có bình an - nhất
là những lúc mẹ tôi đau đớn với nội tạng hư hao vì bị hành hạ xưa kia…
Ngày, vợ chồng tôi ra phi trường đón bác Hai - với danh nghĩa cha tôi.
Tôi thề không khoan nhượng trong cuộc trả thù này. Nhưng bề trên không muốn cho
tôi trở thành một người độc ác. Người đàn ông răng hô, da trắng xanh đến bệnh
hoạn, nói giọng Bắc đặc… thì chắc chắn không phải bác Hai tôi vì gia đình nội
tôi người miền Nam. Tôi chưng hửng, không biết đối phó ra làm sao trong trường
hợp mà mình không lường trước được. May là chồng tôi tỉnh táo, anh nói chuyện
với tôi bằng tiếng Anh và dùng toàn tiếng lóng vì không biết ông Bắc này có
biết tiếng Anh không? Chồng tôi đã bình tĩnh để suy xét:
- "… Ba em (bác Hai) đã khôn hơn em tưởng! Ông qua đây làm gì cho em
trả thù? Ông đã nhường chuyến xuất ngoại này cho một tội phạm trong nước hay
cán bộ bị truy nã vì lý do gì đó?... thì anh không cần biết! Bác Hai ôm một
đống tiền, tha hồ ăn hút ở Việt Nam, không sướng hơn sang đây cho em trả thù!
Ông này đủ tiền mua một chuyến xuất ngoại và qua mặt chính quyền thì ông ấy là
tay ghê gớm bên Việt Nam. Anh nghĩ, ra khỏi phi trường, ông ta sẽ bỏ trốn mình.
Chuyện còn lại là chúng ta đối mặt với luật pháp ở đây là không khai báo khi
đón nhận thân nhân giả mạo…"
- "…. Em hết biết tính sao rồi! Anh tính toán giùm em."
Chồng tôi cho biết:
- "Nếu mình tố cáo ông ấy ngay trong phi trường thì mình vô tội. Ông ấy,
không phải người tốt cho mình áy náy hay hối hận gì đâu! Phần bác Hai của em
bên Việt Nam cũng không yên nếu ông này không trót lọt bên đây! Có thể tay chân
ông này sẽ đòi lại tiền bằng máu của bác Hai. Nhưng những người không đáng giúp
này thì rất cần trừng trị…"
Tôi đồng ý với chồng tôi nên anh giả đi vô toilet để gọi cảnh sát. Ong
Bắc đúng như chồng tôi tiên đoán, ông cũng giả đi toilet nhưng trốn chạy! Ong
ta là tội phạm cỡ nào bên Việt Nam thì tôi thật thà không biết!
Chồng tôi đã giúp tôi qua được những rắc rối điên đầu với cảnh sát cho
tới khi họ tóm được thủ phạm của một vụ lừa đảo sở Di Trú Hoa kỳ.
Nhiều lần ngồi nhớ lại chuyện ân oán này. Tôi hiểu biết hơn về lòng mình với
những ân oán của con người. Tôi nghĩ… Hãy để bề trên phán quyết thay ta.
Phan
------------------------------------------------------
* Lời người viết.
Cảm ơn nhân vật "tôi" trong bài ghi chép của Phan.
Cảm ơn bạn đã cho nhiều người suy nghĩ về tình yêu và hận thù trong những hoàn
cảnh tương tự với bạn. Lớn hơn là suy nghĩ về tình yêu và hận thù trong thời
đại chúng ta.
Cảm ơn nhân vật "mẹ" đã đồng ý cho phổ biến trên trang
báo về cuộc đời không may nhưng kết thúc khá có hậu của bà. - Như một thông
điệp chia sẻ cùng bạn đọc: Ở hiền gặp lành không bị ảnh hưởng gì từ văn minh và
khoa học kỹ thuật. Con người muôn đời - gieo gió gặt bão - ở hiền gặp lành.
Chân thành cảm ơn qúy vị
Người ghi chép
Phan
No comments:
Post a Comment