Cuối nắm 1979 từ trại Lào kay tôi bị chuyển về trại tù Tân Lập
thuộc tỉnh Vĩnh Phú. Ở đây người ta xếp tôi vào đội Lâm sản,
là một đội tù chuyên đi rừng lấy củi về đốt , lấy gổ về cất nhà vân vân…
Thực sự khí hậu ở Vĩnh Phú thuộc miền trung du dễ chiu hơn ở Lào Kay,vả lại
được ra ngoài lao động, tuy có cực nhọc nhưng đỡ khổ hơn cảnh bị kiên giam Lào
Kay.
Những tháng ngày dài ở đây, làm lụng trong chốn rừng sâu, nhìn cảnh trí núi đồi
nương rẫy , nghe tiếng chim hót , gió hú , lời nỉ non róc rách của sông
suối vây quanh: tôi đã thưởng ngoạn dược vẻ đẹp của thiên nhiên, dù đang lao
lung trong cảnh đời tù tội. Ở đây tôi cũng gặp được những người dân hiền lành
chất phát, nhưng gian khổ suốt đời!
Ngày ngày ba mươi anh em chúng tôi trong đội lâm sản xuất trại từ 7giờ
sáng và phải di xa trại ngót 10 cây số .Chúng tôi chia ra từng nhóm 3,4 người
vào tận rừng sâu đề hạ cây đản gỗ , vác củi đưa xuống đường mòn thấp , tiện cho
xe trâu chở về trại.Chúng tôi phải đi qua những bản làng có những địa danh như:
Khe Nai, Suối Cạn, Đập Phay Thừa, Lâm trường Mở, A mai, càng ngày chúng tôi
càng quen thuộc, biết rõ từng bờ khoảnh , góc suối…cả những ngôi nhà trên bờ dốc
cheo leo!
Đối lại, qua thời gian, dân địa phương không còn xa lạ với chúng tôi, không e ngại như nhừng ngày đầu đoàn tù mới tới trại Tân Lập! Chỉ qua vài câu chuyện trong khoành khắc, chúng tôi biết người dân ở đây đã hiểu và dành cho chúng tôi nhiều cảm tình. Một lần tôi đang đốn củi gặp một ông già lên đồi đốn nứa, qua câu chuyện cụ cho biết: trước khi đưa tù về đây, dân chúng quanh trại được cán bộ sinh hoạt, khẳng định rằng những người tù sắp đến đây là bọn”ác ôn” cần cô lập lâu dài. Ai bắt được một tù trốn trại sẽ được nhà nước miễn thuế cho một năm
Tiếp theo tôi hỏi: bây giờ cụ thấy chúng cháu như thế nào?
- Mấy anh làm gỗ quanh đây tôi quen mặt. biết cả tên nữa . anh nào cũng đứng
đắn, lễ phép. Ba bốn năm rồi tôi chưa nghe ai than phiền các anh. Trái
lại lúc trước trại nay nhốt tù hình sự, chúng phá dữ lắm… đủ thứ chuyện!
Nhiều lần tôi và anh Dong đánh xe trâu đi gom củi, gặp các chị đi chợ Amai về,
đường sình lầy gánh gồng quá nặng nề, lúc xe trống chúng tôi cho họ quá giang,
thật ra việc nầy là phạm nội quy của.trại chúng tôi làm liều du di đó thôi!
Ngồi trên xe các chị nói chuyện huyên thiên, họ thích nghe chuyện miền Nam. Họ nói về cuộc sống gian lao mà họ cam chịu.Tôi không hề nghe họ ca tụng chế dộ, hóa ra chỉ có” các thầy cán bộ “ là “vẹt” thôi! Những con người đối diện với chúng tôi lúc đó, đang nghĩ cái gì khác, không phải là các thần tượng ,không phải là sự dối trá. Họ là những con người đau khổ nhưng không tuyệt vọng, niềm hi vọng hiển hiện trên nét môi cười.Thật ra con người sống phải còn niềm hi vọng. có khi phải tản lờ cái hiện tại nghiệt ngã, cứ như ngồi trên thuyền , để thuyền trôi về phía trướ
Sống trong cảnh tù tội, chúng tôi đã tảng lờ và chấp nhận, chọn cho mình sự bình thản, nhìn dòng đời trôi như dòng nước!
Thường ngày đốn củi xong, tôi ngồi trên bờ suối, nhìn lên đồi hoa sim nở tím, đàn
bướm đủ màu bay lượn nhởn nhơ, nghe chim hót líu lo hòa cùng tiếng suối róc
rách. Tất cả màu sắc âm thanh đó tôi say sưa thưởng ngoạn, say đắm tột cùng nét
đẹp của thiên nhiên. Có lần nhìn một cây cồ thụ đổ ngã mục nát nhưng ở gần gốc
có những chồi non, cây nhỏ rất khỏe vươn lên, tôi nghĩ những chồi những cây nhỏ
này qua thời gian có thể thành cây cổ thụ. Cảnh nhỏ nhoi trong chốn rừng sâu đó
cho thấy một quy trình sinh tử, một cuộc phế hưng , một lẽ vô thường. khẳng
định trong lòng tôi rằng cái chế độ bất nhân được rêu rao là ưu việt cũng sẽ
tàn rụi đó thôi! Cuộc đời tù tội rồi có ngày cũng vươn lên!
Trong cơ may hạn hữu tại vùng dất lưu đày nầy, tôi được nghe tâm sự một
vài người, cụ thể là Bác Châm. Năm 1954 ông là nhân viên quan thuế ở Hải
Phòng , không kịp di cư vào Nam . Đến năm 1955 ông bị đày đi vùng kinh tế mơi
định cư tại vùng đất khổ Khe Nai ( Vĩnh Phú). Gia đình lên đây 4 người , ông bà
hai con, một trai một gái. Lên đây chẳng bao lâu vợ và đứa con trai
chết vì bịnh sốt rét, ông sống với người con gái không có mùa xuân, tuổi
chừng 25 trông già đến 40 , gương mặt héo hắt không có một nụ cười !
Tôi qua lại bản làng ở đây nhiều năm dài mà không thấy mùa Tết nào, chỉ thấy những cụm đào trên đồi màu hồng nhạt buồn hiu hắt ! Có những buổi chiều rất muộn gặp vài sơn nữ, qua câu chuyện các nàng cho biết chồng đã đi Nam biền biệt, nay phải chờ trông rất buồn, còn chi mà biết Tết!
Riêng chúng tôi ở trong trại tù , mỗi lần Tết đến , nhớ về phương Nam lòng ngậm ngùi biết mấy! Bây giờ trong cảnh đời tha hương Tết về đầy nỗi nhớ thương:
Có ai trở lại mùa xuân trước
Nhớ nhặt dùm tôi những nụ cười
Của mẹ hiền của đàn em thơ dại
Của người yêu trong giấc mộng xuân tươi!
Hàn Thiên Lương
No comments:
Post a Comment