Dạo sau này, anh không thường gọi tôi để hàn huyên như những năm
trước. Ở cái tuổi trên 80, chồng chất bao nỗi đau buồn từ sau ngày gãy súng,
tan hàng, tù tội, ly hương, rồi trải qua bao nhân tình thế thái, mới đây lại
phải chứng kiến cảnh chiến hữu, huynh đệ đồng môn, chỉ vì có chút bất đồng mà
nặng lời nhau, rồi quay lưng, chia ba xẻ bảy, nỗi chán chường càng đè nặng
trong lòng, cộng thêm một vài chứng bệnh tuổi già, làm cho anh không còn thiết
tha một điều gì nữa. Nói chuyện với anh, tôi cũng trở nên dè dặt, chỉ nghe
giọng nói để đoán anh đang vui hay buồn và không dám nhắc lại những biến cố nào
có thể làm vết thương trong lòng anh nhói đau trở lại, dù biết anh vẫn luôn quí
mến tôi như ngày xưa, cả một thời cùng vui buồn, sống chết bên nhau. Đặc biệt,
chúng tôi ở cạnh nhau trong khu cư xá của đơn vị, nên hai gia đình lại càng
thân tình, gắn bó. Sau này trở thành cấp chỉ huy trực tiếp của tôi, nhưng lúc
nào anh cũng xem tôi như em hay một người bạn nhỏ. Anh lớn hơn tôi đúng ba
tuổi. Lúc ấy chúng tôi đều còn khá trẻ, cả hai vừa mới có hai đứa con đầu. Vợ
anh là người đàn bà trẻ xuân sắc, hiền thục, đảm đang, hết mực lo lắng, chăm
sóc chồng con, và cũng như những người vợ lính khác, luôn âm thầm cầu nguyện và
hồi hộp trông chờ chồng bình an trở về sau các cuộc hành quân.
Buổi sáng ngày 6 tháng 12 năm 2023, đang giữa
mùa đông Cali, ngoài trời mưa lạnh, tôi thức dậy sớm nhưng vẫn còn trùm chăn
nằm nán trên giường. Nghe tiếng điện thoại reo, nhìn trên mặt điện thoại, đồng
hồ chỉ 6 giờ kém 15 phút và tên anh hiện ra, tôi nghĩ chắc phải có điều gì đặc
biệt lắm anh mới gọi vào giờ này. Tôi ngần ngừ với một chút lo âu và nghe giọng
nói đầy cảm xúc:
–
Bà xã anh vừa mới mất. Anh báo tin em biết.
Dù đã đoán trước có điều không lành, nhưng tôi
vẫn mất chút bình tĩnh, khựng lại giây lát rồi buột miệng:
–
Chị mất lúc nào, anh?
–
Mới sáng sớm hôm nay, khoảng gần 2 giờ trước.
Hình dung đến hình ảnh của anh chị trong lần vợ
chồng tôi mới đến thăm cách đây hơn một tháng, muốn hỏi đôi điều về sự ra đi
của chị, nhưng tôi nghẹn ngào nên chỉ nói thêm được một câu:
-Vợ chồng em xin chia buồn với anh và
các cháu. Anh cố gắng giữ gìn sức khỏe để lo cho chị!
Hai hôm sau tôi gọi lại để được nghe anh nói về
nguyên nhân sự ra đi của chị và chương trình dự trù cho ngày tang lễ,
Sáng ngày 26.12.2023, cùng vài người bạn đơn vị
xưa, từ nhiều nơi, chúng tôi có mặt tại Oak Hill Memorial Park ở thành phố San
Jose để tiễn đưa chị về cõi vô cùng và trực tiếp nói lời phân ưu đến anh cùng
các cháu.
Đứng bên di ảnh của chị đặt phía trước quan tài,
đầu bịt khăn tang trắng, trông anh thật tiều tụy, làm chúng tôi đau xót, nghẹn
lời. Định tâm tình với anh nhiều điều nhưng rồi cũng chỉ thốt được đôi câu
trong nghẹn ngào, nước mắt. Anh đứng bất động, tôi có cảm giác như nhìn thấy
được bao đau đớn, xót xa đang tràn ngập trong lòng anh. Hướng về phía chúng
tôi, nhưng chắc trong sâu thẳm từ ký ức, anh đang hình dung đến chị, với cả một
đời hy sinh, thua thiệt, đặc biệt khi chồng mình bất ngờ trở thành người bại
trận, tù tội oan khiên, và chị cùng các con cũng trở thành nạn nhân trả thù hèn
hạ của đám người thắng trận.
Tháng 9 năm 1983, tôi ra tù trước anh. Trước khi
về quê ở miền Trung tôi ghé vội lại Sài gòn tìm thăm chị và các cháu. Sau nhiều
năm nên trí nhớ khá mơ hồ, nhưng rồi tôi cũng tìm đến đúng nhà của anh chị. Một
ngôi nhà nhỏ trong khu Khánh Hội, bên kia cầu Calmette, mà bà cụ, mẹ anh đã để
lại sau lúc qui tiên. Cửa đóng. Tôi gõ nhẹ, ngạc nhiên khi thấy một người đàn
bà lạ bước ra, nói giọng Bắc rất khó nghe. Tôi bảo đến tìm thăm bà chị, nhưng
không ngờ nhà đã đổi chủ. Người đàn bà lắc đầu, nhưng lại bảo mẹ con bà ấy vẫn
còn ở đây, và chỉ tôi xuống cái chái bếp phía sau nhà. Tôi ngỡ ngàng khi trông
thấy chị và bốn đứa con nhỏ sống chật chội trong căn bếp, chỉ đủ kê một cái
giường nhỏ. Chị bảo căn nhà trên đã bị tịch thu và mẹ con chị bị đuổi xuống xó
bếp này. Chị nở một nụ cười chua chát: “cũng còn may là không phải đi vùng kinh
tế mới, nhờ mấy đứa con còn quá nhỏ!”
Mồ côi cha khá sớm. Năm 1954, gia đình anh kẹt
lại miền Bắc. Mãi đến năm 1957, anh cùng mẹ và cậu em trai mới rời quê Hải
Phòng, theo một vài người bà con, vượt biển vào Nam bằng chiêc thuyền buồm. Khi
đến Quảng Bình, tưởng đã qua khỏi sông Bến Hải, cặp vào bờ thì bị bắt. Nhờ sự
khôn khéo của mẹ, cả ba mẹ con được thả sớm. Năm sau mẹ lại quyết tâm đưa các
con ra đi lần nữa, và lần này may mắn đã đến Cửa Việt. Ba mẹ con được sắp xếp
tạm cư ở thành phố Huế. Anh tiếp tục đến trường. Cậu học trò vừa tròn 18 gặp cô
học trò hàng xóm, nhỏ hơn mình một tuổi, từ xứ Quảng ra Huế trọ học ở nhà bà
chị có chồng làm công chức. Thấy cô bé xinh xắn dễ thương nên chàng trai Hải
Phòng đem lòng cảm mến, chứ khi ấy cả hai đang còn đi học nên đâu dám tính
chuyện yêu đương, Nhưng chỉ hơn một năm sau, vì không thuận tiện cho việc sinh
nhai, bà mẹ lại dẫn hai con vào Sài gòn tái nghiệp. Thời ấy phượng tiện liên
lạc khó khăn nên hai người mất tin nhau. Sau khi đậu tú tài, anh tình nguyện
vào Khóa 17 Trường Võ Bị Đà Lạt. Ngày nhập học, anh bất ngờ gặp lại một người
bạn học cùng xóm cũ lúc còn ở Huế, và bất ngờ hơn khi nghe anh bạn cùng khóa
này nhắc tới cô bé học trò xứ Quảng ngày xưa, bảo “con bé bây giờ xinh lắm” rồi
cho địa chỉ khuyên anh nên viết thư thăm “mi cố giữ đừng để mất con bé này, uổng lắm!” Người
bạn đồng môn ấy sau này là Đại Tá Võ Toàn, đã ra đi trong những giờ phút cuối
cùng theo vận nước.
Nhờ người bạn này mà anh gặp lại người xưa. Rồi
theo tiếng gọi của con tim, chị rời miền Trung vào Sài gòn trọ học ở nhà một bà
chị khác có chồng đang là Trưởng ty Cảnh Sát Gia Định. Anh ghé thăm vội vã
trong bộ quân phục SVSQ khi về thủ đô tham dự cuộc diễn hành nhân ngày Quốc
Khánh 26.10 năm ấy.
Cuối tháng 3-1963 ra trường, anh về trình diện
Sư Đoàn 7.BB để chính thức bắt đầu
cuộc đời lính chiến. Anh làm đám cưới khi đang là đại đội trưởng trinh sát, và
chị bắt đầu cuộc đời làm người vợ lính. Đơn vị anh hoạt động quanh vùng Mỹ Tho,
Kiến Phong, Hậu Nghĩa, Bình Dương…Thời gian hạnh phúc ngắn ngủi là những lần
anh trở về vội vã sau các cuộc hành quân, để sau đó là những ngày đêm triền
miên nhớ nhung, âu lo, cầu nguyện. Sau khi sanh đứa con đầu lòng, theo lời
khuyên của mẹ chồng, chị bồng con theo anh từ đó. Hết miền Tây sông nước, đến
miền Trung nắng gió, rồi cuối cùng là Cao Nguyên bụi đỏ, mưa mùa. Sống trong
các trại gia binh, chia sớt khổ nhọc lo âu với vợ con đồng đội đang cùng chiến
đấu với chồng mình. Cũng lại xa vắng, đợi chờ và cầu nguyện theo bước chân
chồng trong các cuộc hành quân, và đau đớn mỗi lần trong trại gia binh có thêm
những vành tang trắng.
Anh làm đại đội trưởng, tiểu đoàn truởng rồi
trung đoàn phó cho một đơn vị tác chiến lưu động, đêm ngày sống chết cùng đồng
đội anh em. Lần điều động đơn vị tạo được nhiều chiến công hiển hách trong trận
chiến Mùa Hè 1972 tại chiến trường ngập đầy khói lửa Kontum, anh được thăng cấp
đặc cách và lên nắm trung đoàn.
Trước kia, khi cuộc chiến chưa khốc liệt thì đơn vị có khá nhiều
thời gian sinh hoạt tại bản doanh, các vị trung đoàn trưởng có nhiều thời gian
hơn để sống yên ả bên gia đình, nhưng giờ thì cả trung đoàn miệt mài nơi trận
tuyến Kontum, Pleiku, trong khi hậu cứ cùng trại gia binh lại ở tận Ban Mê
Thuột, xa tít mịt mùng. Nếu thi thoảng có dịp ghé thăm vợ con, cũng chỉ trong
chốc lát. Cuộc chiến ngày một khốc liệt, đặc biệt sau ngày Hoa Kỳ đơn phương
cùng CSBV ký Hiệp Định Paris quái đản vào cuối tháng 1/1973, cắt giảm gần hết
viện trợ quân sự cho đồng minh VNCH, người chỉ huy như bị trói cả hai tay, đau
đớn nhìn đồng đội phải chiến đấu trong cam go thiếu thốn. Đạn dược, phương
tiện, Không yểm bị hạn chế tối đa, cấp chỉ huy lại càng đau đớn hơn khi em út
phải hy sinh ngày một nhiều hơn trong ngậm ngùi, tức tưởi.
Trong mấy năm đi tìm chiến thắng tại các chiến
trường khốc liệt Tây Nguyên này, anh đã mất khá nhiều những đàn em, những sĩ
quan niên đệ và cả những người lính trung thành, từng bao năm cùng bên nhau
sống chết mà anh hết lòng yêu thương, tin cậy, xem như anh em trong một đại gia
đình. Giờ mỗi lúc nhìn lại đơn vị với nhiều khuôn mặt mới, anh cảm thấy buồn,
xót xa vô hạn. Ngay từ thời điểm ấy, mỗi khi hai anh em có dịp ngồi tâm tình,
anh đã buồn bã nhìn ra viễn cảnh bất hạnh, đau buồn về số phận những người lính
chúng tôi cùng với cả quê hương đất nước. Dù vậy, anh vẫn âm thầm, kiên định
một lòng chiến đấu bên cạnh đồng đội cho đến giờ phút cuối cùng. Trong giờ khắc
tuyệt vọng nhất, đôi lần anh thoáng nghĩ đến cái chết, nhưng lại không đành
lòng khi nhớ tới vợ con.
Ngày 11.3.1975 Ban Mê Thuột mất vào tay giặc.
Trại gia binh trở nên bất an. Những người vợ lính vừa lo lắng cho sự an nguy
của con cái vừa lo lắng cho chồng, không biết thân phận mình rồi sẽ ra sao.
Được tin cả trung đoàn sẽ trở về tái chiếm Ban Mê Thuột, những người vợ lính
lại thấp thỏm lo âu. Họ cũng có ít nhiều hiểu biết về kẻ thù và tìm cách đối
phó. Họ nghĩ, sau khi chiếm được Ban Mê Thuột, chắc chắn Cộng quân sẽ cô lập và
cho người trà trộn vào trại gia binh để theo dõi tin tức, tình hình, và biết đâu
có cả nội tuyến. Có thể bọn họ biết anh đang chỉ huy đại đơn vị trở về tái
chiếm, nên tìm bắt vợ con anh để làm con tin hầu gây áp lực, một số các chị đã
âm thầm đưa chị và các cháu đi ẩn trốn, rồi sau đó tìm cách ra khỏi vùng Cộng
quân tạm chiếm.
Sau một thời gian vất vả đói khát, chị và các
cháu về đến nhà sau khi Sài gòn đã nằm trong tay giặc. Sau này, có dịp gặp lại
các chị vợ của một số hạ sĩ quan và binh sĩ, tôi rất cảm kích khi nghe họ kể về
lòng kính quí mà họ đã dành cho chị, vì chị sống rất bình dị, thân thiện và
luôn giúp đỡ mọi người, cho dù chồng chị đang là cấp chỉ huy của trên dưới ba
ngàn quân sĩ dưới quyền. Họ còn biết anh là một cấp chỉ huy trẻ tuổi, thao
lược, liêm khiết, và cuộc sống của mẹ con chị cũng rất bình dân, đạm bạc.
Rồi hơn 13 năm anh bị tù đày, chị phải bươn chải
từng ngày nuôi đàn con nhỏ giữa vòng vây thù hận chất chồng. Trong hoàn cảnh
này, người vợ lính còn khốn cùng khổ nhục hơn so với chồng mình đang phải sống
trong tù ngục. Ngày xưa, chắc người phụ nữ Việt nam chưa có thời nào phải khốn
khổ bằng lúc này, vậy mà nhà thơ Hồ Dzếnh đã vinh danh bằng mấy câu thơ để đời:
Nếu
chữ hy sinh có ở đời
Tôi muốn nạm vàng muôn khổ cực
Cho lòng cô gái Việt nam tươi
Nếu còn sống đến bây giờ, không biết ông nhà thơ
sẽ nạm những gì cho xứng đáng với tấm lòng của những người vợ lính miền Nam
trung hậu thủy chung?
Rồi anh cũng được trở về với tấm thân tiều tụy
và một tương lai mờ mịt. May mắn nhờ có chương trình HO, anh đưa chị cùng các
cháu, đành lòng rời bỏ quê hương cùng mồ mả mẹ cha để sang vùng đất hứa. Mang
theo bao thương tích đang còn trên thân xác lẫn trong tâm hồn, với cái tuổi đã
hơn nửa đời, người ta sẽ chẳng dễ dàng gì để làm lại cuộc đời trên vùng đất lạ
– lạ từ con người, ngôn ngữ, đến khí hậu lẫn tập quán. Khi cố gắng hội nhập và
lo cho các con tạm ổn định đời sống, học hành, thì tuổi già cũng vừa ập đến.
Niềm vui vừa mới lóe lên thì nỗi buồn vì bệnh hoạn và những ký ức từ quá khứ
trỗi dậy, đau nhói trong lòng.
Anh giải sầu bằng cách đọc sách, viết lách và
nghiên cứu về thiền học. Niềm an ủi duy nhất là sự thành đạt của các cháu nội
ngoại cùng tình huynh đệ đồng môn, chiến hữu. Anh thường bảo với tôi là, bọn
mình đã mất hết giờ chỉ còn lại cái tình này. Nhưng rồi cách nay mấy năm, bất
ngờ xảy ra chuyện bất hòa giữa những đồng môn mà anh từng xem trọng như huynh
đệ một nhà, giờ quay lưng, chia ba xẻ bảy.
Sự kiện đau buồn này như một nhát dao cuối cùng
chém vào tim óc vốn đã đớn đau già cỗi, làm anh muốn quỵ ngã. Có lần anh bảo
nhỏ tôi: đừng nhắc lại chuyện đau lòng này nữa. Anh không chịu được!
Hôm nay, nhìn anh đứng thẫn thờ trước linh cữu
của chị, chúng tôi biết anh buồn và đau xót lắm, bởi từ ngày đón cô con gái
xinh đẹp xứ Quảng về làm vợ, anh đã trót nặng với lời thề quyết “không
mưu cầu an lạc dễ dàng mà chỉ khát khao gió mưa cùng nguy hiểm”, để
rồi khi “chí
vẫn còn mong tiến bước mà sức thì không kham nổi đoạn đường”, nên
cả cuộc đời chị cũng phải vì anh, khổ lụy.
Bây giờ chị đã ra đi, bỏ anh ở lại với sự cô
đơn, cùng bao tiếc thương, trăn trở. Vết thương cũ trong lòng vẫn chưa lành,
giờ đớn đau trở lại.
Vốn là một Phật tử thuần thành, chắc chắn anh đã
ngộ được cái nghĩa “sắc không” của lẽ vô thường, nhưng tôi biết là anh vẫn đang
xót xa đau đớn lắm, bởi từ lý thuyết, giáo lý, tới cảm xúc thực tế luôn là một
khoảng cách khá xa. Thương và nhớ anh, nhưng tôi không dám gọi, ngại phải khuấy
động thêm những con sóng ngầm còn lại đâu đó trong lòng anh. Cần có một thời
gian nhất định nào đó để anh có thể bình ổn được tâm hồn.
Hình dung mai này, đặc biệt về đời sống
tinh thần của anh sau ngày chị ra đi, lòng tôi bỗng lặng xuống khi nhớ tới một
đoạn anh viết ở đâu đó trong “Sau Cơn Binh Lửa”, tác phẩm đầu
tay của anh, xuất bản trước đây đúng mười năm:
“Tuổi đời chồng chất, sức khỏe và những hăng
say của tuổi thanh xuân ngày tháng nguội dần. Tôi thấy cuộc sống mình hụt hẫng
hoang mang. Mỗi năm lại vắng thêm đồng đội và rồi một ngày nào đó, cũng sẽ tới
lượt mình. Điều tự nhiên này, thực chất chẳng phải là nỗi ưu tư bởi vì đó là
quy luật. Nhưng điều làm tôi suy ngẫm là ý nghĩa về cuộc đời của chính mình,
thế hệ chúng tôi, qua những việc đã làm, những đau thương đã trải…thực sự là
gì? Hoặc chẳng là gì hết?”
Cầu xin ông Trời ban cho anh, và cho cả những
người lính già lưu lạc chúng tôi, thêm nhiều nghị lực, để tiếp tục sống nốt
những tháng ngày còn lại, dù chỉ trong vô vị khi bất lực nhìn quê hương, dân
tộc mình tiếp tục điêu linh
Đầu
năm 2024
Phạm
Tín An Ninh
Posted by: lpk 116
No comments:
Post a Comment