Sáng nay nhỏ em từ Việt Nam
cho hay Nguyệt, cô em chồng, vừa tạ thế trong một viện dưởng lão sau
vài ngày bị nhiểm Covid-19. Nguyệt đã 75 tuổi, sống độc thân cho đến
khi không còn có thể tự túc được nữa nên đành phải nương thân trong
viện dưởng lão. Nhắc đến Nguyệt tôi bổng thấy thương thân phận những
người “khóc lẻ loi một mình” trong cuộc đời.
Nguyệt không đẹp lắm nhưng rất có duyên, người tầm thước, thon thon cân đối, tính vui vẻ, nói năng nhỏ nhẹ, nhìn qua Nguyệt rất dễ mến. Thế nhưng cô lại không gặp được duyên may, phần lớn là do sự trông nôm cẩn thận của người mẹ quá thủ cựu, không cho con gái giao thiệp nhiều với bạn bè, cả trai lẫn gái, sợ con “hư”. Cho đến năm 75, một tên thiếu úy có chức phận ở quận nhứt - người mà tôi phải trình diện mỗi tháng sau khi được “tạm hoản học tập” - đã trồng cây si và dày công theo đuổi, nhưng Nguyệt từ chối, quyết không chơi với VC. Tuy vậy cũng nhờ có Nguyệt mà tôi không phải tiếp tục trình diện mỗi tháng nữa. Ngày tôi sắp sửa ra đi, các anh chị em đều hợp mặt tại nhà của mẹ cha ở xã Hiệp Bình, có cả Nguyệt cùng tham dự bửa cơm tiển biệt đó. Mãi đến hơn 20 năm sau tình cờ tôi nhìn thấy Nguyệt trong một tấm ảnh do gia đình cho xem qua trên mạng, tôi hết sức ngạc nhiên trước sự đổi thay của Nguyệt; tôi đã suýt không nhận ra vì cái nhan sắc một thời đã biến mất, và Nguyệt chỉ còn là một bà lão với đầy đủ các nếp nhăn trên má, trên môi ! Tôi sực nhớ đến một lời ca của Phạm Duy :“có nhiều khi đời hoa chống già vì thiếu mặn mà”. Nay Nguyệt đã rời bỏ cuộc đời, tôi mừng cho Nguyệt nhiều hơn là tiếc thương vì mất một người thân..
Chuyện của Nguyệt làm tôi
nhớ đến chuyện của tôi. Đúng ra là chuyện “lá số” của tôi do một ông
thầy tử vi “xem”. Tôi chẳng bao giờ tin chuyện mà tôi vẫn cho là bá
láp đó. Thật ra tôi chẳng tin gì cả, tôi buộc phải chấp nhận sự “có
mặt” của đấng Tạo Hóa vì tôi không sao giải thích được, hiểu được
dù chỉ một tí ti những gì tôi nhìn thấy trong khung trời về đêm. Từ
thế kỷ XVIII, Voltaire cũng đã bối rối trước vũ trụ :
L’univers
m’embarrasse et je ne puis songer que cette horloge existe et n’ait point
d’horloger.
Khi lên ban
tú tài, tôi rời Bà Chiểu theo cha mẹ trở về quê Hiệp Bình, quận Thủ
đức; những lúc về ngang đồng Bình Triệu những đêm không trăng, tôi hay
dừng lại, bỏ xe đạp bên vệ đường vắng, nhìn khung trời cao với vô
vàn vì sao rồi sinh ra thắc mắc : từ đâu mà có nhiều tinh tú như
vầy? để làm gì ? Và tôi cũng thế, biết rằng từ bụng mẹ mà ra,
nhưng từ đâu đến ? Biết hỏi ai, cuối cùng đành phải chấp nhận chuyện
đã rồi : tôi và “thiên hạ” đang có mặt trên trái đất nầy do ý muốn
của đấng tự nhiên đã có – l’Être
est nói
theo các triết gia - với bao nhiêu hệ lụy, tín
ngưởng...Tôi tin vào “hóa công”, nhưng vẫn luôn tự nhủ : tự tin mình trước đã...
Năm 1957
bà chị Năm của tôi làm phụ tá cho ông E, trưởng ty bằng lái xe. Trong
địa vị đó, chị quen biết rất nhiều người kể cả đại úy Lê Đức
Thịnh, người bị tử hình ở Long Giao năm 75, và một ông thầy xem tử
vi. Theo lời của chị thì ông thầy tử vi nầy rất nổi tiếng; một quẻ
của ông giá đáng “ngàn vàng”, khách hàng của ông đều khen ông xem rất
đúng. Tôi chả biết đúng cở nào mà thiên hạ rất quí trọng ông.
Khi bà chị tôi bảo là ông xem ngày sinh của tôi và cho biết cái lá
số của tôi không giống ai, tôi chỉ đùa rằng số con trâu xấu xí như tôi
thì quả thật làm gì có ai giống tôi. Chị chỉ cười và bảo rằng
thầy đã “dạy” nhiều điều, nhưng chỉ có ba điều đáng nhớ, đó là tôi
sẽ có vợ lớn tuổi hơn, vợ không cùng quốc tịch và điều đáng nhớ
nhứt là tôi sẽ sống phần còn lại của cuộc đời ở hải ngoại. Trong
ba điều nầy tôi khoái nhứt là điều sau cùng, và rất mong ông thầy
bói nói đúng ! Đó chẳng phải là
một giấc mơ hoa “hóa thành hiện thực” hay sao ? Thời quốc biến thì
làm thế nào “lọt” ra được hải ngoại để phây phả cuộc đời nếu không
phải là con ông cháu cha ? Cưới vợ già thì cũng có thể, đó đâu
phải là chuyện hiếm hoi (bà xã của ông tông tông
nước Pháp hiện nay không chỉ có già, mà còn già khú cú đế nữa cơ,
có sao đâu, miển là “thương nhau” đều đều là “đạt” rồi). Nhưng lúc bấy giờ Tây đã về nước, Mỹ chưa
đến, muốn cưới vợ không cùng quốc tịch chỉ có vào Chợ Lớn kiếm
xẩm xịt. Với tôi bói toán, phần số, duyên nợ... chỉ là những chuyện
vui vui, nghe qua rồi để đó. Chỉ để đó thôi chứ không hoàn toàn bác
bỏ, vì thỉnh thoảng, nhứt là thời gian ngồi chong ngốc trong tù,
buồn tình lại có dịp lôi ra “chiêm nghiệm” cho đở buồn, đở lo; thường
thì cũng mong “thầy” đoán trúng cho đở khổ. Mà khổ thật là khổ
những ngày tôi bị biệt giam ngoài bìa rừng, dưới chân núi Bà Đen,
trên đầu chỉ có một mái lá đơn sơ chẳng biết để che cái chi, tứ bề
trống vắng, trước mặt là một tấm ván dày 10cm dựng đứng với 4 lỗ
chia thành 2 cặp, cách nhau độ 50cm và cách mặt đất độ 30 cm, để giữ
chặc hai cổ tay và hai cổ chân của tôi. Cái thế ngồi quái ác đó
buộc người tôi gập về phía trước, tứ chi căng ra kéo toàn thân về
phía tấm ván làm tôi khó thở và chỉ trong chốc lát là muốn ngất
xỉu. Chính sau lúc quá mệt vì khó thở đó tôi lại vụt nhớ những
lời “thầy” đã dạy rằng tôi sẽ sống ở hải ngoại. Đây chính là cái
phao cuối cùng giúp tôi “Qua cơn mê”. Tôi có hơi vui mừng vì hai
điều “tiên tri” rằng tôi có vợ già và không cùng quốc tịch đều trúng
phóc, chẳng lẽ điều thứ ba lại có thể nào không đúng ? Tôi chẳng tin
ma quỉ, thánh thần gì cả, vậy mà lần nầy tôi lại cố gắng tin lời
thầy bói ! Tâm hồn con người quả
thật là kỳ...cục.
Sau ba
ngày đêm hành hạ tôi cho rã rời hồn xác, VC lôi tôi ra một phiên tòa
tổ chức tại hội trường của T2. Trưa hôm đó, một ngày thứ bảy, một
tên bộ đội dẫn tôi về trại. Tôi hơi ngạc nhiên sao không thấy bóng một
bạn tù nào, trại thật là vắng vẻ. Qua khỏi các dãy nhà, tôi thấy
trong hội trường trước mặt đầy chật cả người. Tôi như tỉnh hồn ngay
tức khắc : hình ảnh phiên tòa xử Lê Đức Thịnh hiện rõ trong đầu. Và
tiếng súng hành quyết Thịnh năm ba phút sau khi toà tuyên án tử hình
vẫn còn văng vẳng bên tai. Tôi để ý thấy trong ba vị quan tòa, không
có mặt của thủ trưởng và nhứt là của tên chính ủy, giới chức
quyền lực nhứt của trại. Suốt hơn hai tiếng đồng hồ tố khổ tôi đủ
điều, đủ chuyện; hạch hỏi tôi dăm ba câu mà tôi chẳng hề trả lời câu
nào cho trọn vì quá mệt, chỉ chực chúi mũi xuống đất nằm dài ra
ngủ nếu không nhờ mấy bạn tù ngồi cạnh kịp thời giữ tôi lại. Cuối
cùng tòa cho nghỉ vài phút để nghị án. Khi vừa được lịnh trở vào
hội trường, tất cả đều im lặng đến rợn người vì ai – kể cả tôi -
cũng biết rằng tôi khó lòng thoát khỏi án tử hình. Ngay khi ba
tên quan tòa ngồi vào chổ, vừa mở máy phóng thanh, thì một chiếc xe
Jeep chạy vù vào như một cơn lốc, kéo theo một đám bụi hồng tưởng
như một cơn bảo cát. Tiếng xe hảm thắng nghe ê răng và trong đám bụi
mịt mù đó lù lù hiện ra tên chính ủy như một hung thần đến từ địa
ngục, vẻ mặt hầm hầm không được hài lòng. Hắn đi thẳng vào bàn chủ
tọa, tắt máy phóng thanh, và bắt đầu “lên lớp” ba ông quan tòa; chúng
nó cúi đầu ngoan ngoản im lặng nghe. Có đến 10 phút sau, hắn mới mở
máy phóng thanh, răn đe tôi vài điều “bài bản”, rổi cho cán bộ dẫn
tôi trở ra cùm lại ngoài bờ rừng. Có một vài anh em bạn tù tự động
vổ tay, nhưng giựt mình ngưng ngay tức khắc. Trước mắt tôi tên ác quỉ
bổng trở thành ông thần hộ mạng. Ngày hôm sau tôi được thả ra cho về
trại để chuẩn bị “ăn lễ” mùng 2 tháng 9. Rồi vài tuần lễ sau, chiến
cuộc xảy ra gần biên giới Miên Việt, toàn trại Bổ Túc được lịnh “sơ
tán”. T của tôi được đưa về Suối Máu. Tôi đã thoát nạn một cách kỳ
diệu. Lần đó tên chính ủy của trại đi hợp ở tận Long Bình trong
suốt cả tuần, đến ngày chủ nhật hắn mới trở về. Nhưng hắn đã quay về trước một ngày và rất
kịp thời để cứu tôi không bị chết oan chỉ vì sự thù oán vô lý của
ba tên “quan tòa”. Bọn nầy không hề che giấu sự hằn học, hận thù đối
với tù cải tạo, đặc biệt là tên Nguyễn Ngọc Tấn, mặt hắn lúc nào
cũng âm u, “sầm sập như trời sắp mưa”. Cả ba tên nầy đều là dân Bắc,
chẳng biết gì về miền Nam nhưng lại thù hằn dân Nam đến mực khó
tưởng. Thế mới biết CS đã thành công “vĩ đại” trong việc nhồi sọ dân
Bắc. Đến cả Dương Thu Hương còn phải bật khóc khi nhìn thấy Sài Gòn
“hoa lệ” đồng thời nhận ra bộ mặt dối trá, gian manh của CSBV...
Khi đã yên thân ở Suối Máu, tôi mới suy nghĩ về sự việc nầy. Đang công tác ở Long Bình, làm sao tên chính ủy lại hay biết mọi việc đang xảy ra ở tận Tây Ninh ? Ắc hẳn hắn ta đã được thông báo rành mạch về trường hợp của tôi, nên hắn không thể xem thường và bỏ qua; trái lại hắn phải bỏ dở công tác để gắp rút quay về cho kịp thì. Tại sao hắn lại cho việc nầy là hệ trọng ? Tôi cũng chỉ là một tên tù như bất cứ ai, có gì quan trọng mà hắn phải bỏ cả công tác ? Cuối cùng tôi cũng hiểu ra ngọn ngành. Sau vụ Noel 75 ở Long Giao khi tôi đáp lời câu hỏi xấc láo của tên cán bộ từ Sàigòn lên gặp tôi với “hảo ý” đưa tôi về làm việc tại bịnh viện Chợ Rẫy, rằng tôi có sợ khi thấy quân đội nhân dân vào Sàigòn ; tôi vui vẻ trả lời bằng một câu hỏi đầy thách thức rằng : anh có thấy TQLC sợ VC bao giờ không ? Chỉ có vậy, nhưng đối với VC tôi nghiễm nhiên thành một tên phản động nguy hiểm cần được đối xử đặc biệt. Và sau ngày Tết năm 1976 đó bà xã tôi nhận được giấy mời lên căn cứ Sống Thần. Thời điểm đó lên Sống Thần – nơi bồi dưởng tù trước khi thả - là chỉ để đón tôi về. Căn cứ nầy không xa lạ đối với bà xã, lên đó lần nào cũng vui vẻ, thì lần nầy chắc cũng vui vậy thôi. Bã đâu dè VC điệu lên để chúng nó hùa nhau chữi bới tôi, xài xễ bã không còn chừa chổ nào hết. Bọn chúng còn láo khoét bảo bà xã tôi nếu không “giáo dục” tôi thì cách mạng sẽ “xử lý” tôi. Vừa giận, vừa lo sợ vì hai tiếng “xử lý” đầy âm hưởng tử khí, bã về thẳng tòa tổng lảnh sự Pháp đường Hồng thập tự, trình bày nội vụ. Ông tổng lảnh sự mới nhắc nhở rằng bã là người Pháp, không phải Việt Nam. Khi được mời như vậy bã phải báo cho Tổng lảnh sự biết để làm việc với VC trước khi liệu xem có nên đáp lời mời hay không. Sau đó lảnh sự quán đã báo cáo nội vụ lên tòa đại sứ ngoài Hà Nội. Toà đại sứ làm việc ngay với chính phủ Hà Nội, đồng thời cũng tường trình về Paris. VC đâu hiểu rằng mắng nhiếc một công dân Pháp là xúc phạm đến cả một dân tộc, nào phải chuyện chơi. Thế là lớn chuyện, và tôi nghiểm nhiên thành một “nhân vật” mà không phải tên cán ngố nào muốn làm gì thì làm. Từ đó, tôi vụt hiểu ra thái độ kỳ quặc của tên thủ trưởng trại Hóc Môn buổi xế chiều khi chúng tôi được chuyển từ Long Giao về đây. Khi chúng tôi đang xếp hàng ngoài sân theo từng đội thì hắn ta cầm đèn pin đi quanh và lớn tiếng hỏi ai là Nguyễn văn Dõng. Tôi bước ra khỏi hàng cho hắn rọi đèn nhìn tôi từ đầu đến chân, xong hắn im lặng bỏ đi. Thì ra lịnh trên đã thông báo các nơi về trường hợp của tôi. Vì vậy mà tên chính ủy đã phải từ bỏ công tác ở Long Bình để hối hả quay về Tây Ninh cho kịp lúc hầu tránh một “tai nạn” rất tai hại cho việc ban giao giữa Hà Nội và Pháp, một quốc gia mà VC đang còn cẩn đến. Rốt lại bà xã đã cứu mạng tôi khỏi cuộc hành quyết và cuối cùng tôi đã thực sự sống những tháng năm còn lại ở hải ngoại như lời tiên đoán của thầy tử vi có hơn chục năm về trước.
Sự đời
có những chuyện tưởng như ngẩu nhiên, nhưng lại mang tính chất huyền
bí, khoa học khó lòng giải thích. Chuyện tôi vừa kể về bản thân tôi
đã làm tôi suy nghĩ nhiều về những gì tôi vẫn hay cho là dị đoan. Tôi
đã sinh ra đúng ngày, giờ, tháng, năm...ra sao mà giúp thầy tử vi
đoán trúng những chuyện hết sức hệ trọng trong đời tôi. Chẳng lẻ khi
bước chân vào đời, tôi đã được “ấn định” sẵn một hướng đi. một phận
sự, một tương lai, và cả một kết cuộc ? Đến cả chuyện duyên phận
cũng đã được “dàn xếp” trước; những cố gắng tìm người bạn đường
thích hợp...chỉ là chuyện hoa lá cành nhằm tô điểm cho cuộc đời có
vẻ nên thơ, sôi động tự nhiên chớ không phải là một màn kịch được
sắp đặt trước ? Trong vũ trụ nầy không có chổ cho sự ngẩu nhiên ? Tôi
thì vẫn hay nghĩ rằng vũ trụ đã “có” là do một sự ngẩu nhiên, tình
cờ, chớ không vì một sự cần thiết, lợi ích nào cả. Trái đất của
loài người và muôn thú chỉ là một hạt
bụi trong cái khoảng không vô tận. Tôi không nhìn ra được một sự cần
thiết nào của hạt bụi đó. Nó còn hay nó mất cũng không hề hấn mải
mai nào đến vũ trụ. Cho rằng vũ trụ sinh ra do tình cờ đi chăng nữa,
tôi cũng không yên tâm, vẫn thắc mắc : từ đâu mà có bao nhiêu “nguyên
liệu” đủ để tạo dựng nên bao nhiêu thiên hà ? Bảo rằng từ tiếng nổ
Big Bang mà vạn vật phát sinh? Big Bang giải thích chuyện các thiên hà
ngày càng xa nhau thì có lý. Nhưng từ một hòn sỏi nỗ tung thành ra
bao nhiêu thiên hà nghe sao như nói giởn chơi. “Cục đá” đầu tiên đó ở
đâu ra để nổ tung thành vũ trụ ? Một cục đá có thể nào “tự lớn
lên” để thành một trường sơn ?.. Càng nghĩ càng đau đầu. Vũ trụ là
một huyền bí, con người là một mầu nhiệm. Làm sao có thể hiểu được
thiên cơ ?
Nhà bác học Einstein cũng
đã than rằng :
Ce qu’il y
a de plus incompréhensible, c’est que le monde soit compréhensible.
Sau chuyện
thầy tử vi đến chuyện duyên nợ. Tình tôi yêu người bạn đường đúng ra
là thương nhiều hơn yêu. Nghĩ đi nghĩ lại phải thú nhận rằng tôi chưa
bao giờ biết nói tiếng YÊU với bất cứ ai. Từ năm 1953, tôi được dịp
quen biết cô Hai và cô Tư qua gia đình của Bùi Quang Mỹ, Nguyễn Vĩnh
Bình. Bình cùng học chung với tôi từ tiểu học Gia Định đến trung học
Taberd với B.Q. Mỹ. Người chị cả của Bình là bạn của hai cô. Lúc đó
hai cô mở một trường mẫu giáo chương trình Pháp đầu tiên. Mấy năm sau, 1957-58, hai cô có dịp nhờ tôi vẽ
vài tấm hình trang trí các lớp học. Năm 1953, tôi mới 16 tuổi đã bị
một “cú sét xuyên tâm liên” ngất ngư gần chết. May hồn là hai năm sau
gia đình tôi rời Bà Chiểu trở về quê ở xã Hiệp Bình, quận Thủ Đức,
giúp tôi tránh xa đường dây “haute tension” để từ từ tỉnh hồn lại,
rồi mấy năm sau, hoàn toàn thoát nạn khi cùng sáu Quới đàn hát giúp
vui đám cưới của cô nàng. Bạn có thể tưởng
tượng được tiếng đàn vĩ cầm của tôi trong bửa tiệc cưới đó nó
réo rắc, ai oán... như thế nào ! Đến Sáu Quới cũng rất
ngạc nhiên thú nhận rằng chưa bao giờ nghe tôi chơi “xuất thần” như
vậy, đặc biệt là bản Nắng Chiều. Khi tôi dứt tiếng đàn, mọi người
ngoài sàn nhảy đều quay về phía tôi vổ tay tán thưởng. Đâu ai hiểu
rằng có một kỷ niệm dính liền tôi với bản nhạc đó. Mùa hè năm
1955, cả bọn lại cùng đi nghỉ chung như mấy năm trước; một buổi trưa
mọi người đều rủ nhau đi dạo ngoài đồi trà, cô nàng đau chân - hay
giả bộ - nên ngồi nhà, tôi vì chột bụng nên đi sau. Khi ngang qua phòng
khách chợt thấy nàng ngồi đó, tôi khựng lại hỏi sao không đi với
thiên hạ. Cô nàng không nói năng chi chỉ nhìn tôi khe khẻ hát một câu
trong “Nắng Chiều”: Gợn buồn nhìn anh em nói ứ..ư... Cô
nàng không hát hết câu mà chỉ ứ ư, nhưng tôi đà ứ hự, tâm trí lộn
tầm phèo. Trong lồng ngực tim đập rầm rầm như trống thúc quân, may là
tôi không thuộc loại “hiếu chiến” bằng không đã sanh giặc. Cốt khá
cứng đầu nên tôi cũng không bổ nhào đến như cọp đói vồ mồi...Nhưng
cả đời, tôi chẳng làm sao dứt bỏ được câu hát đó ra khỏi tâm trí ! Khi tôi đàn bản nhạc nầy trong tiệc cưới, tay
ôm cây vĩ cầm mà cứ ngở là đang ôm ai kia; mọi người quanh tôi trong
khoảnh khắc đó đều như tan biến. Thấy tôi đâm chiêu, Sáu Quới thường
đến bên tôi nhẹ vổ vai nhìn tôi mỉm cười, im lặng, thông cảm. Chú rể,
cô dâu với bọn tôi đều là bạn rất thân, gần như anh em một nhà. Tuy
vậy chú rể vẫn có vẻ e ngại một “tai nạn” giữa tiệc cưới. Nhưng
tính tôi đâu dễ “bún thiu” như vậy. Sau giây phút xuất thần, xúc động,
tôi vẫn vui vẻ pha trò như thường lệ. Tình trong giông bảo, mặt ngoài
êm re. Cô dâu rót nước đến mời tôi “cụng ly”; tôi hiểu ngay là cô nàng
cũng xúc động vì tiếng đàn, vì bản nhạc, muốn giáp mặt tôi trong
chốc lát; tất cả những gì nàng muốn nói đều tràn ngập trong ánh
mắt, trong nụ cười gượng, trong từng cử chỉ. Giây phút đó, hình ảnh
đó cùng những kỷ niệm kia như mới ngày hôm qua khó mà phai mờ trong
tôi.
Giây phút
ban đầu lưu luyến ấy. Nghìn năm chưa dễ đã ai quên
Hôm nay nàng đã ra người
thiên cổ, nhưng vẫn sống trong tôi. Tôi vẫn cố giữ bao nhiêu hình ảnh,
kỷ niệm gần nhau trong những lần cùng đi du ngoạn với toàn bộ bạn
bè. Từ đó tôi thông cảm với Chateaubriand khi ông lo sợ đánh mất những
kỷ niệm :
Rompre avec
les choses réelles, ce n’est rien. Mais avec les souvenirs !...le coeur
se brise à la séparation des songes.
Sau lần thử thách hết sức
cam go đó, tôi quay về chú tâm vào đèn sách. Nhờ vậy nên tôi tạm yên
về mặt tình cảm ở tuổi đôi mươi. Chỉ tạm yên thôi vì ở tuổi đó
thật khó kiểm soát được nhịp con tim. Lại nhớ Apollinaire với câu thơ
:
Et toi mon
coeur pourquoi bats-tu...
Gần gủi
với cô Hai, cô Tư thường hơn trước
nên dần dà tôi nhận ra hoàn cảnh của cô Tư : không nhan sắc, không bằng
cấp cao, không nghề nghiệp, không tài sản, không cả bản lảnh để có
thể lao vào cuộc sống đầy rủi ro, cạm bẩy khi cha mẹ khuất núi, cô
chỉ một thân một mình...Với một người hiền thục, nhúc nhát thì
tương lai quả là nhiều rủi ro, khổ ải hơn may mắn. Không hiểu sao tôi
vẫn cứ loay quay suy nghĩ về viễn ảnh cuộc đời của cô Tư; rồi sinh ra
lo lắng cho cô. Đúng là khi đó tôi ăn cơm nhà lo chuyện bao đồng.
Khi bước
chân vào đại học tôi đứng trước bao nhiêu là khó khăn, từ nơi ăn chốn
ở cho đến vấn đề tài chánh, phải giải quyết để có thể tiếp tục
học hành. Tôi bớt nghĩ đến chuyện của cô Tư cho đến lúc mọi việc
được tạm ổn định khi sáu Quới rủ tôi ghi tên thi vào trường Quân Y.
Giờ thì chỉ còn lo học, không lo sinh kế nữa, tôi lại quay về lo
chuyện của cô Tư. Thật quái lạ, không hề nghĩ gì đến ai khác, tôi như
“bị độc quyền” nghĩ về cô Tư. Cuối cùng tôi mới nhận ra mình đã
thật sự thương yêu cô Tư. Tôi biết chắc được lòng mình vì khi tôi
tưởng tượng cảnh cô Tư cô đơn, lạc lỏng giữa dòng đời... tự nhiên tôi
thấy không làm sao yên tâm được. Và tôi cũng nghiệm ra rằng nếu cô Tư
rơi vào hoản cảnh đó thì dù tôi có thành công gì gì đi chăng nữa tôi
cũng sẽ không bao giờ sống vui. Bản tính (trời sanh ?) của tôi có hơi khác
thường tình : người có nhan sắc ít lôi kéo được tôi, trái lại người
hiền thục luôn thu hút tôi rất mạnh. Đến năm 1965, tôi thật sự đề
nghị với cô Tư “Mình làm đám cưới”. Sự đường đột của tôi làm cho cô
giựt mình, kinh ngạc nhưng không giấu được sự xúc động và nét vui
mừng. Trước đó chưa bao giờ tôi có một tiếng, một lời nào gọi là
để tỏ tình, rồi bỗng đột nhiên đề nghị cưới hỏi...Có thể nói là
tôi không giống ai, “cà chớn” chưa từng thấy. Ấy vậy mà được việc.
Đám cưới
của chúng tôi thật đơn sơ, không trống không kèn, không tiệc tùng đình
đám tuy cũng có đủ các nghi lễ từ đám hỏi đến rước dâu...Kể từ năm
đó, ngoài việc học mấy năm chót, tôi chú tâm vào việc xây dựng một
gia đình êm ấm như tôi từng mong muốn, tạo cho cô Tư một đời sống an
lành, yên vui...của một người vợ, người mẹ bình thường trong đời
sống của một gia đình thuận thảo. Suốt gần sáu mươi năm qua có thể
nói tôi đã thành công trong ý nguyện. Mừng cho cô Tư và vui cho tôi.
Nhìn lại đoạn đường đã qua tôi giựt mình : thì ra nhờ thiện ý giúp
cô Tư mà tôi đã được “đền đáp” qua việc thoát khỏi án tử hình
năm 1977, như lời ông bà hay nhắc
nhở : ở hiền gặp lành. Có thật vậy chăng? Hay cũng chỉ là một sự
tình cờ ?..Có một điều chắc chắn là nếu bã xã tôi là ai khác thì
tôi đã bỏ xác nơi rừng hoang dưới chân núi Bà Đen. Vụ việc nầy không
có trong lá số của tôi nên thầy tử vi đã không nhìn thấy.
Cuối
đường mệt mỏi nhìn lại cũng thấy vui vui, tự mãn : suốt những năm
chung sống chưa một lần giận nhau, bao giờ cũng vui vẻ, lễ độ, trọng
nể, quí mến nhau; chỉ có nụ cười chớ không khi nào có một giọt
nước mắt. Đến cả giây phút cuối khi ngọn đèn đã cạn dầu sắp tắt
mà nụ cười vẫn còn bàng bạc trên đôi môi đà héo hắt. Khi đôi mi cô Tư
từ từ khép lại, nụ cười tuy phai nhạt
đó vẫn chưa mất hẳn trong mắt tôi. Một lần ra đi khá hi hữu, thật khó quên.
Biệt ly
nhớ nhung từ đây...
Biệt ly có bao giờ vui, nhưng
tôi rất mừng vì đã làm tròn tâm nguyện : nếu không giúp ích gì được
nước tôi, ít ra tôi cũng đã giúp đợc nhà tôi xây dựng một đời thật
đáng sống. Đó cũng chính là niềm hảnh diện, nguồn vui lớn của tôi.
Tôi đến Pháp một ngày cuối tháng 5; 38 năm sau cô Tư ra đi cũng một
ngày cuối tháng 5.
Từ nay, tôi lo tránh xa Covid
và làm quen dần với cô đơn. Từ một nơi xa xăm nào đó trong ký ức,
mấy câu thơ trong bài học thuộc lòng thời trẻ thơ ở trường tiểu học
Gia Định -1949 – bổng đâu hiện về như đúng lúc. Thuở ấy tôi học như
két chứ có hiểu gì đâu :
Thu đi trên những cành bàng
Hôm qua đã
rụng một rồi,
Lá theo
gió cuốn ra ngoài song thưa...
Đông
Vân
Nguyễn văn Dõng
No comments:
Post a Comment