Lần đổi tiền thứ hai năm 1978, Hân chẳng có bao nhiêu tiền để đổi.
Lúc đấy Hân đang thất nghiệp, chạy đầu này đầu nọ, chẳng ra việc gì, ai
kêu gì làm nấy, bữa đói bữa no. Có thằng bạn thân vượt biên, trước ngày
đi có cho một ít, ăn được vài tuần cũng hết sạch. Loay hoay mãi mà chưa
biết cách gì để sống. Sách vở bán đã hết. Áo quần cũng chỉ còn bộ đồ mặc
trên người, cũng chỉ còn đôi giày da mòn long đế. Gia sản chỉ có bấy
nhiêu. Căn phòng càng ngày càng vắng đồ đạc, càng thưa thớt người. Lần
lượt từng người đi. Kẻ về quê, người đi đâu mất biệt. Đôi lúc có kẻ lướt
về rồi lại đi. Tất cả tản mác để tiếp tục sống, để tiếp tục tồn tại.
Đang là cuối đông. Sài Gòn bỗng lành lạnh với những cơn gió lạ. Cả xã
hội nghèo, thiếu ăn. Chén cơm trắng là giấc mơ của bao người. Ai cũng
gầy với đôi mắt thất thần và cái bụng lép. Chẳng ai giúp được ai. Hân co
ro dưới gió trên đường Trương Minh Giảng. Con đường quen thuộc cả chục
năm nay, Hân thuộc từng con hẻm, từng lối rẽ, từng cái ổ gà nho nhỏ trên
nền xi măng của vỉa hè. Vẫn biết là chẳng đi đến đâu, chẳng giải quyết
được gì cho cái bụng rỗng đã ba hôm rồi, nhưng anh vẫn đi. Nằm nhà xót
bụng không chịu được, ra đường với chút hi vọng gặp ai đó, gặp một dịp
may nào đó, lượm được đồng bạc ai đánh rơi. Biết đâu? Cũng còn vài người
quen, cũng còn vài thằng bạn. Nhưng Hân ngại. Anh tiều tuỵ quá. Đói
rách quá, ngại gặp mọi người. Gia đình nào cũng nghèo nhưng đến bữa cũng
có bữa cơm dù là bo bo, bột mì hay cá hẩm thịt ôi. Hân chỉ cần có gì bỏ
bụng. Lấp đầy khoảng trống của bao tử đang kêu ầm ĩ. Nhưng Hân không
dám đến nhà ai.
Đói nhưng cái bệnh sĩ vẫn bám vào anh. Hân đi dọc căn phố, những cửa
hàng ngày xưa sầm uất thế, rộn ràng thế bây giờ đìu hiu và buồn tẻ. Đã
gần chập chọang chiều mà căn phố vẫn hiu hắt vì không có điện. Những
giọt mưa lác đác, hắt vào anh. Hân tay ôm ngực tay loay hoay tìm điếu
thuốc. Túi rỗng. Hân thèm một hơi thuốc trong mưa. Hân cúi xuống, mắt
lướt trên nền xi măng, anh lượm được hai cái tàn thuốc. Anh lượm mảnh
giấy báo, xé hai tàn thuốc, gói mấy sợi thuốc vào mảnh giấy báo rồi se
lại. Ánh lửa soi sáng một vùng mặt, khói vờn lên. Bụng đang đói gặp hơi
khói làm đầu anh lâng lâng như say. Những bóng người loang thoáng, chập
chờn. Bụng anh thắt lại. Hân có cảm giác có dòng nước mắt đang âm ỉ chảy
từ đôi mắt cận.
Hân băng qua ngã tư. Góc cây xăng Trần Quang Diệu với Trương Minh
Giảng cũ có một bà cụ già bán bánh ít nhân đậu. Bà cụ người Bắc đã già
lắm. Lưng còng, lúc nào người cũng quấn trong hai ba lớp áo, đầu quấn
khăn. Hàng của bà chỉ chục cái bánh lá đặt trên cái thúng cũng cũ kỹ như
bà. Một bà cụ nghèo, vốn liếng chẳng bao nhiêu. Bà bán vào buổi chiều,
ít thấy khách mua nên nhiều lúc bảy tám giờ tối vẫn còn thấy bà ngồi
dưới đèn đường, bóng bà đổ trên đường nhìn hiu quạnh lắm. Hân lâu lâu
cũng ghé bà, mua một vài cái ăn qua cơn đói. Hôm nay Hân nghĩ giá có vài
cái bánh này, chắc cũng đỡ cho cái bụng. Nhưng anh chẳng còn đồng bạc
nào trong túi. Ngang qua, Hân đi luôn dù chân như muốn níu lại. Hân đi
đến hẻm Trường Lê Bảo Tịnh. Anh quay lại, dùng dằng mấy bước rồi sà
xuống cái thúng bánh tả tơi của bà cụ. Cụ ạ! Cụ cho con hai cái được
không? Mời cậu. Cậu mua giúp. Ế quá. Nhưng cụ ơi! Hôm nay cháu không còn
tiền, cụ cho cháu thiếu được không? Bà cụ ngần ngừ, chép miệng: Khổ thế
cơ à? Ối giời thời thế gì mà ai cũng khổ thế này? Hân đứng lên, anh
thấy chóng mặt, cái đầu hơi quay quay, anh lại đành ngồi xuống. Dạ vậy
thôi cụ ạ. Vốn cụ chẳng bao nhiêu mà cháu lại ăn thiếu thì khổ cho cụ
quá. Bà cụ đưa đôi mắt hấp hem nhìn Hân, móm mém: Khổ đã khổ rồi. Cậu cứ
xơi bánh đi, hôm nào có tiền gởi cho tôi cũng được. Trông cậu xanh quá.
Chắc đói lắm rồi hử?
Đêm đó nhờ hai cái bánh ít, Hân ngủ được một giấc ngon.
Mấy hôm sau đó, có việc ở Biên Hoà, anh xuống làm phụ mộc gần chục
ngày. Về lại Sài Gòn mấy bữa, ghé góc đường lại không thấy bà cụ. Rồi
ngày qua tháng lại, thời gian trôi đi, lúc thì quên, khi nhớ tìm mãi
chẳng thấy bà cụ đâu.
oOo
Cuối năm ấy, một người bạn cho một suất vượt biên, trả tiền sau. Hân
liều làm một chuyến vì đang bế tắc quá. Lênh đênh gần nửa tháng ngoài
biển, máy hư, tàu vô nước, cuối cùng cũng cặp được vào đảo Pulau Bidong
đảo nhỏ ở phía nam biển Đông, thuộc bang Terengganu của Malaysia.
Đảo này được biết đến chủ yếu vì đây mở trại tạm cư cho người Việt tỵ
nạn trong những đợt vượt biên liên tiếp của thuyền nhân từ năm 1975 đến
năm 1991. Đến 30 tháng 10 năm 1991 khi trại đóng cửa thì nơi đây đã tiếp
đón 250.000 người tỵ nạn.
Hân ở đảo gần một năm vì chẳng có thân nhân nào bảo lãnh, anh vốn lớn
lên từ cô nhi viện, tứ cố vô thân nên chẳng biết cậy nhờ ai. Sau đó anh
gia nhập đạo Tin Lành và rồi một hội thánh ở Mỹ bảo lãnh Hân qua Mỹ.
Những năm tháng ở Mỹ, anh cật lực vừa học vừa làm, cuối cùng cũng có một
việc làm ổn định, một bằng cấp kha khá, một căn nhà vừa ý. Hai lần lập
gia đình đều đổ vỡ, không có đứa con nào, anh nghĩ chắc ở thế cho đến
già. Số thế rồi thì chấp nhận vậy. Đi làm về, một mình trong căn nhà
trống, nhiều đêm anh nhớ Việt Nam, đôi khi thấp thoáng bóng của bà cụ và
hai chiếc bánh anh còn thiếu nợ hiện ra trong giấc mơ. Nhưng anh vẫn
chưa về, thật ra cũng chẳng còn ai để về. Chẳng còn chi níu kéo để về.
Nhưng Việt Nam vẫn về trong giấc mơ của Hân. Có một cái gì đó không giải
thích được cứ gọi anh về.
Năm 2002, nhân chuyến công tác ở Thái Lan, anh về lại Sài Gòn năm
hôm. Thành phố chẳng còn như cũ, nhiều nhà cao tầng, phố xá đông đúc
hơn, người ta có vẻ giàu hơn, hàng quán nhiều hơn. Buổi chiều anh về lại
con đường Trương Minh Giảng cũ, con phố này có vẻ ít đổi thay, trường
đại học ngày xưa của anh giờ trông tàn tạ, những bức tường ám rêu, cái
cổng trường vẫn thế. Ngôi chợ cũ khang trang hơn, phố sầm uất hơn. Hân
đi dọc con đường mấy chục năm trước thường đi, vỉa hè không còn loang
lổ, lát gạch đẹp hơn. Đứng ở bên này ngã tư Trần Quang Diệu nhìn qua xây
xăng, anh thoáng thấy bà cụ bán bánh ít nhân đậu xanh đang ngồi ở dưới
cột đèn đường. Lạ nhỉ? Hai mươi mấy năm rồi, cụ còn sống sao? Cụ vẫn
ngồi bán ở đây sao? Hân nhớ hai chiếc bánh còn thiếu nợ bà cụ. Anh vội
băng qua đường. Một chiếc xe bus trờ tới, che tầm mắt của anh. Khi anh
bước qua bên kia đường thì không còn thấy bà cụ nữa. Mới thấy đây mà?
Hay chỉ là ảo ảnh. Hân đi tìm quanh quất mà chẳng thấy gì. Anh đứng ngay
chỗ bà cụ hay ngồi ngày xưa, miệng lẩm bẩm: Cụ ơi! Con về tìm cụ trả
tiền hai chiếc bánh. Chắc cụ chẳng còn trên đời này nữa đâu. Nhưng con
vừa thấy cụ. Hay cụ nhắc con nhớ món nợ năm xưa. Nhưng con biết làm sao
trả. Cụ ơi! Mong cụ siêu thoát. Món nợ này con suốt đời nợ cụ.
Mấy ngày còn lại ở Sài Gòn, Hân cứ quanh quất ở cây xăng Trần Quang
Diệu, hỏi thăm về bà cụ bán bánh ít hơn hai mươi năm trước ở chỗ này.
Mấy hôm rồi chẳng ai biết, chẳng biết thêm tin tức gì. Hôm cuối cùng ở
Việt Nam, anh gặp được một anh chàng xe ôm, anh biết rất rõ bà cụ vì anh
là con rể của bà cụ. Hân mừng quá, ngồi trên xe để anh xe ôm chở về nhà
mà anh cứ ôm bụng anh chàng xe ôm mà nói: Mừng quá, mừng quá. Chắc là
bà cụ khiến anh gặp tui. Mừng quá! Anh xe ôm kể đêm qua thấy cụ về bảo
chiều mai ra góc cây xăng, có người muốn gặp. Hân nói với lên: Thế là cụ
bảo ra gặp tui đấy. Bà cụ linh thiêng thật.
Xe chạy vào mấy cái hẻm ngoằn nghèo. Con hẻm càng vào sâu càng hẹp
lại. Căn nhà ở cuối con hẻm ứ nước, cạnh bãi rác. Nhà sơn tróc loang lổ,
nghiêng ngiêng như muốn ngã. Nhà tù mù một cái bóng đèn vàng hiu hắt.
Một người đàn bà đi ra sau tiếng kêu của anh xe ôm. Hân bước vào nhà,
đập vào mắt anh là chiếc bàn thờ be bé thắp ngọn đèn đỏ quạch soi tấm
ảnh nho nhỏ của bà cụ. Bà cụ đang nhìn anh, mắt nheo nheo với nụ cười
hóm hỉnh. Anh nhớ câu cuối cùng của bà nói với anh hơn hai mươi năm
trước: Khổ đã khổ rồi. Cậu cứ xơi bánh đi, hôm nào có tiền gởi cho tôi
cũng được. Trông cậu xanh quá. Chắc đói lắm rồi hử?
Hân xin ba cây nhang, đốt lửa, ánh sáng bùng lên soi khuôn mặt của người
đàn bà nhầu nhĩ, chắc tại nghèo. Hân chắp tay vào ba cây nhang: Cụ
ơi,con xin lỗi cụ, con đắc tội với cụ, con mang nợ cụ hai chiếc bánh cứu
con qua cơn đói mà bây giờ con mới trả được cho cụ thì cụ đã chẳng còn.
Con không quên được hai chiếc bánh của cụ đâu. Và vì không quên nên con
mới nhìn thấy cụ, con mới tìm được nhà cụ để trả món nợ ân tình.
Hân ra ngoài cửa, ánh sáng cuối cùng của buổi chiều hắt lên ánh sáng
kỳ dị vừa nhờ nhờ vừa tăm tối trên cánh cửa loang lổ. Anh rút hết số
tiền trong ví, trong túi xách, anh không đếm là bao nhiêu nhưng cũng
được một bó bằng cườm tay. Anh xin chiếc dĩa, đặt hết lên đấy và vái một
lần nữa. Cụ ơi! Con xin gởi cụ. Đã biết trễ rồi nhưng có còn hơn không.
Con đội ơn cụ và mong cụ tha lỗi cho con.
Hân bước ra con hẻm, ánh đèn đường vừa bật, anh lại ra con đường cũ.
Cây xăng đang tấp nập. Khoảng sáng chiếu ở dưới đèn đường, anh lại thấy
nụ cười và dáng lom khom của bà cụ. Nhưng lần này cụ không có bóng đổ.
Đỗ Duy Ngọc
Truyên hay và có hậu.
ReplyDelete