Vào dịp cuối năm 1984, một buổi họp mặt các cựu tù
nhân chính trị được tổ chức ở San Diego. Xướng ngôn viên của buổi lễ cho biết :
“Khi tôi xướng tên trại nào, nếu quý anh là trại viên của trại đó, xin đứng dậy
và tự giới thiệu tên của mình để các anh em khác được biết”. Nhiều trại cải tạo
ở miền Bắc được lần lượt xướng tên như “Phong Quang”, “Yên Báy”, “Vĩnh Phú”,
“Thanh Cẩm”, “Lý Bá Sơ”, “Nam Hà”, “Phú Sơn” v.v Trại nào cũng có năm bảy anh
đứng dậy và giới thiệu tên của mình. Khi xướng tên trại Nam Hà, tôi đứng dậy và
có thêm bốn anh nữa , trong đó có một anh, tự giới thiệu tên của mình là Lê
Trung Đạo. Tôi lẫm nhẫm Lê Trung Đạo, Lê Trung Đạo…sao tên nghe quen quá, hình
như anh ấy ở chung đội với tôi thì phải. Khi phần giới thiệu các anh em trại
Nam Hà chấm dứt, tôi đi đến bàn của anh Đạo, đứng đối diện và nhìn kỹ anh ấy.
Tôi nhận ra anh Đạo ngay. Tôi ôm chầm lấy anh, và anh ấy cũng ôm tôi trìu mến.
Tôi thì thầm bên tai Đạo : “Em còn nhớ anh không? ” Đạo trả lời ngay: “Anh
Uyển, mà sao em có thể quên được, thật vui mừng được gặp lại anh. Em trông chờ
ngày này đã lâu lắm rồi!”
Khi cùng sống trong cảnh đọa đày nơi trại Nam Hà, phân
trại C, tôi và Đạo nằm gần nhau. Ra đồng, bắt được con cua, con cá, tôi và Đạo
cùng chia sẻ với nhau. Đạo là một Thiếu Úy Cảnh Sát Đặc Biệt, mới ra trường,
không biết làm Trưởng G hay H gì đó..mà bị đày ra cải tạo ở miền Bắc. Anh
còn quá trẻ, khoảng 24, 25 tuổi. Tôi xem anh như một người em của tôi và tôi
rất quý mến anh. Đạo chưa lập gia đình. Anh chỉ còn một mẹ già đang sống ở Vĩnh
long. Vì vậy, từ ngày bị đưa ra Bắc, Đạo chưa bao giờ nhận được quà của thân
nhân từ trong Nam gởi cho anh. Anh sống hiền hòa, vui tính, nên anh em trong
đội ai cũng mến anh. Đạo xem tôi như một người anh trong gia đình, anh
tâm sự với tôi : “Đời em chẳng còn gì nữa, chỉ có một người mẹ, mà từ ngày bị
đày ra Bắc, đã trên 5 năm rồi em chẳng có tin tức gì của mẹ em. Không biết bà
còn sống hay đã ra người thiên cổ”
Đạo nắm tay tôi và cảm động nói: “Giờ đây em chỉ có
anh là người duy nhất thương mến em, cho em chút an ủi để sống qua ngày!”
Như có một động lực nào thúc đẩy, Đạo tâm sự với tôi :
“Anh ạ,mình phải sống chứ anh, mà muốn sống, dù là cuộc sống thấp nhất, cũng
phải có một ước mơ gì đó để mà mộng tưởng, để tiếp sức cho mình. Các anh em ở
đây , dĩ nhiên ai cũng mơ ước sớm được trở về với gia đình. Ngoài xã hội thì kẻ
này mơ trúng số, kẻ kia mơ nhà cửa , ruộng vườn v.v. Nhưng sống nơi địa ngục
trần gian này, anh em mình mơ ước điều gì đây? Tất cả đều nằm ngoài tầm tay của
mình. Đạo nói tiếp em chợt nhớ lại một câu chuyện cổ tích của Pháp, tựa đề
là “Un Peu De Soleil Dans L’eau Froide” kể lại câu chuyện một ông lão nghèo
khổ, sống cô đơn một mình trong căn lều nhỏ bé, trống trước, trống sau. Bổng
một bà tiên hiện ra và cho ông một điều ước. Bà tiên cứ nghĩ, thế nào ông lão
nghèo nàn này cũng sẽ ao ước có một căn nhà, hoặc ao ước có nhiều tiền
bạc..v..v. Nhưng bà tiên vô cùng ngạc nhiên, khi ông lão nghèo khổ ấy chỉ xin
“Một Nụ Cười”
Ông lảo bất hạnh trong câu chuyện cổ tích, đã chỉ cho
Đạo một mơ ước, mà dù trong hoàn cảnh nào cũng có thể đạt được, đó là một nụ
cười. Không cần phải là nụ cười của giai nhân, mà chỉ cần một nụ cười thân ái
của ai đó, chân thành trao cho anh, vì yêu mến anh, có thế thôi.
Cuộc sống tù đày cứ kéo dài triền miên trong đói khổ,
vô vọng. Nhưng khi nghĩ đến một nụ cười, Đạo thấy tâm hồn mình có chút an ủi,
nhẹ nhàng. Hằng ngày , Đạo ước mơ nhận được nụ cười. Đêm đêm Đạo cũng ước mong
trong giấc mơ, anh sẽ gặp được một nụ cười. Nhưng buồn thay, những giấc mơ đến
với Đạo chỉ là những cơn ác mộng mà thôi.
Nhưng thật kỳ diệu, từ ngày Đạo ôm ấp ước mơ có được
một nụ cười, anh thấy cuộc đời của anh có chút ý nghĩa, vì dù sao anh cũng có
một ước mơ, để mà thương, mà nhớ, mà mong chờ.
Một hôm, đội được dẫn đi gặt lúa, khi đi ngang qua
cỗng cơ quan, Đạo thấy nhiều chiếc áo vàng đứng ở đó. Nhìn lướt qua, Đạo chợt
thấy một nữ cán bộ nhìn anh mỉm cười. Anh không tin ở mắt mình, anh nghĩ rằng
có thể cô ta cười vu vơ gì đó, chứ đâu phải cười với anh. Anh quay lại nhìn một
lần nữa, vẫn thấy cô ta nhìn anh và mỉm cười.
Từ ngày ấy, mỗi khi đội đi ngang qua cỗng cơ quan, Đạo
đều bắt gặp nụ cười của người nữ cán bộ dành cho anh. Vì vậy khi đi lao động,
Đạo luôn luôn đi cuối hàng để dễ đón nhận nụ cười của cô nữ cán bộ. Đạo cũng
cười đáp lễ với cô ta. Đạo bắt đầu thấy cuộc đời của mình, có một chút gì thi
vị, đáng sống. Khi ăn, khi ngủ, nụ cười đó luôn luôn theo anh, cho anh niềm an
ủi, và chút lạc quan để sống. Anh em trong đội đều biết mối tình mắt nhìn mắt
và trao đổi nụ cười của Đạo và cô nữ cán bộ.
Không những Đạo nhớ đến nụ cười, anh còn nhớ đến đôi
mắt như muốn nói với anh muôn ngàn lời, anh nhớ đến người con gái ấy. Ban đầu
anh nghĩ rằng cứ giã bộ vui vẻ cho qua ngày. Nhưng trong tâm trí anh, luôn luôn
nhớ đến cô gái ấy và anh nhận ra rằng anh đã yêu cô ta. Đạo nhớ lại ngày xưa
Elvis Presley đã hát một bài hát nỗi tiếng là bài Don’t Gamble With Love nay
thật đúng như trường hợp của Đạo. Bây giờ Đạo không còn cho rằng lao động là
khổ sai nữa, mà anh trông chờ mỗi buổi sáng được đi ngang qua cỗng cơ quan, để
đón nhận nụ cười của người nữ cán bộ.
Một buổi chiều khi đi lao động về,nghe các anh em Công
Giáo tập hát bài “Đêm Đông lạnh lẽo Chúa sinh ra đời”, Đạo mới biết, đêm nay là
đêm Noel. Khi cửa phòng giam đóng lại, anh em Công Giáo vội vã thiết trí một
ngôi sao Giáng Sinh và hàng chữ “Mừng Chúa Giáng Sinh” ở vách tường cuối phòng.
Họ nắm tay nhau ca hát, đọc kinh, cầu nguyện. Đạo nằm mơ màng, lơ đãng nhìn về
cuối phòng, chung quanh hàng chữ “Mừng Chúa Giáng Sinh”, Đạo tưởng tượng như có
những bóng đèn màu chớp sáng. Anh mơ hồ nghe như có tiếng nhạc bài Silent Night
dịu dàng thoảng đi trong gió…Anh thiếp đi trong giấc ngủ yên lành.
Vào một buổi sáng chúa nhật, chúng tôi được gọi ra sân
để nhận quà của thân nhân từ trong Nam gởi ra. Thường thì 80 đến 90 phần trăm
anh em đều nhận được quà. Riêng Đạo thì chưa bao giờ nhận được quà của thân
nhân. Nhưng thật bất ngờ, hôm nay cán bộ lại kêu tên Đạo lên nhận quà, ai cũng
ngạc nhiên và mừng cho Đạo. Anh nhận một gói quà bình thường, nhưng cách gói
quà, khác với những gói quà từ trong Nam gởi ra. Đạo sững sốt nhận gói quà, đem
về phòng, cẩn thận mở ra. Một mãnh giấy nhỏ nằm trên những gói đồ ăn, anh đọc
vội hàng chữ “Trìu mến gửi anh Đạo – Em : Kim Chi”. Với mấy chữ ngắn gọn đó,
Đạo biết ai gởi cho anh món quà tình nghĩa này. Anh ôm gói quà vào lòng. Anh
không ngờ người nữ cán bộ có nụ cười dễ thương đó, lại dám liều lĩnh gởi quà
cho anh. Hai hàng nuớc mắt chảy dài xuống má, đây là những giọt nước mắt hạnh
phúc mà từ lâu anh không hề có.
Trại Nam hà, Phân trại C, nơi chúng tôi đang ở, phía
sau là con đường làng. Trại chỉ ngăn cách với bên ngoài bởi những bụi tre thấp
và hàng rào kẽm gai. Dân chúng đi ở ngoài, chúng tôi có thể thấy họ. Thường vào
buổi chiều, sau khi ăn cơm xong , chúng tôi hay ra ngồi chơi ở sân sau đó, nhìn
người qua lại. Một hôm, chúng tôi thấy cô cán bộ Chi đi lui, đi tới ở ngoài
hàng rào, rồi thình lình quăng vào trong một cái gói nhỏ. Chúng tôi biết cô ấy
gởi gì đó cho Đạo, chúng tôi mang vào cho anh. Đạo không biết Chi gởi gì cho
anh, nhưng anh cảm động lắm. Anh em hiếu kỳ đứng quanh giường của của Đạo, để
xem cô Chi đã gởi gì cho anh: đó là một gói xôi và một con gà vàng rộm. Đối với
tù nhân, đói triền miên như chúng tôi, thì gói xôi gà này là cao lương mỹ vị
bậc nhất trên thế gian này. Đạo rất hào phóng, anh chia đều xôi, gà cho tất cả
32 anh em trong đội, mỗi người được một muỗng xôi và chút ít thịt gà. Có người
ăn ngay, nhưng cũng có vài anh em để đó, hít hít mùi thịt gà cho đỡ thèm.
Đạo thấy thương Chi quá, vì yêu anh, nàng đã gan liều
làm những việc như vậy, vì nếu bị phát giác, nàng ở tù như chơi. Đạo càng
thương Chi khi nghĩ đến tương lai : một cán bộ công an yêu một sĩ quan cảnh sát
ngụy...thì đời nào có thể sum họp được. Anh thở dài !
Vào một sáng chúa nhật, một anh trật tự đến phòng
chúng tôi, bảo anh Đạo chuẩn bị ra có người thăm nuôi. Chúng tôi rất ngạc
nhiên, vì từ bao năm nay, Đạo thuộc diện con mồ côi, chưa hề có ai gởi quà cho
Đạo, nói gì đến chuyện thăm nuôi.Thế mà hôm nay, lại có người thân nào đó đến
thăm Đạo. Chúng tôi mừng cho Đạo. Khoảng 9 giờ sáng, anh được cán bộ dẫn ra nhà
thăm nuôi. Chúng tôi hồi hộp chờ Đạo trở vào để xem anh nhận được những quà gì
của thân nhân đem đến.
Nhưng chúng tôi chờ mãi…đã ba , bốn giờ chiều rồi, vẫn
chưa thấy Đạo trở vô trại. Thường một trại viên được gặp mặt thân nhân khoảng
15, 20 phút, tối đa là nửa giờ. Thế mà , Đạo ra nhà thăm nuôi đã hơn bốn, năm
tiếng rồi mà chưa thấy vô. Chúng tôi bắt đầu lo lắng cho Đạo, không biết chuyện
gì đã xảy ra cho anh, lành hay dữ. Và từ đó, chúng tôi không còn biết tin tức
gì về Đạo nữa.
Hôm nay gặp lại Đạo, tôi đem chuyện ấy ra hỏi Đạo, anh
đã kể cho tôi nghe câu chuyện sau đây:
“ Anh Uyển nhớ không, ngày chúa nhật
hôm đó, em được dẫn ra nhà thăm nuôi, nói là có thân nhân đến thăm. Em vô cùng
ngạc nhiên vì em đâu có thân nhân nào từ trong Nam có thể ra thăm em. Bước vào
nhà thăm nuôi, em thấy Chi và một ông Thượng Tá công an ngồi ở đó.Chi vội vã
đứng lên giới thiệu : “Đây là cậu Du của Chi, đang công tác ở tỉnh Thái Bình,
em nhờ cậu ấy đến thăm anh.” Đạo bối rối nhìn Chi, nhìn ánh mắt, nụ cười của
Chi. Chi mặc đồ công an, trên cổ áo có đeo quân hàm Thiếu Úy. Chi biết Đạo ngỡ
ngàng, thắc mắc nên cô nói ngay : “Anh đừng lo, em bảo anh làm gì thì cứ làm
theo, chớ có hỏi han gì hết”. Chi dẫn Đạo vào một căn nhà ở gần nhà thăm nuôi,
nhà không có ai cả. Chi bảo tôi cởi bộ áo quần tù ra, và mặc ngay bộ đồ công an
đã để sẵn ở đó; ngoài áo quần, có cả nón, cặp da và giấy chứng nhận đi công tác
miền Nam. Em như trên trời rớt xuống, nhưng không có thì giờ để hỏi Chi, việc
gì đang xảy đến cho em. Khi em đã mặc xong bộ đồ công an, Chi nhìn em mỉm
cươì , rồi kéo em ra ngỏ, bảo em leo lên một chiếc xe Jeep nhà binh đậu sẵn ở
đó., và chạy ra ga xe lửa Phủ Lý. Chi bảo em cứ ngồi trên xe, Chi vào mua vé xe
lửa đi về Sàigòn. Khi đưa em lên xe lửa, Chi ân cần căn dặn: “Không nên về nhà,
cũng đừng liên lạc với mẹ, mà tìm một người bà con nào đó ở tỉnh khác xin trú
ngụ vài ngày, rồi tìm đường vượt biên. Tốt nhất là đi đường bộ qua ngã
Campuchia”. Chi đưa cho em một gói giấy và nói: “Đây là ít tiền để anh tiêu
dùng, nhớ là phải vượt biên ngay nhé!”. Chi cầm tay em và chân thành nói : “Em
là vợ của anh, anh đừng quên em!”. Em ôm Chi vào lòng, nước mắt ràn rụa. Chi
cũng khóc trên vai em. Xe lửa từ từ lăn bánh, hình ảnh Chi cô đơn đứng một mình
trên sân ga, nhỏ dần, nhỏ dần.. Em thấy nhiều lần Chi đưa tay lên lau nước mắt.
Trong tim em, mối tình mà Chi dành cho em quá sâu đậm, đã chiếm trọn cuộc đời
em. Em vỗ vỗ vào trái tim của mình “Đạo, Đạo, mày phải sống xứng đáng để đền ơn
đáp nghĩa cho Chi nghe chưa”
Khi xe lửa dừng lại ở ga Bình triệu, Sàigòn, em không
về nhà em ở Vĩnh Long, mà đến nhà dì em ở Cần Thơ xin trú ngụ.Chồng của dì
là một Đại úy Công Binh Việt nam Cộng Hòa, trước năm 1975, ông phục vụ ở
Tiểu Đoàn 24 Công Binh Kiến tạo, mới được trả tự do. Gia đình dì, dượng tôi
đang âm thầm chuẩn bị vượt biên. Dì, dượng em vui vẻ chấp thuận cho em cùng đi
theo. Emi đã đưa gói tiền mà Chi trao cho tôi, cho dì tôi để bà tiêu dùng. Mở
gói ra xem, dì bảo em : “Tiền đâu mà cháu có nhiều vậy?” Em trả lời ngay : “Của
vợ con cho đó!”
Vào một đêm tối trời, ghe máy chở cả nhà ra cữa biển
Đại Ngãi, vì tàu lớn đang đậu ở đó. Sau 3 ngày và 4 đêm, tàu đã đến hải phận
Thái Lan, được tàu tuần duyên của Thái Lan đưa về trại Sikiew. Trong cuộc phỏng
vấn thanh lọc, nhân viên Cao Ủy Tỵ Nạn Liên Hiệp Quốc hỏi em rất ít. Em nghĩ là
họ có đầy đủ hồ sơ cá nhân của ngành Cảnh Sát Đặc Biệt. Họ chỉ hỏi em là làm
Trưởng G hay Trưởng H, em trả lời. Người nhân viên đó lấy trong tập hồ sơ ra
một tấm ảnh, anh ta nhìn em rồi gật đầu.Thế là em vượt qua cuộc thanh lọc.
Mấy tháng sau, họ chuyển em qua trại Pulau Bidong ở Mã Lai, để chờ chuyến bay
đi định cư ở Mỹ.
Em mau chóng gởi thư cho má ở Vĩnh Long, báo tin em đã
bình yên đến trại Pulau Bidong ở Mã Lai, đang chờ chuyến bay để đi định cư ở
Mỹ. Khoảng 2 tuần sau, em vui mừng nhận được thư hồi âm của má, và một bất ngờ
thú vị đến với em là có cả thư của Chi nữa! Má em đã viết : “Đạo con, má rất
vui mừng nhận được tin con đã đến nơi bình yên. Má cho con biết là Chi đang ở
đây với má. Chi đã kể cho má nghe hết mọi chuyện. Má rất hạnh phúc có được một
con dâu hiếu thảo như Chi, má mừng cho con”
Đạo run run mở thư của Chi ra đọc: “ Anh Đạo yêu quí
của em, nghe anh đã đến đảo và đang chờ chuyến bay để đi Mỹ, má và em mừng quá
anh ơi. Khi anh đi về Nam chưa đầy một tháng, họ đuổi em ra khỏi ngành công an.
Em đã về Vĩnh Long ở với má, em thay anh phụng dưỡng, săn sóc má, anh yên tâm !
“
Với lời lẽ chân tình, mộc mạc, em uống từng chữ, từng
lời trong bức thư ngắn gọn của Chi, em áp bức thư vào ngực và đi vào giấc ngủ.
Thưa anh. Năm 1982, em được đi định cư ở Mỹ. Khi
có thẻ xanh, em đã làm hồ sơ bảo lãnh Chi. Trong thời gian ở với má ở Vĩnh
Long, không biết Chi hỏi thủ tục bảo lãnh ở đâu mà nàng ra Thái Bình, nhờ người
cậu Thượng Tá Công An của nàng, làm một giấy hôn thú của em và Chi, có đầy đủ
chữ ký và khuôn dấu đỏ xác nhận của chính quyền địa phương.
Năm 1987 khi em được nhập quốc tịch Mỹ, em đã bổ túc
hồ sơ bảo lãnh. Chi đã nhanh chóng được phỏng vấn. Lúc này, những trường hợp
gian dối chưa xảy ra nhiều, nên việc chấp thuận cho chồng bảo lãnh vợ tương đối
dễ dàng nếu có đầy đủ giấy tờ chứng minh.
Vào một ngày se lạnh ở miền Nam Cali, em và vài bạn bè
thân quen đến đón Chi ở phi trường Los Angeles. Em đã ôm Chi vào
lòng, vì quá cảm động, em chỉ thốt lên được một tiếng “Em!” Chi cũng vậy,
nàng thổn thức trên vai tôi “Anh!”. Chỉ 2 tiếng “Anh” “Em”, nhưng đã gói trọn
cuộc tình mà chúng em nghĩ là không bao giờ có thể sum họp được. Tạ ơn Trời Đất
!
Đạo xây qua người đàn bà ngồi bên cạnh, và giới thiệu
với tôi : “Thưa anh, đây là Kim Chi, vợ em” Chi bẽn lẽn cúi đầu, che dấu nụ
cười đã đem lại sức sống và hạnh phúc cho Đạo.
Tôi đã được nghe, được biết nhiều mối tình ly kỳ, éo
le lắm. Nhưng nếu nói đến một mối tình thật lãng mạn, mà người con gái đã dám
hy sinh sự nghiệp và cả tính mạng mình cho người yêu, thì không thể không nói
đến mối tình của nàng nữ cán bộ công an Kim Chi và chàng
Thiếu úy Cảnh Sát Lê Trung Đạo.
Bửu Uyển
https://vietbao.com
Cảm ơn ông Bửu Uyển đã viết lai một một câu chuyên tỉnh rất cảm động, rất lảng mạn nên thơ trong một bối cảnh rất khắc nghiệt của các trại tù công sản thập niên 80.Một tình yêu thật trong sáng đã vượt xra khỏi những ranh giới của hân thù... của bên thằng cuộc cũng như kẻ bại vong.
ReplyDeleteMong sẽ đón nhận thêm những câu chuyện về tình chiến hữu hữu của những "người hùng" thời hậu chiến như là những "Nhân chứng" hào hùng của Lịch sử Việt Nam trong một khúc ngoặc đen toi nhất....
*
Biện thị ThanhLiem (San Jose)