Tôi
vốn không phải là dân Sài Gòn. Tôi là thằng con trai miền Trung vô Sài Gòn kiếm
cái chữ từ những năm cuối của thập niên sáu mươi, đầu bảy mươi của thế kỷ trước.
Là thằng sinh viên nghèo tự lập chẳng ai nuôi nên tôi chỉ quanh quẩn ở những
xóm lao động của Sài Gòn hoa lệ thời ấy. Để tiện việc học hành, và vì lúc đấy
cũng chẳng có phương tiện di chuyển, tôi bám trụ khu Trương Minh Giảng suốt
quãng đời đi học. Cho đến khi đi làm mua nhà, tôi vẫn quanh quẩn khu vực ấy. Thế
nên Sài Gòn trong tôi là những xóm nghèo, Sài Gòn với tôi là những người lao động
nghèo, những căn nhà nho nhỏ, lụp xụp bên bờ kinh Nhiêu Lộc mà bây giờ
không còn nữa. Ngay đống rác ngay chân cầu Trương Minh Giảng thuở xưa cũng
là nơi ghi dấu nhiều ký ức cùa tôi một thời đã đi qua không trở lại.
Lúc mới vào Sài Gòn, tôi mê những hàng cây. Những cây me đường Nguyễn Du với những
quán cà phê ven vỉa hè. Tôi và bè bạn rong chơi ở đấy suốt đời sinh viên để ngắm
những hàng me, để đón những lá me nhỏ xíu rớt trên vai mình, để nhìn những hạt
mưa bay bay trên những vòm lá xanh biếc màu ngọc bích và để yêu một thành phố.
Tôi cũng mê những buổi chiều đi lang thang sau giờ học ở Đại học Văn khoa, đến
cuối đường Gia Long, ở gần nhà thương Grall để ngắm hai hàng cây giao nhau và
cuối con đường là chủng viện Công giáo với tường màu gạch đỏ.
Cảnh
đó giống như một tác phẩm nghệ thuật và lúc đó tôi nghĩ đây là con đường đẹp nhất
Sài Gòn. Đi thêm một đoạn nữa, ta ngỡ ngàng với hàng cây cổ thụ vươn cao từ khu
Ba Son chạy ra Đinh Tiên Hoàng, những hàng cây thẳng tắp luôn khiến con đường
nhiều bóng mát điểm những bóng nắng loang lổ như một bức ảnh đẹp được chụp bởi
một tay máy nghệ sĩ.
Tôi
cũng thích bách bộ lang thang đến đường Đoàn Thị Điểm(bây giờ là Trương Định) để
ngắm những ngôi nhà sang trọng nhưng rất thanh lịch thấp thoáng sau hàng rào đầy
hoa và con đường nhiều bóng râm.
Nhiều lần đi kiếm cơm ăn ké bạn bè ở Đại học xá Minh Mạng, tôi cũng ngắm nhìn
những hàng cây cao vút cạnh ngôi nhà thờ màu đỏ như gợi nhớ một bức tranh nào
đó đầy màu sắc của hoạ sĩ Đinh Cường.
Có nhiều đêm, đi qua ngôi nhà lớn ở đầu đường Trương Minh Giảng tôi nghe tiếng
dế gáy ở bụi cỏ và hương ngọc lan thơm ngát từ ngững cây ngọc lan cổ thụ trong
sân toà nhà dưới ánh đèn đường mờ đục.
Tiếng dế và hương thơm ngọc lan vẫn năm trong ký ức của tôi đến tận bây giờ bởi
con đường đó gắn với tôi biết bao kỷ niệm không thể quên.
Kể
nhiều vòm cây khóm lá để thấy ấn tượng đầu tiên của một chàng học trò tỉnh lẻ đến
Sài Gòn chính là những con đường với những hàng cây rợp bóng.
Đến
bây giờ, tôi đã ở Sài Gòn được gần nửa thế kỷ. Chưa bao giờ có ai hỏi tôi là
người gốc Sài Gòn hay là dân Sài Gòn xịn, dù đã ở lâu xứ này, tôi vẫn nói giọng
Quảng dù đã nhẹ hơn người chánh gồc Quảng. Ở đất này, ai đã đến và sinh sống ở
đây đều là người Sài Gòn. Sài Gòn có nhiều người Bắc di cư năm 1954. Sài Gòn
cũng có nhiều người miền Trung từ Quảng Nam, Ngãi, Quy nhơn, Bình Định. Sài Gòn
còn có rất nhiều người miền Tây lên, từ miền Đông Nam bộ đến. Nhưng dù họ đến từ
đâu, họ ở đây đã là dân Sài Gòn, chẳng có ai phân biệt, chẳng có ai thắc mắc.
Và đó cũng là đặc điểm đặc biệt của người Sài Gòn khác với Hà Nội.
Đêm
đầu tiên khi đặt chân đến Sài Gòn, tôi ngủ trên ghế đá chỗ vườn hoa Tao Đàn. Nửa
đêm tôi bị đánh thức bởi hai người cảnh sát. Bởi thời đó thiết quân luật từ nửa
đêm, không ai được ra đường. Sau khi đưa giấy tờ và kể lể hoàn cảnh vừa mới từ
miền Trung vào đi học, chưa kiếm được người quen. Một anh cảnh sát bảo: Miền
Trung à? Ái chà chà, mấy ông sinh viên quê ngoài ấy khoái theo Việt cộng lắm.
Tui chẳng biết nói sao đành chịu bị giải về cái bót cảnh sát ở ngay góc chợ Bến
Thành. Tui nằm ở đó một đêm, sáng ra có một ông sĩ quan cảnh sát đến, bảo tôi
đi học thì gắng mà học hành, đừng nghe lới mấy tay Việt Cộng mà tiêu đời. Ông
ta móc bóp, cho tôi tiền ăn sáng và uống cà phê. Đó là cái tình của người Sài
Gòn đầu tiên trong đời tôi và gây cho tôi ấn tượng về con người ở xứ này.
Trong
những ngày đói rách, khó khăn của cuộc đời, những người Sài Gòn, những người
nghèo Sài Gòn đã bảo bọc, giúp đỡ tôi qua cơn khốn khó. Tôi không quên được cô
gái bán cơm ở chợ Trương Minh Giảng. Thuở đó, tôi thất nghiệp, chẳng kiếm ra tiền,
chắt bóp, vơ vét túi chỉ đủ gọi dĩa cơm trắng rồi xin miếng xì dầu ăn qua bữa.
Ăn được ba hôm như thế thì cô bán cơm hỏi sao không thấy anh ăn thức ăn, đành
nói dối tôi ăn chay. Cô ấy chỉ cười, không nói. Nhưng mấy hôm sau, dĩa cơm xì
đâu của tôi luôn có dưới lớp cơm trắng khi thì miếng đậu hủ, lúc thì miếng thịt
hoặc cái hột vịt kho. Được mấy hôm, tôi mắc cỡ, không dám ra ăn nữa. Sau đó lại
kiếm được việc bán báo ở tận đường Phạm Ngũ Lão, tôi không ăn cơm ở đó. Thời
gian sau tìm lại thì quán đã đổi chủ rồi, tôi chẳng tìm được lại cô gái bán cơm
có nụ cười rất tươi và tấm lòng nhân hậu.
Ăn
uống thiếu thốn lại tạng người không khoẻ, tôi hay bệnh vặt. Chính những người
hàng xóm rất nghèo của tôi đã giúp tôi qua được những cơn bệnh, giúp tôi có
chén cháo, viên thuốc. Cái tình đó tôi làm sao quên. Sau này ở lâu, tôi mới hiểu
ra đó là bản chất của người Sài Gòn. Là cái tính ưa giúp người hoạn nạn, giúp kẻ
sa cơ, tính ưa làm việc thiện của người Sài Gòn.
Mỗi
lần đi xa rời Sài Gòn lâu, nhớ về Sài Gòn tôi chỉ nhớ những hàng cây và những
người Sài Gòn tôi đã gặp, đã sống chung với họ một quãng đời. Người ta hay khen
Sài Gòn với những cao ốc, những dinh thự, những khu ăn chơi bốc trời, những
hàng quán xa hoa, những chiếc xe đắt tiền, những thú vui hoan lạc. Riêng tôi,
trong tôi, Sài Gòn là vòm cây xanh lá, là những ngôi nhà bên dòng nước đen và ở
đó tôi tìm thấy tình người.
Bây
giờ, Sài Gòn đã đổi tên. Thế nhưng tôi vẫn gọi là Sài Gòn như một thói quen,
cái tên của ký ức không thể nhạt phai. Người ta đang tìm đủ cách để thành phố
này không còn ký ức của Sài Gòn. Nhưng với người Sài Gòn, Sài Gòn mãi mãi là
Sài Gòn mà không có một cái tên nào khác có thể thay thế được.
15.4.2018
Đỗ Duy Ngọc
No comments:
Post a Comment