Trong gần đây, nhiều người nói tới năm 2020, Việt Nam sẽ lệ thuộc Tàu (1) vì sẽ trở thành “một vùng tự trị” hay “một tỉnh lẻ” của Tàu. Khi nói về ngày mai này, người ta nhắc lại “Hội nghị Thành Đô” tuy văn bản qui định việc này, không biết có ai thấy không?. Nhưng nói về “ảnh hưởng đậm” hay “lệ thuộc” Tàu thì trong nhiều sách vở và báo chí của chế độ, không thiếu những lời như “Việt Nam và Trung quốc sông liền sông, núi liền núi” hoặc “môi hở răng lạnh” và, nhất là “Tổ quốc xã hội chủ nghĩa”, hay lời của Trường Chinh kêu gọi người Việt Nam hảy bỏ chữ quốc ngữ vì chữ này là của thực dân đem tới, không phải chữ của ta, hãy trở về học chữ Hán (2), còn trong sách vở xưa, thì “Việt Nam và Trung Quốc đồng văn, đồng chủng”. Thực tế sẽ ra sao, chúng ta hãy chờ trả lời. Chỉ còn 2 năm nữa mà thôi.
Ngày nay, có điều chắc chắn, rõ ràng, ai cũng có thể ghi nhận không cần
bàn cãi là hướng đi của Việt Nam do đảng cộng sản lèo lái vẫn lấy Tàu
làm khuôn vàng thước ngọc. Việt Nam phải giống Tàu, phải bám theo sát
Tàu. Tập Cận Bình là chuẩn mực. Qua 2 lần tuyên bố của Nguyễn Phú Trọng,
vào tháng 1-2018, trước Quốc Hội và đông đảo các nhà báo: “những
đảng viên đòi đa nguyên đa đảng, từ bỏ xã hội chủ nghĩa, đòi thực hiện
Tam quyền phân lập là bị tác động bởi bọn phản động, phải bị khai trừ ra
khỏi đảng”, và tiếp theo, trong tháng 7, nặng lời hơn: “Những kẻ đòi đa nguyên đa đảng, từ bỏ CNXH, đòi Tam quyền phân lập, đều là bọn bất hảo” (chớ không phải kẻ có lý luận như Trọng), ai cũng nhận thấy đường lối lệ thuộc Tàu của Trọng thể hiện rất rõ: “Việt Nam với Tàu là một. Một chế độ, một văn hóa”.
Giờ đây, chúng ta thử hình dung cái “một” đó là gì, như thế nào, qua chính sách của Tập Cận Bình?
Không thể dân chủ hóa chế độ
Theo Giáo sư Jean-Pierre Cabestan, chuyên viên về Tàu, nhận xét mang tính kết luận “Ở Tàu, cá nhân làm giàu và tiêu thụ là ưu tiên, trước sự cần nới rộng tự do và những quyền chính trị”.
Trong quyển sách mới xuất bản (Demain la Chine: Démocratie ou Dictature?,
Gallimard, Paris, 3/2018), ông Cabestan cho rằng khả năng của dân chúng
Tàu thích nghi và sự đồng thuận trong nội bộ đảng cộng sản để duy trì
quyền lực là sẽ không cần phải thay đổi chế độ hiện tại. Mặc dầu như vậy
là không phù hợp v ới xu thế thời đại, xung đột mạnh với nền dân chủ
Tây phương. Nhiều học giả Tàu cũng lo ngại nghĩ rằng chính trị và xã hội
được tự do để lần lần sẽ dân chủ hóa chế độ là điều khó tránh làm cho
đất nước bị xáo trộn, mất ổn định.
Sau Đại hội đảng cộng sản Tàu thứ XIX đưa Tập Cận Bình lên làm Hoàng đế
Tàu suốt đời, phân tách những khả năng thích nghi và đổi mới của một chế
độ, ông Cabestan quả quyết Tàu “không thể dân chủ hóa” được. Chẳng những “dân chủ hóa không thể được”, mà ông còn cho đó, đúng hơn, là một “chế độ độc tài”.
Nói đó là một chế độ độc tài vì quyền lực thật sự được thể hiện ở con
người Tập Cận Bình, đứng đầu một đảng duy nhất cai trị nước Tàu theo một
mô hình đổi mới độc đoán.
Sau khi chiến tranh lạnh kết thúc, nhiều nước cộng sản đã lần lược thay
đổi theo dân chủ. Nhưng Tàu là trường hợp khá đặc biệt. Ngoại lệ chăng?
Liệu Tàu sẽ đứng vững được bao lâu khi Tàu hoàn toàn không nghĩ tới từng
bước tiến lên theo hướng dân chủ trong lúc thế giới tranh chấp nhau với
những ý hệ ngày càng công khai?
Tập Cận Bình chủ trương mở cửa ra thế giới, tiếp xúc với những nước dân
chủ nhưng vẫn chống lại những nước này, tìm cách áp đặt tương quan lực
lượng có lợi cho mình. Tập tìm cách xuất cảng mô hình Tàu ra thế giới,
nhất là nhắm những nước kém mở mang. Không phải chỉ để bảo vệ chế độ hay
củng cố tính chính thống của chế độ, mà đó chính là tham vọng bá chủ
thế giới của Tập Cận Bình.
Khi nói dân chủ, người Tàu cũng nói họ có dân chủ. Chế độ ở Tàu của họ
là chế độ dân chủ. Thứ dân chủ tốt hơn dân chủ tư bản cả vạn lần. Nhưng
thứ gọi là dân chủ ở Tàu đó lại từ chối nhân quyền, từ chối những quyền
căn bản như quyền bầu cử tự do, quyền lập đảng, tự do thông tin, tự do
phát biểu, công khai ngân sách của đảng cộng sản…
Đừng quên mô hình độc tài của Liên Sô. Chế độ Tàu là một copie
lénino-staliniste: 1 đảng duy nhất lãnh đạo toàn diện và triệt để, chọn
đảng viên “uu tú” (cốt cán) cầm quyền, đàn áp mọi chống đối, nhất là
không tha những người có ý muốn thay đổi chế độ theo dân chủ tự do thật
sự.
Kinh tế phát triển, Tàu sẽ thay đổi theo dân chủ?
Tuy ngày nay, chế độ độc tài ở Tàu không còn như trước khi bức tường Bá
Linh sụp đổ nhưng đó vẫn là một chế độ cực kỳ phản động. Thật ra chế độ
cộng sản là phản động. Nhiều nhà phân tích cho rằng tham nhũng và khủng
hoảng kinh tế như tăng trưởng xuống, công nợ tăng, thất nghiệp đông, sẽ
làm cho chế độ sụp đổ. Thật ra khả năng thích nghi của dân chúng sẽ giúp
chế độ tồn tại - nhất là giới dân chúng biết dựa vào chế độ làm giàu
vẫn là lực lượng bảo vệ chế độ vững mạnh. Đồng thời Tập quan tâm thực
hiện những thay đổi kinh tế nhưng vẫn lo sợ những nhà đầu tư tư nhân sẽ
gây ra nhiều rủi ro cho chế độ nên Tập càng kiểm soát đảng chặc chẽ
hơn.
Ngày nay, Tập biết mình có nhiều kẻ thù nên Tập phải tìm cách nắm trọn
quyền lãnh đạo trong tay suốt đời. Buông đảng ra là chết. Chỉ yên tâm
khi nào Tập loại được hết kẻ thù, đào tạo một thế hệ nối tiếp biết trung
thành với Tập. Nhưng liệu toan tính này có vượt quá tầm tay một cá nhân
hay không?
Tóm lại, nhìn vào thực tế ở Tàu, người ta thấy rõ đó là chế độ độc tài
nhưng sẽ bền vững nhờ ở khả năng biết thích ứng của đảng CS, kiểm soát
được xã hội, và dân chúng thấy yên lòng, sống được, còn có lắm kẻ làm
giàu. Điều này trước đây, mơ cũng không có. Và hơn hết, dân Tàu không
biết dân chủ, văn hóa Tàu không có dân chủ. Người Tàu chỉ biết mong đợi ở
một minh quân nên ở Tàu không có sự đòi hỏi dân chủ, tự do quan trọng
trong dân chúng.
Tàu và Việt Nam là “một”, do đó chế độ ở Việt Nam chỉ sẽ thay đổi
chỉ khi nào dân chúng Việt Nam hiểu dân chủ, cần đòi hỏi dân chủ, để tự
mình cai trị chính mình, tự mình giữ gìn và bảo vệ đất nước nguyên vẹn
cho mình.
Về văn hóa, tuy ngày xưa, học chữ Nho, học văn hóa Tàu nhưng cái học đã
được Việt hóa rất căn bản nên giữa 2 nền văn hóa vẫn có nhiều khác
biệt.
Một Văn hóa
Những người học chữ Nho thời xưa theo lối nhồi sọ của Tống Nho, không kịp suy nghĩ, đều nằm lòng Việt Nam và Tàu “đồng văn, đồng chủng”.
Trân trọng chữ Tàu vì đó là chữ của thánh hiền. Thấy một miếng giấy chữ
Tàu lăn lốc trên mặt đất vội lượm lên đem đốt. Không dám bỏ bậy.
Ngày nay, dưới sự cai trị của đảng CSVN, chữ Tàu, tiếng Tàu bắt đầu xuất
hiện ở Việt Nam rộng rãi với một ưu thế mới. Học tiếng Tàu như một
ngoại ngữ là bình thường, không mang ý nghĩa lệ thuộc văn hóa. Nhưng nếu
người Việt Nam tiếp thu văn hóa Tàu theo tinh thần Tống Nho thì sự lệ
thuộc này mới kinh khủng hơn mất đất do dời cột mốc biên giới, mất đảo,
mất biển... Mất văn hóa là mất chính người Việt Nam!
Thật ra văn hóa Tàu có mặt đẹp của nó nên nó mới tồn tại tới ngày nay.
Nhưng về chính trị, Tàu có những tấm gương tuân phục vua/tôi vô cùng
rùng rợn. Khi lệ thuộc văn hóa thì dĩ nhiên Việt Nam sẽ phải được học
thứ văn hóa chính trị này để thể hiện ý nghĩa “một văn hóa” theo chính
sách xâm lược cố hũu của Tàu.
Đây, Cỏ May tôi xin kể một câu chuyện lịch sử tàu để minh họa thứ văn hóa chính trị ghê rợn của Tàu.
Chuyện kể:
“Vua Tề hoàn Công nhờ có Quản Trọng, Bảo thúc Nha và nhiều trung thần
hào kiệt giúp sức nên đã dựng lên cơ nghiệp bá vương, xứ sở cường
thịnh, dân chúng ấm no. Quản Trọng được mọi người kính trọng và biết ơn,
Tề Hoàn Công đã coi ông như một người cha và luôn gọi ông là Trọng Phụ,
và không cho phép mọi người gọi tên huý hoặc tên thật của Quản Trọng.
Cùng làm việc trong cung đình, còn có nịnh thần như Thụ Điêu, Dịch Nha
và Khai Phương.
Thụ Điêu thì tự thiến mình để xin vào cung hầu hạ, vì thế vua rất cảm động và thương yêu cách đặc biệt.
Dịch Nha có tài nấu ăn và là người nấu ăn riêng của vua. Một hôm vua
nói, các món sơn hào hải vị và trân châu bát bửu ta đều đã dùng qua, có
món đã làm ta thật chán. Chỉ duy có món thịt người là ta chưa được nếm
thử bao giờ.
Ngay ngày hôm sau, Dịch Nha liền dâng lên vua một món thịt chế biến
rất hấp dẫn. Ăn xong, nhà vua hết lời khen ngon và hỏi thịt gì. Dịch Nha
nói, đó là thịt đứa con 3 tuổi của hạ thần”.
Thứ văn hóa chính trị tuân phục vì quyền lợi riêng tư này thật kinh
khủng. Ngày xưa, để làm vui lòng nhà vua muu cầu quyền lợi cho mình,
Dịch Nha đã không ngần ngại làm thịt con dâng cho nhà vua đổi món ăn.
Điều này, về ý nghĩa chính trị, không khác gì lắm khi trước đây Hồ Chí
Minh đã long trọng “sông liền sông, núi liền núi” và “môi hở răng lạnh”,
trước sau chỉ nhằm thực hiện tham vọng lãnh tụ, phục hận quá khứ gia
đình. Tới Lê Duẩn xua mười triệu thanh niên Việt Nam vào lửa đạn (3)
cũng chỉ để “phục vụ Liên Sô và Trung Quốc”. Ngày nay, Nguyễn Phú Trọng và đảng cộng sản sẵn sàng đem đất nước dâng cho vua tàu Tập Cận Bình để đổi lấy sự giàu có.
Bắt đầu từng bước thực hiện thứ văn hóa chính trị tuân phục, Trọng đã mở
rộng cửa cho Tàu tràn ngập qua Việt Nam, cho thiết lập khắp nơi nhà máy
Tàu xả thải phá hủy môi trường đất nước, bán những vùng đất quan trọng
về chiến lược cho Tàu cộng khai thác đời đời.
So sánh với giết con, tự thiến của thời xưa để được làm quan thì tội ác
của Hồ Chí Minh, của Lê Duẩn, của Nguyễn Phú Trọng sau này mới thật là
tày trời hơn cả vạn lần. Đặc tính của thứ văn hóa chính trị Tàu xưa nay
là ác. Nhìn lại chế độ Mao để đừng quên có 80 triệu người Tàu chết, từ
Vạn Lý Trường Chinh, những bước Đại Nhảy Vọt đến Cách Mạng Văn Hóa. Vậy
khi Việt Nam lệ thuộc Tàu cộng, cái ác đó sẽ đem áp dụng ở Việt Nam, đời
sống dân chúng sẽ lầm than đến đâu? Như dân Tây Tạng, dân Ngô Duy Nhỉ?
* Ghi chú:
(1) Khi nói Việt Nam sẽ bị lệ thuộc Tàu, rất nhiều tác giả Việt Nam dẫn
chứng “lời ” của Hồ Chí Minh nói với Đại diện của Mao Trạch Đông là 2
tướng Trần Canh và Vị Quốc Thanh năm 1926 và bốn năm sau, năm 1930, nhân
lúc thành lập Đảng Cộng Sản Việt Nam, đươc Hồ Chí Minh lập lại một lần
nữa với Tổng Lý Chu Ân Lai: “Việt Nam và Trung Quốc tuy hai mà một. Một
dân tộc. Một Nền văn hóa. Một phong tục. Một tổ quốc. Nếu giúp chúng tôi
thắng Pháp, thắng Nhật, thắng tất cả bọn tư bản vùng Đông Nam Á, nắm
được chính quyền, thì nợ viện trợ sẽ hoàn trả dưới mọi hình thức, kể cả
cắt đất, cắt đảo, lùi biên giới nhượng lại cho Trung Quốc, chúng tôi
cũng làm, để đền ơn đáp nghĩa.”.
Rất tiếc xuất xứ của lời này không được rõ ràng lắm. Hơn nữa, năm 1926, chỉ có chế độ thực dân Pháp ở Việt Nam.
(2) Trường Chinh, Tổng Bí thư đảng Lao Động, Văn thư số 284/LĐ đang trên Nhật báo Tiếng Dội, 5/1951, Sài gòn.
(3) Duẩn vâng lệnh Mao làm chiến tranh biển người. Lý thuyết chiến tranh
biển người của Mao là “Càng nhiều người bị giết, cách mạng càng thành
công” (D.Acemoglu và J.A.Robinson, “Tại sao các quốc gia thất bại”, NXB
Trẻ, 2013, trang 545).
Về mười triệu người chết trong chiến tranh do Lê Duẩn được bà Bảy Vân
xác nhận trong cuộc phỏng vấn của nhà báo Xuân Hồng (BBC). Bà Bảy Vân
nói thêm nếu Tàu không giúp, Lê Duân sẽ phải hy sinh người dân thêm nữa,
để giải phóng cho được Miền nam.
24.08.2018
No comments:
Post a Comment