Ga Phủ Lý chiều 28 tết, một đoàn người
ăn mặc lếch thếch, áo quần vá chằng vá đụp, tay xách túi nhỏ đựng lon, hủ nhựa
lỉnh ca lỉnh kỉnh từng cặp một, mang chung còng tay mỗi bên trái, phải. Bên kia
đường, dân chúng hiếu kỳ với dáng vẻ sợ sệt, đưa mắt nhìn tò mò về phía đám
đông hơn hai trăm người đang ngồi duổi chân trên vạt đất thấp dọc theo dốc đường
ray xe lửa. Mặt trời đỏ thẳm đang dần tắt sau dãy núi Ba Sao gồ ghề đen như mực.
Chúng tôi đang chờ tàu xuôi Nam.
Lúc xếp hàng chuẩn bị lên xe tải để ra
ga, một anh bạn chen tới gần nói nhỏ với tôi vì anh thuận tay tráí nên muốn được
còng tay phải với tôi. Ừ thì tôi thuận tay phải nên đồng ý ngay. Anh là sĩ quan
trẻ, cấp bậc Thiếu tá, nguyên Tiểu đoàn trưởng thuộc Sư đoàn 7 Bộ Binh. Tôi
quen anh hồi mới chuyển về trại Hà Nam Ninh được mấy tháng, trước khi xếp thành
tổ đội để chuẩn bị về Nam. Trước đây, các trại cải tạo thường được phân chia ra
làm hai loại dành riêng cho quân nhân và công chức ở những địa điểm khác nhau
trong miền Nam cũng như sau nầy ra miền Thượng du Bắc Việt. Mãi cho đến khi
Trung quốc tiến đánh các tỉnh sát biên giới phía Bắc, các trại cải tạo mới được
di dời về một số tỉnh miền Trung du mạn phía tây bắc Hà Nội và các thành phần cải
tạo được sát nhập lại với nhau không còn phân biệt dân hay quân nữa. Từ đó các
trại chiếm đa phần là quân nhân đủ mọi cấp bậc, trừ cấp Tướng và Đại tá được xếp
ở riêng còn tất cả cấp bậc còn lại đều được đưa vào các tổ đội lẫn lộn với
thành phần dân sự.
Suốt gần năm năm trời bị giam giữ, từ trại
cải tạo Long Thành, Đồng Nai cho đến khi ra tận ngoài Phú Sơn, Bắc Thái tôi
luôn được xếp vào tổ đội thuộc thành phần dân sự chế độ cũ. Nay sinh hoạt chung
với thành phần quân đội có rất nhiều điều khác biệt, vui vẻ và năng động hơn.
Tính gan dạ và mưu trí của họ đã giúp “mưu sinh thoát hiểm” cho rất nhiều người
đồng cảnh tù.
Trong suốt mấy ngày trên tàu tôi mới biết
thật gia cảnh hiện nay của anh, vợ gởi quà thăm nuôi được mấy lần khi còn ở trại
cải tạo Long Giao, rồi sau đó biệt tăm luôn cho đến khi ra miền Bắc, họa hoằng
lắm anh mới nhận được một ít quà do mẹ anh gởi ra theo những người quen đi thăm
nuôi chồng ở cùng trại. Nhà quê nghèo, còn nuôi thêm bốn đứa con nhỏ của anh
thì làm sao đủ sức mà đi thăm nuôi. Anh lặng lẽ cam chịu thân phận người “tù mồ
côi.” Dù khó khăn đến mấy cũng phải sống, anh rất giỏi cải thiện rau dại và thường
khi còn mò bắt được nhiều con “rạm” (cua nhỏ to bằng ngón chân cái), đồng thời
ngày nào anh cũng giấu được một ít củi khô, chẻ nhỏ quấn trong người, qua mặt
được cán bộ gát cổng để đem vào trại. Người có gạo, bột ngọt hay tôm khô, anh
có củi, rau, cua cá và công nấu nướng cùng nhau chia sẻ qua ngày.
Cho đến khi gia đình được phép thăm nuôi
sau năm năm trời chịu đựng với đói rét và bệnh tật, tình hình cải tạo mới bắt đầu
đỡ khổ. Nhờ thăm nuôi mà số người chết giảm dần. Dân chúng sinh sống quanh các
trại cải tạo bắt đầu cảm thông và hiểu biết nhiều hơn về thành phần tù nhân chế
độ cũ nên một số lén lút quan hệ với tù nhân để “mua bán đổi chác” đủ thứ,
thông thường là cung cấp thực phẩm, thuốc men để đổi lấy quần áo, đồ dùng, dĩ
nhiên là mấy tù nhân “đại lý” cũng phải biết điều với cán bộ. Về phần anh em tổ
đội trưởng, trừ một số bản tính ác tâm, không lương thiện, còn lại đa phần đều
ra sức giúp đỡ nhau để cùng sống sót mà chờ ngày về. Tôi còn nhớ hồi ở trại Mễ
(Nam Hà) có anh Nhà trưởng nguyên là Trung tá Công binh, sau khi kiểm tra nhân
số để nhập buồng giam, cán bộ ra lệnh nhắc nhở anh kiểm soát nội qui, giữ gìn
yên lặng, không được tụ tập ồn ào hay nấu nướng linh tinh. Anh gật đầu.
– Thưa vâng.
Khi cán bộ đóng cửa buồng giam và áng chừng
đã đi xa, anh quay ra đầu nhà, hướng về phía anh em.
– Tự do.
Thế là cả buồng mọi người cười che miệng,
lục đục lên lò tự chế bằng lon guigoz cắt đôi, đốt củi nhỏ, có khi đốt bằng ny
lông nấu cà phê, trà lá với nhau. Ra lao động hay ở buồng giam, cán bộ nói gì
anh cũng nghe, bảo gì anh cũng vâng, đôi khi trước mặt cán bộ anh còn quơ tay
nói lớn bảo anh em cố gắng làm cho xong, nhưng khi cán bộ đi rồi thì đâu cũng
vào đấy, lao động cầm hơi. Cải tạo lâu dài mà. Ít lâu sau, khi tôi đã chuyển trại
vào Nam, nghe anh em nói lại rằng anh đã chết trong trại giam ngoài miền Bắc.
Khi xe lửa từ ga Phủ Lý lần lượt qua khỏi
ga Thanh Hóa … đến Đồng Hới, anh em vui mừng vô hạn vì biết chắc rằng mình đang
trên đường xuôi về miền Nam thân yêu. Tới nhà ga Quảng Trị, Huế, anh em cầm tay
nhau mà ứa nước mắt. Nhớ hồi di tản tháng 3 năm 1975, càng đi xa vào trong Nam
bao nhiêu càng an toàn bấy nhiêu, mọi người chạy bán sống bán chết bằng đủ mọi
phưong tiện để về tới Sài gòn, nhưng than ôi … vận nước đã đến hồi mạt vận, chỉ
chạy thôi mà thua trắng tay. Giờ tâm trạng cũng giống y như vậy, mong tới ga
Bình Triệu nhưng khi xe lửa vừa qua Tháp Chàm một đỗi thì dừng hẳn lại.
Chúng tôi xuống ga Thuận Hải và được xe
tải đưa về trại Z30 (Hàm Tân). Trời nắng nóng, mồ hôi nhễ nhại, anh em muốn cởi
bỏ những bộ quần áo chống rét ngoài miền Bắc mà không được … vì tay bị còng.
Gió thổi thốc tung bụi mù. Bước xuống xe chao đảo mà ai nấy cũng cố gắng nhìn
quanh, lòng vui khôn tả. Sự sống tưởng chừng như đang được hồi sinh. Rừng xanh
bạt ngàn, đất đai, hoa màu bát ngát …
Anh và tôi được xếp chung vào đội lao
đông nông nghiệp, làm rẫy trồng khoai, bắp. Về đến Hàm Tân ăn uống được cải thiện
rất nhiều. Nhớ hôm sáng đầu tiên mới tới trại, trực cơm mang về một thau khoai
mì tươi nấu chín, anh em rất đỗi ngạc nhiên vì suốt mấy năm ở ngoài Bắc, hai bửa
ăn chinh chỉ có khoai mì lát, phơi khô mốc xanh hoặc bo bo còn nguyên võ, chứ
làm gì có cái khác mà ăn sáng. Đã thế, tương đối gần nhà, non một ngày đường
nên gia đình đi thăm nuôi thường xuyên, mỗi tháng một lần và tù nhân được tiếp
tế thực phẩm rất dồi dào. Tù nhân được đăng ký tiền mặt nên thứ gì cũng có, miễn
là có tiền. Lao động có kết quả, ngoài phần thu hoạch cho trại, anh em giỏi và có
sức được canh tác riêng trên những vạt đất ven đường ra rẫy trại để cải thiện
như bầu, bí, mướp, cải xanh… Anh bạn thuận tay trái chung còng với tôi hôm về
Nam nay đã trở thành người hùng ngang dọc, trồng trọt cải thiện tứ phía. Anh chọn
vạt đất gần suối để tranh thủ tưới nước, chăm sóc vì sau khi hết giờ lao động,
cán bộ thường hay cho xuống suối tắm trước khi về nhập trại. Lớp ăn, lớp chia
hoặc đổi lấy thực phẩm khô, riêng tôi được anh đặc biệt biếu không.
Sinh hoạt hằng ngày anh ăn cơm chung với
“Bố già”, Thiếu úy cảnh sát, nguyên Trưởng cuộc ở Quảng Ngãi, luôn tự xưng mình
là già hơn hết. Mà già thiệt, năm ấy cũng đã gần sáu mươi. Cứ hết đợt nầy đến đợt
khác có khi gồm cả sếp cũ. Đại úy cảnh sát trẻ về nhiều rồi mà “Bố già” vẫn còn
ở mãi. Mỗi lần có đợt thả về là có khiếu nại, ban đầu còn viết đơn, riết rồi
cũng chán bèn đâm ra than phiền với cán bộ quản giáo. Cuối cùng cũng có kết quả
là theo đội ra rẫy nhưng không lao động mà chỉ đun nước uống cho đội nên có thì
giờ cải thiện, nấu nướng linh tinh.
Sinh hoạt trong buồng giam ở Hàm Tân
tương đối thoải mái. Buồng giam lợp tôn thấp lè tè, láng gỗ ở trên, sạp dưới
đúc xi măng, lối đi ở giữa nền đất, vách ván trống thưa. Số tù nhân giam giữ gồm
hai hoặc ba đội hơn trăm người. Sau khi cán bộ đóng cửa, anh em tụ tập nhau
thành nhóm, lập “bàn đèn” chiếu phim miệng, thường là tiểu thuyết của Kim Dung,
“Tiếu Ngạo Giang Hồ” hay “Cô Gái Đồ Long.” Phim kiếm hiệp đôi lúc cũng bị
ngưng, cắt đoạn khi máy chiếu được thăm nuôi chuyển qua tin tức thời sự: Phục
quốc đã về tới Cà Mau hay Tướng lãnh VNCH đã về tới Thái Lan.
Ngoài những rạp chiếu phim kiếm hiệp còn
có những “bàn đèn” văn nghệ nho nhỏ, chỉ năm ba anh em đàn hát trong buồng
giam. Nhớ hồi còn ở trại Hà Nam Ninh, cứ mỗi sáng Chủ nhật nghĩ lao động, anh
em thường hay tụ tập ngoài sân, sau khi nấu nướng ăn uống xong là tụ tập đàn
hát và các rạp chiếu phim ngoài trời bắt đầu, máy chiếu rãi rác từng nhóm nhỏ,
nhiều bộ phim rất hấp dẫn với đề tài là những câu chuyện thuộc “thâm cung bí sử”
của VNCH do chính người có thẩm quyền trong cuộc kể lại.
“Bố già” không tham gia vào các “bàn
đèn” chiếu phim hay văn nghệ bỏ túi vì đau lưng không thể ngồi lâu được, nhưng
cung cấp đèn dầu tim nhỏ và thuốc lào với điều kiện là khi ra lao động, anh em
phải thay phiên nhau ra suối gánh nước về cho Bố để nấu nước pha trà giảo cho
toàn đội giải lao. Anh bạn thuận tay trái cũng ít khi tham dự “bàn đèn” viện cớ
là lao động vất vả, lớp nào cho đội, lớp nào lo cho mấy vạt đất cải thiện nên mệt
phờ râu, ngũ sớm để ngày mai cày tiếp. Nhưng từ trong sâu thẳm, anh em cũng
đoán biết anh có cả một trời tâm sự buồn. Rất ít nói, khi xếp chỗ nằm, anh tình
nguyện chọn trong góc khuất, tối thui ờ cuối buồng giam. Có hôm, khi các “bàn
đèn” máy chiếu phim bị rè do cảm cúm, sổ mủi nên tắt sớm, về ngũ, anh em mới
phát hiện ra là anh vẫn còn thức.
“Bố già” luôn đem niềm vui đến cho anh
em, nhất là cánh trẻ có nhiều dịp đùa giởn. Nhớ những buổi chiều ra suối tắm,
mình trần như nhộng, quần đùi ướt đẫm, té nước về phía “Bố già.”
– Bố xem các con còn ngon lành không?
Khi về bố chọn đứa nào?
– Tau gả hết rồi.
“Bố già” kể có đứa cháu gái kêu bằng Dượng,
lỡ thời, chồng chết hồi Tết Mậu Thân, ở vậy nuôi con. Vừa nói Bố vừa ngóng lên
vạt đất cải thiện trên bờ suối. Anh em cười vang hiểu ý Bố. Cán bộ ra lệnh còn
năm phút nữa tập trung về trại. Anh bạn thuận tay trái, nãy giờ lo tưới nước
đám rẫy ở trên bờ mới lật đật xuống suối tắm giặt. Anh luôn là người vội vả sau
cùng nên có nghe được gì đâu.
– Bố định làm mai cho anh đấy.
Anh cười cho vui với anh em thôi, chứ vợ
con gì nữa, vết thương lòng còn chưa nguôi …
“Phương trời mình đi xa thêm xa.
Nghe vàng mùa thu sau lưng ta.
Em ơi, em ơi thu thiết tha…
Ôi người vì ta qua phong ba.
Có còn gì sâu trong tâm tư. Mắt lệ, mờ
hoen, dư âm xưa…”
(Tình Lỡ)
Khi chuyển trại về Nam, anh em ai cũng
tràn đầy hy vọng là sắp được thả vì theo kiểu gối đầu, trước khi có tù nhân từ
miền Bắc chuyển vào thì trại đã có đợt thả đại trà hằng trăm người, đông đến độ
sau khi thả tù rồi, nhiều buồng giam còn lại trống trơn, nhất là khu trại C và
D dã chiến ở vòng ngoài, chỉ rào bằng dây thép gai, không có tường xây chung
quanh. Thật ra, khi đã bị giam giữ nhiều năm, hơn sáu, bảy năm rồi còn gì, mà lại
không biết thời gian thụ án là bao nhiêu nên anh em cũng không còn nôn nóng như
trước nữa. Thôi kệ cứ vui qua ngày, có thế mới sống được chứ. Vả lại, khi về
Nam không còn cảnh đói rét như ở miền Bắc nên không khí trong tù cũng khác hẳn.
Không biết bên ngoài có can thiệp gì hay
không mà các đợt thả tù lại dồn dập với số lượng rất đông so với hồi năm năm về
trước, mỗi năm chỉ thả một hai đợt nhỏ giọt vài ba chục người mà nghe nói toàn
là bảo lãnh không thôi, chứ làm gì có học tập cải tạo tốt. Có khi là do đổi mới
hay sửa sai không chừng? Tù gì mà nhiều lắm thế. Chủ hảng nước tương nỗi tiếng
hiệu con mèo cũng vào tù vì tội làm ăn giàu có. Chủ hảng sản xuất xe đạp cũng
vào tù vì tội cạnh tranh với thương nghiệp quốc doanh, chuyên nhập khẩu xe đạp
Trung quốc. Có cả sư thầy ờ các chùa chiền địa phương. Đặc biệt nhất là có Giáo
sư hội trưởng Hội Khổng học Sài gòn vào tù chỉ vì biết xem Tử vi, bốc quẻ như thần.
Mỗi tối, khi cửa buồng giam vừa đóng lại, anh vỗ tay ba tiếng, ngày nào cũng vậy.
Anh em tò mò, gạn hỏi năm lần bảy lượt vì ngại đến tai cán bộ, anh giải thích:
Vỗ tay ba tiếng là để mừng rằng mình đã từng ngày một, trả hết nợ vay kiếp trước
hay kiếp nầy. Hai là tội nghiệp cho những người gây nghiệp mới, không biết chừng
nào họ mới trả được. Ba là nên tha thứ cho họ vì họ không biết việc họ làm. Anh
đoan quyết là “chúng mình sắp về hết rồi.” Thế là anh em yên chí chờ ngày về.
Ban đầu còn nói đùa chơi cho vui thôi,
nhưng sau đó từng đợt tù được thả càng ngày càng khít dần nên “Bố già” sợ mất
cơ hội làm mai cho đứa cháu gái. Thật tình Bố rất thương và thích bọn trẻ trong
tù nhưng Bố chọn anh bạn thuận tay trái là vì cho xứng đôi vừa lứa, chứ không
chê bai gì bọn trẻ, giờ cũng đã ngoài ba mươi. Tội nghiệp “Bố già” lo khi được
thả về rồi, đâu còn có dịp nào gặp lại nữa. Quảng Ngãi xa xôi quá, đâu có đứa
nào chịu ra. Hơn nữa, sinh hoạt hằng ngày cơm nước và nhất là chiều nào cũng
giúp Bố gánh nước về trại để nấu ăn hay rửa chén bát. Chỉ có anh bạn thuận tay
trái là bền bỉ nhất. “Bố già” từ từ gợi chuyện.
Anh tốt nghiệp khóa 22 trường Sĩ Quan Bộ
Binh Thủ Đức, ra trường chọn về Tiểu khu Quãng Ngãi và trở thành sĩ quan tác
chiến thuộc Tiểu đoàn địa phương đóng quân trên địa bàn quê hương của “Bố già”
gọi là thôn Bình An mà không Bình An. Tết Mậu Thân năm 1968 anh bị thương trong
lúc giao tranh và bị địch bắt, sau đó chuyển lên giam giữ ở vùng Datsut,
Kontum. Sáu tháng sau, anh vượt ngục thành công về tới Dakto và ra trình diện với
chính quyền VNCH. An ninh quân đội điều tra (giam lỏng) và làm việc hơn sáu
tháng. Sau khi hồ sơ bạch hóa anh được phục hồi cấp bậc cũ và thuyên chuyển về
vùng IV, khu chiến thuật Tiền Giang làm sĩ quan tác chiến thuộc Sư đoàn 7 Bộ
Binh. Khi vừa đổi về đơn vị đóng gần nhà, gia đình liền nhờ người mai mối và tổ
chức đám cưới ngay trong năm.
Để đánh dấu cho sự trở về của anh như một
phép mầu, gia đình tổ chức đám cưới thật lớn, thật linh đình. Cô dâu con nhà
khá giả, học hành tử tế sánh vai bên anh chàng Trung úy trẻ, đẹp trai, oai
phong lẫm liệt. Cả phố ai cũng mê… “Bố già” sốt ruột không muốn nghe tiếp, chỉ
ngắn gọn có chịu không thì Bố nhắn về cho vợ, kỳ tới thăm nuôi sẽ dẫn cháu theo
vào cho có bạn, rồi sẵn dịp coi ra sao. Còn người đã bỏ đi rồi thì kể làm chi.
Nhưng anh bạn thuận tay trái bỏ lững, coi như không muốn bàn tới nữa. Sự đời đã
tắt lửa lòng. “Bố già” buồn năm phút.
Tưởng đâu như thế là quên đi, nhưng có một
hôm dưới bóng mát tàng cây trong trại nhân ngày nghĩ không lao động, anh em tụ
tập nhau ăn uống, “Bố già” kể rằng tội nghiệp con nhỏ mới lầy chồng chưa được
bao lâu thì chồng nó tử trận. Chồng mất rồi mới biết mình có thai và sau đó
sanh ra một bé gái, nó lập bàn thờ chồng và ở vậy nuôi con cho đến ngày nay.
Nghe cảm động và ngưỡng mộ quá, anh em bèn hỏi:
– Hiện nay cô ấy đang làm gì ở đâu Bố?
– Cô giáo Lan dạy học ở quê vợ tau từ
trước tới giờ.
Đang rít một bi thuốc lào, ém hơi chờ nhả
khói, anh bạn thuận tay trái bỏ dựng đứng điếu cày, chống tay lên, mặt mày xanh
mét y như người say thuốc lào. Bình thường, khỏe như anh có khi phải hai bi mới
đã điếu. Giọng nói hơi lạc đi.
– Võ thị Lan ở Sông Vệ phải không Bố?
– Ừ, sao mi biết?
Hồi mới còn là Thiếu úy ở Quảng Ngãi,
anh theo đơn vị hành quân thường hay qua lại những bến đò ngang sông Vệ. Rồi một
hôm tình cờ anh gặp cô giáo Lan là người có nhan sắc trong vùng, vừa đi dạy vừa
phụ giúp mẹ có quán nước và bán thêm môt ít đồ chạp phô ở gần bờ sông. Trong
đơn vị có người quen giới thiệu, tới lui nhiều lần rồi dính luôn. Đơn vị đứng
ra tổ chức “đám cưới nhà binh” chỉ có cô dâu chú rễ và anh em cùng đơn vị tại hậu
cứ của tiểu đoàn. Chưa tròn năm, trận Mậu Thân xảy ra anh bị thương và bị địch
bắt, đơn vị báo cáo mất tích nhưng anh em cùng đại đội báo riêng cho gia đình
biết là chắc chết vì bị phi pháo của ta truy kích. Sau đó, anh sống sót về
trình diện An ninh quân đội và theo lời khuyên ngầm gần như bắt buộc của sĩ
quan an ninh là không nên quan hệ với đơn vị cũ để bịt tất cả các đầu mối truy
tầm của địch. Anh chấp hành lệnh trên và được chuyển đi nơi khác, không còn môt
mối quan hệ nào ờ Quảng Ngãi nữa. Ra đi không một lời từ giả với người vợ trẻ.
Rồi biền biệt qua bao năm tháng, theo đời quân ngủ anh chưa một lần nào trở lại
chốn xưa…
* * *
Thế rồi vào một buổi sáng trời vừa tạnh
mưa, anh em đang ngồi chờ thăm nuôi, kẻ có người không, trể hẹn là chuyện thường.
“Bố già” được gọi ra nhà thăm nuôi cùng lúc với anh bạn thuận tay trái. Có khi
gần tám năm rồi anh chưa được một lần thăm nuôi. Anh em rất ngạc nhiên và vui
khi thấy anh đi sóng đôi với Bố ra nhà thăm nuôi. Đây là một kỳ tích của “Bố
già.”
Hôm ấy cuối tuần có đông tù nhân được
thăm nuôi, anh em nhường cho vợ chồng “Bố già” chọn đầu dãy bàn ở gần góc nhà,
khuất tầm nhìn của cán bộ đang bắt ghế ngồi ở ngoài cửa ra vào. Chưa ngồi xuống,
anh bạn thuận tay trái đã nhủn người muốn đổ xuống ghế. Đứng bên cạnh vợ “Bố
già” là người đàn bà trung niên khẳng khiu mặc chiếc áo bà ba màu mỡ gà với
khuôn mặt sạm nắng nhưng có nét, đôi mắt to đen lay láy đang tràn đầy nước mắt.
– Anh Mai, anh còn sống.
Anh ngồi xuống gật đầu ứa nước mắt vói
tay qua dãy bàn nắm lấy tay “người ấy” mà tưởng chừng như còn xa xôi lắm…
Tối hôm đó, “bàn đèn” của đội lao động
nông nghiệp ngoài thuốc lào, trà đậm còn có thêm một ít kẹo gương Quảng Ngãi.
Chuyện như “châu hoàn hợp phố” gây nhiều xúc cảm khiến buổi chiếu phim anh em
ngồi đầy mấy sạp, máy chiếu hơi bị rè và ngắt quảng vì không quen kể và cảm động.
“Bố già” ngồi bên kia sạp xi măng thỉnh thoảng quay qua chen vào:
– Cái tưởng là của mình có khi không phải
là của mình. Còn cái mình bỏ đi, tưởng không phải là của mình đôi khi chính lại
là của mình.
– Con rơi con rớt hả Bố?
– Già rồi mới thấm.
Tới khuya, anh em trong ban “cổ nhạc nam
phần” của Thầy Lai phụ họa thêm vài câu vọng cổ…
“Tôi đứng đây mà tưởng chừng như đứng
trên bờ sông Mỹ Thuận, khi mình quay xuồng tách bến để trở lại với hai con. Bờ
cây xa mờ nhuộm khói hoàng hôn, con nước lớn lục bình trôi rời rạc … Chiều đã
xuống mặt trường giang bát ngát, mà bóng người thương cũng khuất dạng giữa …
sông đầy …” (Tuyệt Tình Ca)
Thời gian qua nhanh, thăm nuôi mấy lượt,
đường đi Quảng Ngãi – Hàm Tân không còn xa nữa. Vợ chồng con gái trùng phùng.
Cô giáo Lan ngày càng mượt mà, sắc diện tươi tỉnh, vui mừng vô hạn. Mười mấy
năm qua tường đâu đã mất, ai ngờ người vẫn còn đây, còn có ngày nầy…
Đến cuối năm, trại có đợt thả tù nhân hằng
mấy trăm người, gần hết láng trại. Lại đúng đợt thăm nuôi vào dịp gần Tết nên
thân nhân đều nán ở lại nhà thăm nuôi vài ngày chờ làm xong thủ tục để cùng về.
Không khí thật rộn rịp, tràn đầy niềm vui, nhất là cánh tù nhân trẻ.
Chúng tôi ra khỏi trại vào buổi chiều,
anh em cùng nhau đến xóm nhỏ trước cổng trại ghé vào quán nước bên đường. Riêng
anh chị Mai Lan từ giả sớm để về Sông Vệ cho kịp Tết.
Thấy hai anh chị nắm tay nhau dìu lên
xe, bất giác một anh bạn nhớ lại chuyến xuôi Nam hồi hai năm trước buột miệng
lên tiếng.
– Tự do rồi muốn nắm tay nào cũng được.
Tình yêu đâu cần trái phải.
Nghe thế cả bọn cười vang. Ngoài kia gió
xuân đang về.
Trần Bạch Thu
cam on tac gia that nhieu cau chuyen that cam dong kinh chuc tac gia va gia dinh nhieu niem vui va nhu y
ReplyDelete