Cứ mỗi lần ngồi vào
máy computer muốn viết lại vài mẩu chuyện đời lính của mình là một lần cho trí
nhớ chạy lang bang, chạy tung tăng trên những chiến trường khắp vòm trời Miền
Nam Nước Việt. Những ngày tháng xa xưa đó như một cuộn phim hấp dẫn, rất dài,
quay rất chậm rãi... khiến đầu óc lụ mụ với bao nỗi nhớ niềm thương. Đôi khi
nước mắt trào dâng khi tưởng tượng những khuôn mặt bạn bè thân thương đã nằm
xuống, đã ra đi với bao nỗi ngậm ngùi.
Đã 50 năm qua mà tâm hồn tôi vẫn cứ vật vờ, vất vưởng như thế. Thời quân ngũ của tôi chẳng thấm thía gì so với 50 năm thăng trầm xa xứ; thế nhưng nó cứ sống thênh thang, sống bền bỉ và gặm nhấm hồn tôi ở trong buổi xế chiều. Vâng, chưa tròn 7 năm quân ngũ, đúng một phần ba chiều dài của cuộc chiến tranh tự vệ của quân dân Miền Nam..nhưng thương quá là thương!
******
Không ai không biết là
tình thế càng lúc càng xấu đi; địch quân đã tiến về sát vòng đai Saigon. Thời
gian vài tuần trở lại đã có một số anh em xầm xì chuyện di tản chiến thuật...
nào là tử thủ Vùng 4, nào là Côn Sơn, nào là Phú Quốc, nào là Thái Lan, Bangkok...
làm tôi bật cười! Vâng, chỉ xầm xì như chuyện bình thường rồi việc ai người đó
lo, hồn ai người ấy giữ trong khi đó các cấp chỉ huy hoàn toàn không nói gì đến
tình thế hiện tại. Họ vẫn tỉnh bơ điều động công việc bình thường như mọi ngày.
Mọi người vẫn đi bay, vẫn cấm trại, vẫn điếu đóm với an ninh phi trường để chạy
ra chạy vào giữa cảnh Saigon xôn xao, lo lắng chiến tranh tràn về thành phố.
Trưa 27 tháng 4 năm
1975, tôi còn ngồi ăn ở quán Huế (bán toàn đồ ăn xứ Huế) nằm trên đường Phan
Thanh Giản. Quán này của gia đình Thu Dung, một cô bạn cùng hát hò trong Ca
Đoàn Hương Xưa mà tôi có cảm tình đặc biệt. Nhân lúc Thu Dung tới ngồi chơi với
tôi một lúc, tôi thật sự chỉ nói đùa với Thu Dung nhưng lại với giọng điệu
nghiêm chỉnh: “
- Tình hình đen tối
quá, em có muốn đi tỵ nạn với anh không?”
- Em là chị cả trong
gia đình làm sao em có thể ra đi một mình được?
Và đó là câu nói đùa
cuối cùng của tôi còn tồn đọng trong tâm tư từ ấy đến nay. Nếu tôi thật sự có ý
định ra đi, chắc chắn Thu Dung không phải là ưu tiên đầu tiên mà là người vợ
sắp cưới đang ở không xa dưới phố. Dù vậy, tôi cũng ghé đón chú em thứ Tám đang
trọ học ngoài phố vào cư xá SQ độc thân ở cổng Phi Long, vì nghĩ rằng có hai
anh em ở Saigon nên sống chết cần có nhau, vì chúng tôi đã mất liên lạc với đại
gia đình từ trước khi đi biệt phái Đà Nẵng và rồi theo Biệt Đội xính vính rời
khỏi vùng hỏa tuyến địa đầu trưa ngày 27 tháng 3 năm 1975 để về lại Saigon.
Trưa 28/4, được tin từ
một người thân quen ngoài phố, chú em trai thứ Bảy của tôi ở Bình Tuy chạy về
tới Saigon bằng đường biển. Tôi vô cùng vui mừng, cấp tốc chạy ra đưa chú vào
trại nhờ sự quen biết với an ninh và phòng thủ phi trường. (Tôi quen biết với
họ qua Học Viện Võ Thuật Thần Phong, hoặc qua những lần tranh giải bóng chuyền
hàng năm giữa các đội tuyển Không Quân, mà đội tuyển KĐ53CT bao giờ cũng giành chiến thắng sau cùng vào những năm cuối
cùng của KQVNCH.) Trong khi đó, Đặng Phước bạn chí thân bay trực thăng ở Đà
Nẵng di tản về Saigon ở tạm với tôi vài tuần lễ để đợi lệnh đi Cần Thơ, lại hộc
tốc chạy ra phố chiều hôm trước để tìm kiếm vợ khi nghe tin nàng ở Đà Lạt chạy
về, cái quyết định này được trả giá cho nhiều năm tù đày, vài lần vượt trại,
chục lần vượt biển cho tới hơn 10 năm sau mới chạy thoát được thiên đường mù
Cộng sản, hội ngộ với tôi ở bến bờ tự do! Sau khi ăn trưa với hai chú em, mua
ít đồ đạc cần dùng ở khu gia binh, đưa hai chú về phòng dặn dò: “Chỉ ở yên
trong phòng dù bất cứ biến cố gì.” Tôi tất tả vào phi đoàn điểm danh và ứng
trực để chờ phi vụ hành quân.
Đêm 28 tháng 4, năm 1975. Tôi vẫn bình thản nhận phi vụ hành quân như mọi lần. Tôi được cắt bay phi vụ Tinh Long 2 từ 8g tối đến 10g đêm. Tôi nhớ như in cảm giác hồi hộp tột độ đêm hôm đó. Mỗi lần nhớ đến lại rùng mình. Cất cánh bay về hướng Lộc Ninh nhưng vừa qua Thủ Dầu Một không bao xa, chúng tôi đã nằm trên vùng trách nhiệm. Điều đó có nghĩa là chiến trường không còn xa thành phố bao nhiêu. Tôi nói “bình thản” vì không có chọn lựa nào khác và không tin Saigon có thể thất thủ nhanh chóng hơn Nam Vang được. Với đầu óc vô tư của tôi lúc đó, tôi vững tin vào tinh thần chiến đấu dũng cảm của quân đội Miền Nam sau hơn 7 năm dài làm lính. Những chiến công hiển hách, lẫy lừng của quân đội Miền Nam, ngoài sức tưởng tượng của thế giới tự do cũng như cộng sản qua hai trận đánh long trời lở đất trong dịp Tết Mậu Thân và Mùa Hè Đỏ Lửa, cho tôi niềm kiêu hãnh và tin tưởng.
Chúng tôi bay ở cao độ
10 ngàn bộ trên đường tới vùng trách nhiệm. Vừa tới “đầu ngõ”, địch quân đã dàn
chào chúng tôi bằng đủ loại phòng không, thắp sáng rực trời như màn pháo bông ở
lúc cuối cùng của cuộc lễ mừng Độc Lập ở Hoa Kỳ mỗi năm. Hai mươi con mắt mở
banh để canh chừng “đóm lửa xanh SA7”. Dưới mặt đất từng đoàn xe vận tải đủ
loại của địch quân, nối dài vô tận, mở đèn sáng choang một cách tự tin, nối
đuôi nhau chạy về hướng Saigon. Có vài lần anh Trưởng Phi Cơ hỏi ý kiến anh em
có chuẩn bị tinh thần để xung trận hay không. Dường như không có một ai trong 9
người còn lại trên tàu có chút ngần ngại nào khi trả lời YES! Ai cũng đang căng
thẳng, hồi hộp tột bực; cái chết dù có lởn vởn trong đầu mọi người nhưng không
còn có sự chọn lựa nào khác tốt hơn là khai hỏa. Tuy nhiên, cứ mỗi lần nhào
xuống nhập trận là phòng không cứ như đan lưới, sáng rực trời lại phải vã mồ
hôi bay lên cao khỏi tầm phòng không. Phải rất dè dặt sử dụng trái sáng MK24
chống SA7 nhưng cũng đã bắn ra hơn chục lần! Ôi! Không có nỗi khó chịu, hồi hộp
nào bằng khi lâm trận mình chưa bắn được viên nào còn địch quân cứ bắn xối xả
như mưa! Kinh nghiệm bao nhiêu lần đánh trận, chỉ khi nào mình khai hỏa thì lúc
đó mới hết hồi hộp. Nhưng cả 2 tiếng đồng hồ trên vùng, 4 khẩu đại bác minigun
6 nòng và 2 con gà cồ đại pháo 20 ly 6 nòng hôm nay hoàn toàn im tiếng. Chúng
tôi không có lấy một cơ hội để khai hỏa vì không thể bay lọt qua được màn lưới
phòng không. Ai cũng hiểu đạn minigun không ăn nhằm gì ở cao độ quá 5 ngàn bộ
và đại pháo cũng chẳng ăn nhập gì nếu trên 6 ngàn bộ. Tự nhiên tôi có cái mơ
ước lạ lùng, “Phải chi mình có đầy đủ đạn dược thì cũng bắn xả láng hù dọa địch
quân và để cho mọi người bớt hồi hộp.” Chúng tôi rời vùng trong nỗi uất hận sau
khi bàn giao vùng trách nhiệm cho Tinh Long 3.
Sau khi hoàn tất nhiệm
vụ tôi hối hả chạy về cư xá. Chỉ hơn vài tiếng sau, đạn pháo kích của địch quân
bắt đầu ầm vang khắp căn cứ. Vừa tờ mờ sáng, tôi dè dặt ra khỏi phòng để quan
sát chung quanh... vì trong trận pháo kích lúc hừng sáng dường như chúng tôi
nghe tiếng rú chói tai của một trái đạn pháo rớt xuống sát bên ngoài tường...
mà đợi đến thót tim nhưng mãi không nghe tiếng nổ!!! Tôi “rụng rời” khi thấy
một phần nhỏ chui đạn 122 ly còn nhô trên mặt đất! Như thế có nghĩa là số phận
chúng tôi chưa đoạn tuyệt. Nhìn chung quanh, tất cả đều vắng lặng; phía bên kia
đường, đối diện cư xá là trại huấn luyện binh sĩ KQ; thường ngày ra vào nhộn
nhịp giờ đã vắng lặng khác thường. Tôi đảo qua một vòng thu nhặt những súng
ống, đạn dược vất bừa bãi đem về phòng với ý nghĩ thừa sức cho ba anh em chiến
đấu tới cùng. Xong tôi lấy xe chạy lên khu gia binh, đến ngay tiệm tạp hóa của
Tr/S Ngọn (một nhân viên phi hành vừa bay tối qua với tôi)
mua thêm nhiều gạo và nước mắm. Mặc dù dọc đường thấy người người ngược xuôi
xuôi ngược như tìm kiếm một cái gì; thỉnh thoảng tiếng pháo kích vẫn ầm vang
đây đó nhưng tôi vẫn không hề nghĩ tới là phải tìm phương tiện ra đi. Về tới
nơi thấy hai chú em lo lắng hỏi tôi tính sao? Tôi thản nhiên nói rằng: “Anh em
mình có đủ thực phẩm và súng đạn để tử chiến.” Hai chú nhỏ lần đầu tiên trong
đời được rờ tới súng đạn nên có vẻ an tâm.
Bỗng nhiên tôi chợt
nghĩ tới bạn bè các phòng bên cạnh; tôi đi gõ cửa từng phòng nhưng hoàn toàn
vắng tanh. Trước cửa phòng của Nguyễn Đồng Khuyến (bạn cùng khóa C130) có nồi
cơm và nồi thức ăn còn nguyên vẹn nhưng cửa khóa, then cài. Tôi mang về phòng nhưng
lòng tôi nôn nóng kỳ lạ, vô cùng bất an. Tôi bảo hai chú nhỏ ăn cơm trước, ở kỹ
trong phòng, tôi lấy xe chạy vào phi đoàn để xem sự thể ra sao. Chạy ngang qua
khu cư xá của nữ quân nhân KQ thấy rộn rịp xe cứu thương, cứu hỏa. Tôi chạy một
mạch vào phi đoàn... ôi cảnh tượng hoang tàn, vài quân nhân đang ngược xuôi,
dớn dác không ai có cơ hội chào hỏi ai như thường lệ. Tôi chạy vụt về cư xá bốc
hai chú em đèo nhau trên chiếc Lambrettite của tôi chạy ra khu đậu Tinh Long
tìm kiếm,may mắn gặp một chú Phi Đạo Tinh Long hướng dẫn tôi cùng đi tìm máy
bay với câu nói:
- Tìm được máy bay ông
thầy cho em đi với nghe.
- Dĩ nhiên rồi!
Những nơi chú Phi Đạo
hướng dẫn tới đều đã không còn máy bay. Hai xe bốn người chạy tiếp tục tìm hết
bãi đậu này sang bãi đậu khác dưới những tiếng hú của đạn pháo kích của địch
rót vào phi trường và kẻ chạy đông người chạy tây trong vô vọng... Cuối cùng
tìm được chiếc Tinh Long ở ngay sát Trạm Hàng Không Quân Sự còn khả dụng, mũi
tàu đang hướng ra ngoài. Chú em Phi Đạo leo lên cánh cho biết 2 bình xăng đầy
và cho biết chỉ một số đồng hồ không quan trọng hư hỏng mà thôi. Sau khi xem
tình trạng chung bên ngoài, tất cả đều tốt. Tôi vào phòng lái quay máy... mừng
quá, máy nổ ngon lành, một số đồng hồ không quan trọng lắm bị malfunction (kim
nằm ở vệt đỏ). Tôi quyết định ra đi. Thò đầu ra cửa sổ phòng lái gọi chú Phi
Đạo và hai chú em nhưng không thấy đâu. Tôi hoảng hốt tắt máy nhảy xuống đất,
thấy chú Phi Đạo ngồi trên chiếc xe hơi màu trắng, mui trần đang nổ máy! Chú
nói với tôi rằng: - Thôi anh em ông thầy đi trước, em lấy xe chạy về nhà rước
gia đình rồi tìm cách đi sau.
Xong chạy biến ra phía
cổng! Tôi nghĩ chú ấy vừa lượm được chiếc xe này của ai đó đã bỏ lại nên muốn
dùng làm phương tiện về đưa nhiều người thân cùng đi. Nhưng tình hình này nếu
chú ấy ra khỏi cổng thì kể như không còn cơ hội ra đi được nữa; có lẽ tôi đang
ngẩn ngơ, hốt hoảng nên cũng chẳng nói được lời nào! Hơn nữa, tôi lại đang lo
lắng tìm kiếm hai chú em. Vừa lúc đó thấy vài người bạn chung phi đoàn xuất
hiện bất ngờ, nhảy lên tàu quay máy, taxi ra khỏi bến đậu! Tôi kinh hoàng đứng
ngay trước mũi tàu cố khoa tay cản tàu lại nhưng con tàu vẫn phom phom chạy tới
làm tôi phải nhanh chân nhảy ra chỗ an toàn. Con tàu vẫn tiếp tục đi về phía
phi đạo. Tôi vô cùng tức giận và thất vọng nhưng kịp suy nghĩ lại: “Ở lằn ranh
sinh tử,con người ta thường hành động theo quán tính là chuyện tất nhiên.” Nghĩ
vậy nên sự tức giận cũng lắng xuống bớt nhiều phần. Đang đứng lớ ngớ với nỗi
lòng tức bực 2 chú nhỏ thì thấy 2 chú em đang chạy về phía tôi! Tôi hét lên:
- Tại sao bỏ đi đâu
vậy?
Chú lớn bình tĩnh nói:
- Tụi em xin lỗi anh
Bốn, 2 đứa em không muốn đi, tính chạy về Bình Tuy tìm Ba Mẹ và anh chị em
nhưng ra cổng không được, đầy nghẹt người là người, la ó phản đối om sòm nhưng
Quân Cảnh bắn chỉ thiên rất gắt, rồi bắn cả xuống đất làm mọi người hoảng sợ lui
vào. Nghe nó nói tôi chợt nhớ tới Ba Mẹ và các em... muốn khóc! Chưa biết hành
xử ra sao thì nghe thấy anh Phan Vũ Điện chạy xe pick up của KQ ngang qua vẫy
gọi:
- Thuận, chạy theo anh
nè, anh đang cần copilot!
3 anh em vọt chạy
theo. Lúc này pháo kích đã rất thưa. Chạy tới phía bắc của phi đạo gần khu Hàng
Không Việt Nam, 3 anh em vọt ngay lên tàu cùng lúc với một số đông người ùa tới
chen lấn nhau nhảy lên. Tôi và anh Điện làm việc theo quán tính như một chiếc
máy... Tàu không hoàn hảo nhưng anh Điện nói có tay trong nói an toàn. Chúng
tôi đưa tàu rời khỏi bến đậu hướng thẳng ra phi đạo cất cánh. Đường băng lổ chổ
vì đạn pháo kích của địch quân, vừa chạy vừa tránh; tống hết ga cố tăng tốc độ
thật nhanh để kéo tàu lên trước khi hết đường băng. Tàu rời khỏi mặt đất rung
liên hồi vì chưa đủ tốc độ cần thiết. Anh Điện tăng cao độ thật chậm và tôi
ngồi thầm cầu nguyện trong nỗi lo sợ tột cùng. Tôi nghĩ trong đầu: “Có thể
chiếc tàu bị triệt nâng bất cứ lúc nào!” Tai nghe trên tần số mọi người nói với
nhau: “Phải quẹo trái chỗ Trường Đua Phú Thọ về hướng biển để tránh phòng không
của địch quân.” Chưa quân bình được tốc độ mà còn phải quẹo gấp... chết là cái
chắc! Anh Điện với bao nhiêu kinh nghiệm trận mạc già dặn nên bình tĩnh hơn tôi
rất nhiều. Anh từ từ đưa con tàu lên cao dần về phía Côn Sơn. Tôi thở phào và
đổi tay lái cho anh Điện nghỉ xả hơi chút đỉnh trong khi con tàu vẫn chậm chạp
tăng cao độ! Đến lúc này, bình tĩnh mới thấy một buồng lái đầy người, ít nhất
3-4 ông chức sắc cùng chạy với mình trong đó có ông Hoàng Nuôi, Trung tá PĐT Tinh Long của tôi! Mỗi ông mỗi ý, ông thì muốn đi Côn Sơn, ông
muốn xuống Dương Đông Phú Quốc, ông muốn đi Bangkok, ông nói Utapao, có ông lại
muốn đáp xuống nước (ditching) sát Hạm Đội 7 của Hoa Kỳ đang chờ ngoài khơi
(?)... Cãi nhau chí chóe làm anh Điện điên đầu quát lên:
- Các ông làm ơn im
giùm, tôi là TPC của chiếc tàu này và tôi là người quyết định!
Tuy vậy vẫn không ngớt
tiếng bàn tán xôn xao dù không còn lộn xộn như trước! Cuối cùng anh Điện quyết
định đi Utapao. Tôi dò tần số để nghe ngóng tin tức của phe mình và tin tức phi
trường...
Đáp xuống Utapao không
mấy khó khăn sau hơn hai tiếng bay. Tàu vừa vào chỗ đậu được quân nhân Mỹ hướng
dẫn. Trước khi xuống tàu, chúng tôi buộc phải để lại tất cả vũ khí đạn dược
trên tàu. Có khám xét cẩn thận. Chúng tôi được hướng dẫn vào trạm và một đội
quân nhân Mỹ túa tới chiếc tàu và sơn bỏ lá cờ VNCH! Chúng tôi hoang mang và
đau buồn vô cùng nhưng cũng vừa lúc gặp lại rất đông bạn bè đã tới trước đang
ồn ào tranh cãi về gia đình,vợ con đã được đem ra Côn Sơn sáng sớm hôm nay. Bây
giờ tôi mới biết là bên các phi đoàn C130 đã cho phép một số gia đình đi trước!
Ở Thái Lan vài hôm,
khi những gia đình ở Côn Sơn tới nơi, gồm có các ông thần đã lấy máy bay của
tôi ngày hôm trước; tôi vẫn còn quạu nhưng cũng phải cười trừ vì giờ đây ai
cũng chung số phận. Chúng tôi làm thủ tục kẻ trước người sau chuyển đi trại tạm
cư Orote Point, Guam. Ở đây được khoảng tuần lễ, anh em tôi được chuyển lên căn
cứ Anderson làm thủ tục đi trại tỵ nạn Eglin AFB ở tiểu bang Florida, Hoa Kỳ.
Nhớ lại câu chuyện vui
trong chuyến bay từ căn cứ Anderson tới Eglin AFB. Chúng tôi được di chuyển
bằng loại máy bay vận tải khổng lồ C5 của Không Quân Mỹ nên chuyên chở rất đông
người tỵ nạn,đủ mọi thành phần, nhiều binh chủng, kể cả dân sự. Trên đường bay
bỗng nhiên một số người trên tàu bị chứng đau mắt cấp tính. Các nhân viên phi
hành đoàn người Mỹ thông báo trên hệ thống loa phóng thanh trang bị trong lòng
tàu:
- Chúng tôi cần một vị
Bác Sĩ giúp phân phát thuốc men và chỉ dẫn cách giữ vệ sinh để chống lây nhiễm
cho vài bệnh nhân trên tàu.
Câu hỏi được lặp đi
lặp lại vài lần nhưng vẫn chưa thấy ai lên tiếng, trong lúc tôi cần đi phòng vệ
sinh nên đứng dậy tiến về restroom phía trước. Ai ngờ một nhân viên phi hành
kéo tuột tôi lên phòng lái hỏi:
- Ông là Bác Sĩ hả?
- Tôi không phải nhưng
tôi trước có học trường y khoa vài năm.
- Vậy thì được rồi,
ông có thể giúp chúng tôi phân phát thuốc cho người đang bị đau mắt cấp tính và
chỉ dẫn cách giữ vệ sinh chung cho mọi người.
Tôi chưa kịp phản ứng
gì thì anh ta chỉ cho tôi một tủ thuốc tây, mở ra bảo tôi đọc instructions của
mấy chai thuốc nhỏ mắt rồi nói lại cho bệnh nhân biết. Họ cũng đưa cho tôi một
hộp đựng khăn dùng để cấp phát cho những người đau mắt. Tôi ú ớ không ra lời
nhưng... lỡ rồi tới luôn vì cho đến lúc này vẫn chưa có ai lên tiếng. Tôi cầm
mấy chai thuốc và xin một bình nước ấm để ngâm hết hộp khăn rồi tiến về những
người đang mắc bệnh, đưa cho mỗi người một chai thuốc và một chiếc khăn, chỉ
cách dùng theo lời chỉ dẫn in sẵn trên lọ sau khi lau mắt sạch sẽ bằng những
chiếc khăn riêng biệt. Tôi đề nghị cho nhóm người này ngồi tách biệt ra một chỗ
khác để giảm thiểu sự lây nhiễm. Một số hành khách thấy tôi loay hoay “làm Bác
Sĩ” tưởng thật nên lại xin thuốc nhức đầu. Sẵn phân phát luôn một số thuốc nhức
đầu, đau bụng cho những người có nhu cầu...
Tôi tưởng tôi cần đi
phòng vệ sinh nhưng bị lôi kéo cả tiếng đồng hồ sau mới có giờ đi được (có lẽ ú
ớ quá nên quên luôn việc cần làm). Khi tôi về lại chỗ ngồi thì ông thần bạn
thân, Phát Volley (vua đánh bóng chuyền của SĐ5KQ), ngó tôi cười ha
hả chế nhạo:
- Mầy là Bác sĩ hồi
nào sao tao không biết!
Tôi ngượng đỏ mặt
nhưng cũng cố đùa lại:
- Mầy đừng để bị bệnh
tao sẽ đè mầy ra chích vào mông nha con.
Nhập trại Eglin được
vài tuần thì hai gia đình chúng tôi gồm Phát Volley cùng vợ với một con nhỏ và
tôi với hai chú em được bà già nuôi ngườiMỹ làm giấy tờ bảo lãnh về sống cùng
gia đình bà ở San Antonio, Texas. Chúng tôi gọi bà là Mẹ nuôi vì năm xưa đi học
bay ở San Antonio tình cờ gặp và thân thiết với bà khi bà vào thăm trại khóa sinh của lũ chúng tôi. Chúng tôi vẫn giữ liên lạc bao nhiêu năm
nay, vì thế khi dừng chân ở Honolulu trên đường đi Eglin,tôi đã liên lạc với bà
xin bà bảo lãnh ra khỏi trại tỵ nạn càng sớm càng tốt. Bà vui vẻ nhận lời liền.
Bà Mẹ nuôi là góa phụ của một cựu Trung Tá phi công đã tử trận
ở chiến tranh Triều Tiên năm xưa.
Thứ Bảy, ngày 26 tháng 5, năm 1975 lũ chúng tôi xuất trại bằng phương tiện hàng không dân sự. Ngày Chủ Nhật, 6 người chúng tôi được bà già đưa đi nhà thờ. Ngày thứ Hai tiếp theo, tôi và Phát đi làm thợ vịn bán thời gian cho một ông hội viên nhà thờ chuyên môn sửa chữa nhà cửa... Và kể từ hôm đó, chúng tôi bắt đầu tự lực cánh sinh, nếm thừa mứa mùi nhục vinh của đời sống tỵ nạn tha hương.
**********
Ghi chú thêm:
1/ Phi Đoàn Tinh Long
821 có gần 300 nhân viên phi hành, bay loại Stinger AC119K là loại vận tải tác
chiến tối tân nhất củaKQVNCH thời bấy giờ.Chuyên môn yểm trợ chiến trường ban
đêm khắp 4 Vùng Chiến Thuật. Ngoài tổng hành dinh của phiđoàn nằm tại Không
Đoàn 53 Chiến Thuật, thuộc Sư Đoàn 5 KQ, căn cứ Tân Sơn Nhứt còn có 2 Biệt Đội, một ở Phù Cát, một ở Đà Nẵng. Biệt Đội luân chuyển mỗi 2 tuần tới một tháng tùy theo nhu cầu chiến trường. Giờ hoạt động của Tinh
Long từ 6g chiều tới 6g sáng, gồm 6 phi vụ chính, mỗi phi vụ bao vùng ít nhất 2
tiếng đồng hồ và 2 phi vụ ứng chiến.
2/ Vài nét về phi cơ
AC119K Stinger:
Rất hữu hiệu trong
chiến trường chống biển người, chống đoàn xe tăng. Hai động cơ hiệu Wright
R-3350s với 3,500 mã lực mỗi máy. Và hai ống phản lực hiệu General Electric
J85-GE-17 với lực đẩy 2850 lbs. mỗi chiếc. Hỏa lực trang bị gồm 4 khẩu đại liên
6 nòng, MXU-470/A 7.62 mm “miniguns”, với 21,500 viên đạn cho mỗi khẩu, và 2
khẩu đại pháo 20 mm, M61-A1, 6 nòng với 3,000 viên đạn mỗi khẩu. Tất cả được
điều khiển bằng hệ thống điện tử tinh vi.
Nó cũng được trang bị
24 trái sáng hiệu MK 24 để chống hỏa tiễn tầm nhiệt và ống phóng hiệu LAU-74/A.
Phi công có thể cho khai hỏa hoàn toàn tự động, bán tự động hoặc tự điều khiển.
Chiếc Stinger cũng có một hệ thống radar hồng ngoại tuyến tối tân gồm các máy
APQ-136, AAD-4 (FLIR), và hệ thống điện tử báo động APR-25/26 (ECM). Phi hành
đoàn tiêu chuẩn có 10 nhân viên, gồm 5 Sĩ Quan (pilot, copilot, navigator,
night observation sight (NOS) operator, radar/FLIR operator), và 5 HSQ (một cơ khí phi hành, một nhân viên trái sáng
và 3 nhân viên vũ khí). Stinger có tốc độ chiến đấu 180 knots/g; thời gian bay
khoảng 5 tiếng cộng thêm 30 phút dự trữ). Khả năng của Stinger rất hữu hiệu ở
độ cao từ 3.500 – 5.500 ft trên mặt đất (AGL).
Stinger có rất nhiều
ưu điểm nhưng có một khuyết điểm quá lớn là to xác và chậm chạp, dễ làm mồi cho
cao xạ, phòng không, và hỏa tiễn tầm nhiệt của địch quân. Chúng tôi thường gọi
đùa Stinger là “quan tài bay”! Các loại chiến đấu cơ nhanh như chớp còn bị dính
chấu huống gì 180 knots/giờ... nhưng thực sự có ai bao giờ bay tới tốc độ đó ở
chiến trận đâu!
Yên Sơn
19/2/2025
No comments:
Post a Comment