Con người có sống tất
phải có chết. Thường tình thì chết vì già yếu, nhưng rất nhiều khi
chết vì bịnh tật, không bắt buộc phẳi mắc dịch mới chết – tuy rằng
ai cũng mong “cái đồ mắc dịch” chết bớt đi cho đở phiền hà. Ngày nay
con người sống dai (kể cả đồ mắc dịch) là nhờ những khám phá của y
học kèm theo sự sáng chế ra nhiều vị thuốc giúp con người thoát
khỏi bịnh tật, và cũng ít “mắc dịch” hơn. Chuyện kể sau đây dành cho
những người ngoại đạo, không qui y...giới. Những người trong y giới
thì đã rành cả rồi.
Ai ai cũng biết những thức ăn trước khi được nhập khẩu đều thơm phức
chỉ muốn dí mũi vào ngửi và tranh nhau đớp. Khi ra cửa hậu tưởng
rằng chẳng ai có can đảm làm điều nầy, bởi vì đã hết thơm mà lại
thối không chịu được; thế nhưng vẫn có lắm kẻ chen nhau ngửỉ và khen
thơm, há to mồm tranh nhau đớp còn liếm mép khen ngon ! Họ không
phải là những kẻ vô danh tiểu tốt, mà là dòng dõi danh gia vọng tộc
nhà họ TUẤT.
Họ cũng có bằng cấp đại học như ai, cũng có danh, có
tiếng, có địa vị, có chức thơm phức trong xã hội, gần xa đều ngữi
thấy, biết đến. Cái khổ là họ có tiếng mà không có miếng; muốn có
miếng..ăn, họ buộc phải làm liều bất chấp nhân nghĩa lễ trí... Bần
cùn sanh đạo tặc là vậy. Họ khác người ở chổ họ “xực” đủ cách đủ
kiểu. Vì đã mất đi ít nhiều cái tính người, họ nói năng nhảm nhí,
chỉ là một tắm bia nhưng cứ oang oang là tượng đài ; họ chưa quên
tiếng Việt, chỉ quen dối trá nên họ không chút ngượng miệng; chỉ cần
nghe cho oai hầu chiêu dụ lũ đầu tôm ngu si dốt nát không đủ trí khôn để suy cùng nghĩ tận, hùa nhau ủng hộ, đống góp
tí tiền, ăn mặc đồng phục quân nhân, dân sự xem cho vui mắt, nghĩ rằng
đây là việc làm đúng đắn, nên sẵn sàng yểm trợ.
Hành động nầy làm
tôi nhớ tới những người trong Nam đã ủng hộ Mặt trận giải phóng
thuở nào vì nghĩ rằng “đánh Mỹ cứu nước” là việc phải làm. Hậu
quả của sự suy nghĩ hời hợt, ngây thơ nầy ngày nay ai cũng trả giá
quá đắt. Nhưng rồi ngây thơ vẫn cứ tiếp tục ngây thơ : ra hải ngoại
lại tiếp tục bị một Mặt Trận thứ hai lừa. Thiệt là hết nước
nói ! Đúng là gái tơ thơ ngây dễ bị dụ. Được may mắn sống trên
một đất nước văn minh sao họ không học được cái hay, mà chỉ học cái
cung cách hạ tiện, gian manh?.. Họ lộng ngôn có lẽ vì họ đã thấm
nhuần tinh thần dối trá lừa đảo của người làm chính trị chuyên
nghiệp, đặc biệt là những người thiên tả; họ thuộc lòng bài bản
của đảng con Lừa dạy rằng không được gọi thân mẫu là mẹ, phải gọi
là người đẻ tôi ra. Trời đất quỉ thần ơi, vậy thì ông già tía của
tôi, tôi phải gọi là gì? Là người đã “địt mẹ” tôi à?
Họ mạo danh chiến thắng Quảng Trị của dân Nam, lập một tấm “mộ bia”
rẻ tiền gọi là để vinh danh chiến sĩ VNCH, nhưng hậu ý nhầm gây chia
rẻ, hạ nhục phe ta : “đại thắng” đó của các anh chỉ đáng giá một
tấm bia 5 xu ! Bình thường phải ngước mặt lên nhìn tượng đài để
chiêm ngưởng một kỳ công, một chiến tích... Đàng nầy thiên hạ phải
cuối mặt xuống để “chiêm ngưởng tượng đài” trong tư thế ăn năn
xấu hổ của kẻ thua cuộc... Hạng lưu manh tầm thường chỉ mượn đầu heo
nấu cháo; hạng nầy siêu hơn, họ gôm đống xương tàn của các chiến sĩ
vị quốc vong thân để nấu nước lèo phở lợi hơn nhiều.
Cảnh tượng bọn
họ quây quần quanh thùng “phở Chiến sĩ” ăn uống hả hê, nhảy “sol tố
mì”, gợi nhớ hình ảnh của mọi ăn thịt người ở Phi châu thời trung
cổ...Ghê tởm thật. Họ cố gắng bươi trong đống gạch đổ nát của cổ
thành mong tìm được vài cục vàng... khè chia nhau ngậm cho đở ghiền,
ăn cho đở đói, thơm thúi họ đâu màng... Họ đâu còn trí khôn để phân
biệt trắng đen; họ không cònbiết nhục, cũng tựa như một ông tông tông khi lên phi cơ riêng bằng cửa
trước oai phong ngon lành, nhưng đến xứ Chệt cộng lại phải chui ra cửa
hậu trông thật thối oăng, chẳng giống ai. Chuyện khó tin nhưng có thật
nầy chắc khó lòng tái diễn trong lịch sử xứ cờ hoa vì không dễ gì
tìm được một người tông tông hèn hơn thế...Tóm lại, họ chỉ là một
bọn ngu si, phản phúc theo kiểu những “Rino” trong chính trường Mỹ
hiện nay, chỉ còn biết có danh lợi; hai tiếng danh dự họ quẳng vào
xọt rác . Ôm lấy danh lợi thì được cơm no áo ấm; giữ lấy danh dự
chỉ có đói rách. Tôi lại nhớ nhận xét của văn hào Chateaubriand, rất
đúng cho mọi thời đại, mọi dân tộc. Những lúc đó chính là ngày hôm
nay, dịp nầy...đầy dẫy quanh chúng ta:
Il y a des temps où l’on ne doit dépenser le mépris qu’avec économie, à
cause
du grand nombre de nécessiteux. (Có những lúc phải tiện tặng sự
khinh bỉ vì có quá nhiều người cần).
Suốt đoạn đường từ cửa
trước đến cửa sau của các thức ăn, các thầy lang thấy rõ là sau khi
vào đến bao tử thức ăn chỉ có một đường đọc nhứt dẫn đến cửa hậu.
Nếu mọi việc tiến hành suông sẻ bình thường, con người sẽ mạnh khỏe
như voi. Thế nhưng “đời không như là mơ”...
Từ thuở tạo thiên lập địa, con người không ngớt đối phó với bịnh
tật, chết chóc. Nhân loại luôn có những đầu óc tọc mạch, tò mò tìm
hiểu, nhờ vậy mới có những phát minh ngày càng hữu ích cho đời
sống. Chính nhờ những con người không bao giờ chịu thua nghịch cảnh,
bịnh tật nên đời sống hôm nay mới được tiện nghi, bớt đi khồ đau vì
bịnh tật...Tuy có một điều thật đáng tiếc là con người không ngớt
tàn sát lẫn nhau chỉ vì quyền với lợi...
Trong những cuộc tàn sát thời cổ đại, thuở xa xưa lại may mắn có
người có đầu óc quan sát các vết thương của đối thủ để thỏa lòng
thù hận, và của phe ta để tìm cách chửa trị. Nhưng quan sát để quan
sát chớ có phương tiện đâu mà khâu vá các vết thương do gươm đao. Phải
chờ đến thế kỷ thứ 5 trước tây lịch, ông Hippocrate ra đời mới xếp
loại các vết thương theo một hệ thống có đôi chút tính khoa học.
Thời đó con người rất là thiêng liêng, không ai có thể tùy tiện mỗ
xẻ để xem xét lục phủ ngủ tạng ra sao dù trên một thây ma. Mải đến
200 năm sau mới được phép mỗ các xác chết để nghiên cứu, học hỏi.
Khi được phép mỗ xác, thành phố Alexandrie xứ Hy Lạp liền tới luôn :
cho phép mỗ người sống !
Từ ngày đó và trong suốt 50 năm liền,
các tù nhân được làm vật tế thần cho các “lương y như đồ tể ” để họ
mỗ xẻ quan sát...mà không có gây mê ! Thời đó làm gì biết gây
mê. Nhắm mắt nghĩ đến cảnh mỗ người còn tỉnh táo mà dựng tóc gáy.
Trong tù cải tạo khi phải nhổ răng cho bạn mà không có thuốc tê đã thấy... ê càng, nói chi đển mỗ xẻ. Những người tù
nạn nhân của việc học hỏi thời đó được cột chặc trên bàn, không thể
vùng vẫy, chỉ có quyền la hét khi được người mỗ bụng, kẻ cưa chân,
người cưa tay... cho đến khi tắt thở là hết la. Đơn giản vậy
thôi ! Lần hồi rồi dân chúng phản đối quá nên việc mỗ sống của các ông lương y như
đồ tể phải được đình chỉ. Suốt 50 năm trời biết bao nhiêu tù nhân đã
chịu cực hình của địa ngục trần gian ? Nhưng cũng nhờ vào những “hy
sinh” đó mà các thầy thuốc biết rõ ràng hơn về cơ thể con người.
Nhắc chuyện xưa lại nhớ chuyện nay, không rõ thực hư, nhưng nghe cũng
rùng rợn không kém : bọn đồ tể Tàu phù cũng mỗ sống nạn nhân không
để học hành gì cả, mà để lấy lục phủ ngủ tạng đem bán, chẳng
khác gì họ bán thịt heo ngoài chợ !
Không được mỗ tù nhân nữa, các “ông thầy” bèn xoay qua mỗ thây ma,
nhưng phải lén lút vì cũng bị cấm. Cuối cùng họ đành mỗ mấy con thú,
đặc biệt là heo : bộ đồ lòng của “lão Trư” rất giống của Thầy
Đường Tăng. Giống bộ đồ lòng mà cũng rất giống bộ đồ giửa: cũng
hai trứng tòn ten giữa hai đùi sau, duy có cái của quí là không giống
ai; cái của Lão Trư dài gần 60cm, phần đầu lại không trơn tru hồng
hào bóng lán, mà xoán óc như sợi tóc của Xã Xệ ! Mỗi
phát Lão Trư có khả năng phung ra nửa lít nhớt ! Đường Tăng thua
xa. Heo không chỉ giống người từ trong ruột, mà còn giống cả ngoài da
: cũng có loại da trắng, da hồng, da xám đến da đen. Hồi xửa hồi xưa
bên Tàu, có căn nhà lá của một nông dân bị hỏa hoạn thiêu rụi, thiêu
luôn con heo con bị cột dưới gầm giường. Cả nhà thương tiếc con
heo chết cháy chín vàng thơm phức, đến chảy nước miếng. Khi rờ vào
heo, tay dính mỡ. Liếm tay thấy ngon, bóc miếng da bỏ vào mồm sao mà
nó giòn rụm, khoái khẩu chi lạ. Và từ đó có món heo quay. Lần lần
con người mới thấy rằng trong con heo cái gì cũng ngon, chỉ trừ cái
răng cái tóc là mậu hẩu! Và cũng chỉ trừ có người hồi giáo,
họ chê heo là vật tội lỗi, dơ bẩn; họ bị cấm ăn thịt heo dù thấy
heo quay, xá xíu thèm rỏ dảy. Từ đó cuộc tàn sát giống heo ngày
càng tăng, ăn đứt những cuộc tàn sát trong chính sách cải cách ruộng
đất của CS, bởi vì CS giết người có thì có lúc, còn heo thì triền miên bị xơi tái; ngày ngày
xá xíu, heo quay, phá lấu, kho tàu...làm sao Lão Trư chịu đời cho
thấu. Và cũng từ đó Lão Trư rất có giá : nhà nhà nuôi heo như bỏ
quỷ tiết kiệm. Heo được ưu ái đúc tượng làm phương tiện để “bỏ ống”
thay vì bỏ ngân hàng. Dân làng quê tôi, đặc biệt là mấy ông “sồn
sồn”, nghĩa là vào lứa năm mí, sáu mí, không bỏ ống vì đó là tiền
chết; mấy ổng chủ trương tiêu xài hợp lý hơn :
“ Tiền đâu bỏ ống nuôi heo, mình nuôi em vợ mình hèo mình chơi” .
Chẳng biết hèo của mấy ổng có giống của Lão Trư hay không, nhưng xem
chừng mấy ổng rất tự tin. Thế nhưng heo cũng có cách “ăn miếng trả
miếng”, hại ta thì ta hại lại, và cũng hại với số lượng đáng kể
mỗi lần xuyên qua các dịch “cúm heo”. Thật sự thì từ thời cổ đại,
“bịnh cúm” nó đeo con người như sam vậy. Người đầu tiên đã mô tả khá
chính xác về một căn bịnh rất giống bịnh cúm chính là ông
Hippocrate. Thời đó người Hy Lạp gọi là dịch (tiếng Pháp là
épidémie) vì tràn lan ra khắp nơi gây một số lớn tử vong. Trong từ
épidémie có tiếng Hy Lạp épi có nghĩa là trên, và tiếng demos có
nghĩa là quần chúng. Cúm có khá nhiều loại, không riêng gì cúm heo,
cúm gà...ngày nay ta đang có cúm…Chệt. Nhưng cúm nổi tiếng nhứt là
cúm Tây Ban Nha hồi đệ nhứt thế chiến. Cúm năm đó – mùa xuân 1918 -
không xuất phát từ quốc gia nầy, nhưng vì xứ nầy đứng ngoài cuộc
chiến nên số tử vong do bịnh gây ra, dù không nhỏ nhưng được thông báo
chính xác, không che giấu như các quốc gia đang choảng nhau chí ché : họ sợ thêm số tử vong do chiến tranh vào với số do
bịnh cúm sẽ làm dân chúng mất tinh thần, xã hội thêm rối loạn. Thật
sự thì cúm Tây Ban Nha do quân đội Mỹ mang từ trại binh ở Kansas sang.
Trường hợp cúm đầu tiên được ghi nhận ở trại binh nầy vào đầu tháng
3 năm 1918. Do đó ngày nay Tàu cộng đã tỉnh bơ bảo rằng cúm năm nay
không do Chệt Vũ Hán mà do lính Mỹ gieo rắc. Kể ra thì đồng chí họ
Tập ăn nói cũng có sách mách có chứng đấy, nhưng là thứ chứng
...cà chớn ! Đã bảo rồi, người CS, XHCN, kẻ thiên tả...lúc nào
cũng dối trá, vòng vo; là loài rắn rết, họ chỉ biết quanh co, uốn
éo; nếu họ uốn éo như các vũ nữ flamenco, lambada...làm cho thiên hạ
lên gân, lên gà cũng còn có lý. Nhưng họ vặn mình lòn qua lộn lại
chỉ vì đi ngay thẳng không phải là ...đường lối của họ, cũng không
phù hợp với bản chất tiểu nhân của họ. Khi họ theo đường ngay nẻo
chính tức khắc họ không còn là người bên lề trái nữa. Cứ nhìn cái
đám Dân chủ bên Mỹ hôm nay đủ hiểu, nếu ai chưa hiểu chắc lphải gởi
trả về cho VC cải tạo thêm.
Dịch cúm Tây Ban Nha đợt đầu không gây chết chóc đáng kể ; nhưng vài
tháng sau kết quả của đợt hai thật là tàn khóc, khắp thế giới
người chết như rạ ! Đến gia đình nhà heo cũng không thoát khỏi.
Mãi cho đến năm 1933 người ta mới tìm ra được thủ phạm của dịch cúm
nầy : một con siêu vi trùng (virus) không thể nhìn thấy qua kính hiển
vi bình thường. Và người ta cũng biết rằng con siêu vi trùng nầy lây
lan từ người qua người; gia đình nhà heo cũng là những kẻ... chứa
chấp và phân phối virus rất đáng sợ nầy. Sau cùng các nhà nghiên cứu
cũng tìm ra được “tẩy” – génome - của con siêu vi trùng nầy vào năm
1999. Họ cũng nhận ra có 3 loại virus gây ra bịnh cúm : A, B và C.
Ngày nay mọi người đều biết rõ bộ mặt của con virus được trình
chiếu dài dài trên TV dưới hình dáng tròn tròn như một cục bò vò
viên với nhiều nấm nhỏ mọc lên tia tỉa bên cạnh những cây gai tựa như
những kim của thợ may cấm vào. Hình vẽ trên TV thiếu mấy cây kim nầy.
Nấm và gai đều là những antigènes,nấm là antigène neuraminidase tượng
trưng bằng chữ N; mấy cây kim là antigène hémagglutinine tượng trưng
bằng chữ H. Hai chữ nầy đặc tên, định loại cho các con virus trong các
dịch cúm khác nhau. Bên trong cục bò vò viên là vật liệu di truyền
của virus, gọi là ARN. Đại khái có 17 H và 11 N.
Dịch cúm Tây Ban Nha năm 1918 có biệt danh là virus A (H1N1). Con virus
nầy chỉ xơi tái có chừng 50 triệu người thôi ! Đến năm 1957, dịch
cúm á châu do virus A(H2N2) chỉ thủ tiêu có hơn 1 triệu người. Sang năm
1968, cúm Hồng Kông do virus A(H3N2) cũng không làm hại hơn 1 triệu bịnh
nhân.
Trên đây là một dấu ngoặc dành cho kẻ ngoại đạo y khoa hầu giúp họ
giải quyết thắc mắc rằng cái gì mà “anh Hai hát hay” lại giết đến
cả triệu người. Vậy thì liệu các anh tư, anh năm cũng hát hay thì bao
nhiêu mạng sẽ ngủm củ tỏi ?
Nghĩ kỷ thì e sẽ có nhiều, rất nhiều “tử sĩ” trong những vụ “mắc
dịch” trong tương lai không xa, nếu... Vâng phải có “nếu”, vì muốn
tránh tai họa khủng khiếp cho nhân loại thì phải lo diệt tận gốc
những cơn dịch trong tương lai có khi không xa mà rất gần. Cái gốc của
những cơn dịch không phải là những con siêu vi trùng H1N1, H2N3...mà
chính là con người, những kẻ tham lam, háo danh ham tiền, vô lương, vô
tâm, bất nhân, bất nghĩa...nhưng rất thông minh. Tất cả những tai họa
của nhân loại là ở đấy.
Science sans conscience n’est que ruine de l’âme.
Câu nói nầy đang được một
số người cố gắng thực hiện trong ý đồ “toàn cầu hóa” nhầm tóm
thu tất cả quyền lực vào tay họ, một thiểu số giàu có và thông minh
! Có một chỉ dấu nho nhỏ mà ai cũng có thể nhìn ra, trừ những cái
đầu tôm : họ cấm dùng thuốc trị sốt rét tuy có hiệu quả đối với
con Covid, để bán thuốc của phe nhóm của họ, giá mắc gấp mươi lần.
Mặt khác họ hùa nhau che giấu Covid cho đến khi dịch được lan truyền
khấp nơi giúp họ bán nhiều thuốc, và làm kiệt quệ nền kinh tế của
thiên hạ để họ dễ bề thao túng, thống trị... Chỉ ước mong sao cái
thiện sẽ thắng cái ác như lời thánh hiền nhắc nhở.
Đông Vân Nguyễn Văn
Dõng
Clermont Ferrand Một ngày Xuân.
No comments:
Post a Comment