Tại kênh
Đôi thuộc quận 8 Sài Gòn có một cây cầu mang tên cầu Nhị Thiên Đường. Vượt qua
cầu là đường đi Long An. Cầu nay đã cũ, được xây từ năm 1925 lận, nhưng có nét
kiến trúc đẹp, đặc biệt là phần balcon thép và các trụ đèn rất đặc trưng chỉ có
ở cầu này. Tôi chưa bao giờ vượt qua cây cầu này nhưng vẫn thắc mắc về cái
tên. Đó là tên chính thức hay tên do dân gian đặt cho. Vì Nhị Thiên
Đường thì ai cũng biết đó là một loại dầu. Dầu sao ra cầu? Có ba giai thoại
về cái tên…lạc lõng này.
Giai thoại
thứ nhất: hồi đó nhà máy sản xuất dầu Nhị Thiên Đường ở bên phía đường Trần
Hưng Đạo trong khi phần lớn công nhân lại ngụ tại bên kia kênh
Đôi. Hàng ngày công nhân phải đi đò tới nơi làm việc. Nhận thấy sự bất
tiện này, ông chủ hãng dầu Nhị Thiên Đường cùng chính phủ bỏ tiền ra mướn nhà
thầu Vallois-Perret xây cầu cho dân, nhất là cho công nhân của hãng, qua lại
cho tiện.
Giai thoại
thứ hai : chính phủ quyết định xây cầu và vận động ông chủ Nhị Thiên
Đường góp một số tiền lớn. Bù lại, cây cầu sẽ được đặt tên là Nhị Thiên Đường.
Giai thoại
thứ ba : kinh phí xây cầu nhà nước bao trọn nhưng nhà máy của Nhị
Thiên Đường to đùng nằm ngay ở chân cầu nên lấy luôn tên này cho tiện.
Thấy cái
cầu gần trăm năm tuổi còn nằm đó nên nói chuyện cầu. Nhưng thứ tôi khoái cái tên
Nhị Thiên Đường không phải là cái cầu mà là chuyện…văn chương. Chủ nhân của
dầu Nhị Thiên Đường không quảng cáo trên báo mà chỉ phát những tờ rơi. Những
tờ rơi này cũng đặc biệt, không chỉ có quảng cáo mà còn có những bài chỉ dẫn vệ
sinh thường thức. Ông có công thuê những trí thức viết sách “ Vệ Sinh Chỉ
Nam “ bằng ba thứ tiếng Việt, Pháp và Hán rồi in dần trong các tờ quảng
cáo. Tiến hơn một bước, ông thành “nhà xuất bản” văn học. Đầu tiên
trên các tờ quảng cáo dầu Nhị Thiên Đường có in các trích đoạn Lục Vân Tiên của
Nguyễn Đình Chiểu. Sau đó, vào năm 1919, là truyện “Nghĩa Hiệp Kỳ Duyên” của
Nguyễn Chánh Sắt, một tiểu thuyết ngôn tình rất ăn khách. Rồi tiểu
thuyết “Hậu Chàng Lía” của Hồ Biểu Chánh. Tuy xuất hiện bên cạnh những quảng
cáo sặc mùi dầu nhưng đây là cách phổ biến truyện hữu hiệu nhất thời đó. Tờ
quảng cáo này được phát không tại các nhà bán thuốc, các chợ đông người tụ tập
hay cho khách qua đường. Dân chúng quá hưởng ứng nên dể có thể phát hành
sâu rộng hơn, nhà thuốc phải in với số lượng lớn và bán với giá chỉ vài cắc. Quảng
cáo này không bán ở các nhà sách mà chí bán dạo tại các bến xe và
các chợ. Độc giả là dân lao động và giới bình dân. Ngày đó chuyện
in sách khá vất vả. Thường các nhà văn không đủ khả năng in sách đàng
hoàng nên đây là cách phổ biến tác phẩm dễ dàng nhất.
Trong cuốn
“Phê Bình và Cảo Luận”, nhà phê bình Thiếu Sơn đã viết: “Lần đầu tiên tôi được
đọc cụ Hồ Biểu Chánh trong một cuốn sách quảng cáo của nhà thuốc Nhị Thiên Đường.
Tôi để ý tới tiểu thuyết của cụ rồi kiếm coi ở loại sách như những truyện Tàu
in xấu, để giá 4 cắc mà luôn bán dưới giá đó. Khi tôi gặp cụ, tôi thường khuyên
cụ soạn lại tất cả tiểu thuyết của cụ cho in lại, trình bày như loại sách của Tự
Lực Văn Đoàn, của Tao Đàn hay Tân Dân. Cụ nghe ý kiến của tôi một
cách chăm chú và có vẻ tán thành nhưng rồi lại bỏ qua cho đến nỗi tới nay muốn
đọc lại những tác phẩm của cụ cũng không biết kiếm đâu có mà đọc”.
Tại sao cụ
Hồ Biều Chánh làm lơ như vậy? Vì sách in đẹp phải bán mắc, ít phổ biến
hơn. Chính nhờ những cuốn quảng cáo in xấu, giá rẻ của Nhị Thiên Đường mà
văn chương chữ quốc ngữ bình dân đã được phổ biến rộng trong các tầng lớp dân
chúng.Trong một cuốn tự truyện, nhà văn Tô Hoài xác nhận đã đọc “Gương Vỡ Lại
Lành” và vở cải lương “Kiều Đi Thanh Minh” trong tờ quảng cáo của Nhị Thiên Đường.
Không biết đây có phải là hình thức mở đầu cho các tập truyện kiếm hiệp và truyện
đường rừng 16 trang được in hàng ngày hoặc hàng tuần mà thế hệ tôi say mê đón đọc
trong cuối thập niên 1940 và đầu thập niên 1950 chăng?
Dầu là một
dược phẩm chẳng ăn nhậu chi tới văn học nhưng tôi lại chú ý tới chi
tiết văn học nhiều hơn. Đó là thời kỳ phôi thai của văn học miền Namnước
ta. Ngộ một điều là những tác phẩm văn học ăn theo dầu Nhị Thiên Đường
nhưng chủ nhân của Nhị Thiên Đường lại là một ông Tàu chính tông. Ông họ Vi,
người Quảng Đông, có cơ sở sản xuất tại Chợ Lớn, Mã Lai, Singapore. Trụ
sở tại Chợ Lớn được đặt tại nhà số 47 Canton, sau đổi thành đường Triệu Quang
Phục. Dầu gió là vật bất ly thân của các ông già bà cả và giới bình dân ít dùng
tây dược. Chỉ với vài đồng bạc, người ta đã có một ve dầu Nhị Thiên Đường
trị bá bệnh. Một tác giả vô danh đã nhớ lại chai dầu Nhị Thiên Đường trong
một bài viết phổ biến trên mạng: “Tôi hồi nhỏ vẫn được bà thỉnh thoảng bảo ra
tiệm tạp hóa mua dầu Nhị Thiên Đường mỗi khi hết. Rất khó quên cái cảm
giác cầm về hộp giấy vuông vức, lấy chai dầu đưa cho bà, còn hộp giấy và tờ hướng
dẫn sử dụng chữ nhỏ li ti thì gỡ ra liệng vô sọt rác. Hãng sản xuất luôn
kèm tờ hướng dẫn gấp nhỏ cuộn sẵn trong khi người dùng chẳng mấy khi xem vì đều
biết rõ cách dùng từ lâu.Dầu Nhị Thiên Đường lúc đó được bà con lao động
gọi là “dầu trị bá bệnh” vì hễ khó ở là người ta lấy ra xài. Đau đầu
lấy ra thoa hai thái dương, ho thoa cổ, đau bụng thoa chỗ bao tử, cảm lạnh sổ
mũi thoa hai lỗ mũi, cần cạo gió thì thoa lưng, đau cơ đâu thoa đó. Cần
xông hơi khỏi cần kiếm lá xông chi mắc công, nhỏ vài giọt dầu vào nồi nước sôi
là xong, chẳng may trúng thực cũng cho vài giọt vào ly nước nóng uống. Thậm chí
côn trùng cắn, dị ứng cũng thoa, rồi mèo cào, gai xước, chảy máu thì dầu xài
như thuốc sát trùng hay cồn y tế. Đến mức sâu răng cũng lấy cây tăm, quấn
miếng bông gòn thấm dầu chấm vào chỗ đau nhức, thì đúng là xài dầu đã
thành...nghiện. Nhiều người miền Bắc rất ngạc nhiên khi thấy người miền
Nam, kể cả nam giới, thường hay bỏ trong túi một lọ dầu nước như mộtthứ bửu
bối phòng thân khi ra đường. Đó là thói quen dùng dầu gió rất khó bỏ một
thời”.
Dầu gió
chẳng bao giờ bị phụ bạc chẳng kể thời. Hầu như ngày nay, dù sinh sống ở hải ngoại,
trong ngăn kéo tủ hay trong ví xách tay, hộp dầu gió vẫn nằm khuất đâu
đó. Thường thì chẳng ai nhớ tới nhưng khi hữu sự mọi người đều vớ ngay
chai dầu gió. Nhiều người, nhất là thế hệ cha ông chúng tôi, ghiền dầu
gió. Khi còn ở Sài Gòn, bước chân lên xelam, xe đò hay xe lửa, ít khi
chúng ta không ngửi thấy mùi dầu. Không quen thì thấy nồng nhưng hầu như mọi
người đều thấy dễ chịu. Tại hải ngoại, nếu chúng ta thoa dầu,
lên xe buýt hay metro, thường bị mấy người ngoại quốc tránh
xa. Tuy nhiên, lục lọi trong nhà thế hệ chúng ta, nửa đời người sống trong
nước, thường vẫn thấy hộp dầu gió. Dầu Nhị Thiên Đường, thứ dầu mà chúng
ta đi trên đường phố Sài Gòn xưa thường bắt gặp trong những tấm bảng quảng cáo
la liệt khắp nơi, nay đã mất tích. Thứ dầu phổ biến ngày nay là dầu cù là.
“Cù là”,
nghe riết thành quen nhưng ít người biết nó là cái chi. Nhà văn Sơn Nam, trong
truyện ngắn “Xóm Cù Là”, mách nước cho chúng ta hiểu hai chữ quen mà lạ
này. “Xin tạm giải thích cái địa danh ấy. Dân trong xóm sống vui vẻ tập
trung tại Ngã Tư, nơi gặp gỡ tự nhiên của hai con rạch cong queo và dùng đến ba
thứ tiếng: tiếng Việt, tiếng Miên, tiếng Triều Châu.
Các vị bô
lão cho biết: xưa kia, vài người mộ đạo đã cất ngôi chùa tại Ngã Tư. Một vị tướng
nhà Nguyễn có tá túc tại chùa, dâng cho chùa một tượng Phật nhỏ mà ông đã thỉnh
tại xứ Cù Là, lúc bôn ba hải ngoại. Các vị bô lão còn nói rõ: gọi là Cồ Là mới
đúng sách vở, Cồ Là tức là xứ Miến Ðiện giáp ranh Xiêm La”. Truyện của Sơn Nam sau đó xoay quanh chuyện gia đình
nhà ông cai tổng giầu có Trần Hanh, không mắc mớ chi tới…cù là nữa. Vậy
Cù Là là tên gọi xưa kia của Miến Điện, nay là Myanmar, xứ mới có cuộc đảo
chánh của quân đội lật đổ chính phủ dân chủ của phe bà Aung San Suu Kyl.
Nói dầu
cù là không, nhiều người có thể không biết. Nhưng nói dầu cù là Mac Phsu thì ai
cũng biết ngay. Khoảng năm 1930, gia đình ông Thong Ong Zan tá túc ở Nam
Vang. Vợ ông , bà Mac Phsu là người Miến Điện. Gia đình ông
biết cách nấu dầu của hoàng gia Miến Điện nhưng ông vẫn khăn gói quả mướp
qua Singapore để học thêm cách nấu dầu. Tại đây, ông cùng một
người Singapore lai Miến Điện thọ giáo một bác sĩ người Anh tên
Basythin. Sau khi học được công thức nấu dầu của ông bác sĩ này, hai người
ngoéo tay nhau trở về xứ, sản xuất cùng một thứ dầu nhưng lấy hai tên
khác nhau. Ông Thong Ong Zan về Miến Điện chế dầu lấy tên là “dầu cù là”
và dùng màu xanh lục. Ông người Singapore đặt tên là Tiger Balm,
có hình con cọp, với màu nâu đỏ.Vậy là hai thứ dầu cù là Mac Phsu và dầu Tiger
Balm, dân ta thường gọi là “dầu cù là Con Cọp”, tuy khác màu nhưng cùng
chung một gốc. Dầu thì phải nóng khi được xức trên da. Thường
thì chất làm nóng này là chất salisylate khá độc nếu uống hay xức trong miệng
nhưng dầu cù là Mac Phsu không dùng salisylate mà chỉ dùng tinh dầu khuynh diệp
nhập về từ Bồ Đào Nha nên có thể xức vào răng đau hay uống để chữa bệnh đau bụng.
Bà Mac
Phsu là công chúa Miến Điện, con gái của Hoàng Tử Myngoon Min. Ông sống lưu
vong 32 năm tại Sài Gòn vì lý do chính trị từ cuối thế kỷ 19 sau khi có chính biến
tại hoàng gia. Ông có ba người vợ trong đó có một bà người Việt.
Dầu cù là
Mac Phsu của ông Thong Ong Zan có thêm một tá dược riêng mà ông giữ tuyệt mật,
chỉ truyền nghề cho con gái chứ không cho mấy anh con trai biết. Lý do là
vì mấy anh con trai khó giữ được bí mật với các bà vợ. Ông này tâm lý gớm.Đúng
phóc! Ông truyền nghề cho hai cô con gái là bà Ong Zanno và bà
Phonlouvemak. Bà Ong Zanno sau đó lấy chồng người Việt Nam. Hai
vợ chồng sanh được 5 cô con gái nhưng chỉ truyền nghề cho hai cô là Lê Kim Nga
và Lê Kim Phụng. Hai bà này vẫn sống độc thân tại Sài Gòn. Năm 2013, hai
bà này đã cùng nhau tái sản xuất dầu cù là Mac Phsu dưới cái tên mới là “cao
xoa con công”.
Ngày xưa,
dầu cù là Mac Phsu thường dắt một con voi đi quảng cáo. Tên con voi này là
Xà Kum. Khi voi già được giao cho sở thú Sài Gòn nuôi. Dầu khuynh diệp
Bác sĩ Tín chơi oách hơn. Ông mua một chiếc xe tải lớn, dài tới
8 thước, trên có để một chiếc xe hơi Austin. Một tấm bảng gắn
trên xe ghi rõ chiếc Austin là giải thưởng xổ số của dầu
khuynh diệp Bác sĩ Tín. Mỗi chai dầu bán ra có một con số kèm theo để
tham dự. Chưa hết. Bên cạnh xe tải là đoàn múa lân lùng
tùng xòe tiếng trống kêu gọi mọi người ra coi. Xe chạy từ Nghệ An, Hà Tĩnh
tới Cà Mau. Cuộc xổ số được tổ chức rất bài bản và nghiêm
túc. Ngoài giải độc đắc là chiếc xe hơi, còn có vài chục giải phụ,
mỗi giải một chiếc xe đạp. Thời đó, chiếc xe đạp là thứ gia bảo, vậy
mà ông chơi tới xe hơi Austin, kể là chịu chơi!
Bác sĩ
Bùi Kiến Tín du học bên Pháp nên ông biết cách tiếp cận thị trường. Dầu
khuynh diệp bán chạy như tôm tươi. Có năm bán tới 25 triệu chai dầu trong
khi dân số chỉ có 20 triệu người! Bác sĩ Tín tốt nghiệp y khoa bên
Pháp. Luận án ra trường của ông đề cập tới ước muốn được góp phần xây dựng
một đất nước Việt Nam hùng mạnh với dân số phải tăng tới 50 triệu người có sức
khỏe dồi dào. Khi đó tây dược khá đắt, ngoài tầm tay của phần lớn dân
chúng, đông dược sản xuất tùy tiện, chưa đúng với phương pháp khoa học. Ông
muốn thay đổi tình trạng này bằng cách sản xuất những loại thuốc có giá bán mà
ai cũng có thể mua được. Các loại thuốc ho, dầu gió, dầu nóng đểu có logo
là một nam lực sĩ nâng bản đồ Việt Nam lên. Bên dưới logo là ba
chữ “Đại Cường Việt”. Tiến sĩ Bùi Kiến Thành, con trai của Bác sĩ Tín cho
biết: “Kinh doanh trước tiên là để làm giầu, hẳn nhiên. Nhưng với ông papa
tôi.Làm giầu không chỉ cho cá nhân ông mà còn cho đất nước, cho ích nước lợi
dân. Thí dụ, khi ông papa làm thuốc ho Bác sĩ Tín, ông đã có ý thức về chủ
quyền với câu khẩu hiệu trên ve thuốc: “Uống thuốc ho Bác sĩ Tín thở không khí
tự do”. Nổi tiếng về dầu khuynh diệp nhưng Bác sĩ Tín khởi nghiệp ở Quy
Nhơn với các loại thuốc ho, thuốc bổ huyết, thuốc trị táo bón. Ông chế thuốc
một cách rất thủ công. Có lúc ông cần một cái nồi đồng thật lớn để chế thuốc,
bà vợ vội đi kiếm. Bà về quê, thấy gia đình ông Bùi Thuyên có đám giỗ có
chiếc nồi đồng khá lớn. Gia đình ông Bùi Thuyên vốn nghèo, nghèo nhất tộc,
nhưng khi nghe ông Bác sĩ Tín cần chiếc nồi đồng, ông sẵn sàng cho mượn. Ông
Bùi Thuyên này là cha của nhà thơ Bùi Giáng!
Dầu gió của
Bác sĩ Tín có công thức đặc biệt bao gồm các loại dầu tràm, dầu bạc hà, dầu
hương nhu và dầu khuynh diệp. Dầu khuynh diệp có mùi rất đặc trưng, là
nguyên liệu chính, được nhập cảng từ Bồ Đào Nha với giá rất đắt, đắt gấp chục lần
dầu địa phương. Ông Lê Hữu Sanh, người đặt hàng nhập cảng, tiết lộ: “Hồi
đó dầu khuynh diệp nhập về bằng đường thủy, đựng trong các thùng phuy. Mỗi
lần nhập khoảng từ 30 đến 40 tấn, chiếm hai container. Mỗi năm tôi nhập dầu về
cho ông ấy khoảng bốn, năm lần. Tốn kém phải nói là khủng khiếp”.
Để đỡ tốn
kém và thêm tiện lợi, năm 1954, Bác sĩ Tín mua một miếng đất rộng 30 mẫu nằm
bên xa lộ Biên Hòa, đối diện với Nghĩa Trang Quân Đội, để trồng cây khuynh diệp.
Nơi đây được gọi là đồi Bác sĩ Tín và là bãi tập chiến thuật trong di hành dã
trại của sinh viên sĩ quan quân trường Võ Khoa Thủ Đức. Năm 1960, lứa khuynh diệp
đầu tiên từ Pháp đưa về được trồng tại đây. Sau đó, ông dùng hạt giống của cây
khuynh diệp đã trồng, ươm thành cây con để trồng trên hai trang trại mới mua rộng
40 mẫu tại xã Lộc Châu, huyện Bảo Lộc, tỉnh Lâm Đồng.
Dầu
khuynh diệp Bác sĩ Tín ngày càng phổ biến rộng. Các bà bầu thường dùng
trong những ngày đập bầu nên còn được gọi là “dầu bà đẻ”. Một tác giả vô
danh trên mạng nhớ lại: “Tôi chỉ mới biết “dầu bà đẻ” khi đem chuyện dầu gió
ngày xưa ra trò chuyện với mấy ông bạn già. Những câu chuyện góp nhặt đây đó
đánh thức ký ức của tôi thời còn bé. Nhớ lại, có lần ba tôi dẫn tôi đến
nhà bảo sanh Hòa Hưng thăm má tôi sanh thằng em út. Vừa bước vào cửa chính
đã ngửi thấy nồng nực mùi dầu. Mùi khuynh diệp càng lúc càng nồng khi đi
ngang qua các buồng sản phụ dọc theo hai bên”.
Tôi nghĩ
chắc ai trong chúng ta, khi làm bố, cũng có những kinh nghiệm như vị tác giả
này. Có điều những giờ phút chộn rộn, lo lắng, mừng vui lẫn lộn đó đã làm
trí nhớ chúng ta nhạt đi mùi “dầu bà đẻ”.
Song Thao
07-2021
Hồi còn nhỏ tôi khi mới di cư vào trong miền Nam có lần tôi nghe thấy mấy ông người miền Bắc di cư năm 1954 ngồi nói chuyện với nhau:” Không hiểu làm sao mà ở trong Nam họ biết làm nhiều loại dầu gió, dầu bão thế mà ở ngoài miền Bắc ngu quá chả chế được bất cứ thứ dầu gì cả “, thế rồi có một ông nói:” Người Tầu, Miến Điện, Cao Miên hay Thái Lan chế ra các loại dầu chữa bệnh chứ người miền Nam mà chế tạo được “. Nhưng cuối cùng thì có một ông khác nói:” Thế thì Bác sĩ Bùi Kiến Tín
ReplyDeletechế ra Dầu Khuynh Diệp Bác sĩ Tín, ông ta là người Tầu trong Chợ Lớn à!” .
Sau đó thì các cụ đều đồng thanh nói :”Chúng tôi quá phục và nhớ ơn Bác sĩ Bùi Kiến Tín .” và tuyên bố tan hàng .