Để
tưởng nhớ đến các đồng bào Việt Nam đã bỏ mình trên bước đường đi tìm tự do.
Video: Fall of Saigon 1975 (Sài Gòn thất thủ)
http://www.youtube.com/watch?v=IdR2Iktffaw
Tri
ân vòng tay nhân ái của thế giới tự do
Video 1- Medecins du monde (Tàu Pháp cứu vớt thuyền nhân Việt Nam) (nói
tiếng Pháp)****
Video 2- Un bateau pour le Vietnam (Ile de Lumière)
http://www.ina.fr/video/CAB7901308001
Video 3- Tàu Cap Anamur Đức Quốc cứu vớt thuyền nhân
VN
Khi miền Nam vừa đổi chủ, tác giả cũng như hàng trăm giáo sư và
nhân viên giảng huấn đại học “bị mời” đi học tập cải tạo trong một tuần lễ (?).
Nơi học là Đại học Khoa học Sài Gòn,
cạnh bên trường Trung Học Pétrus Ký.
Cây cột đèn nếu biết đi
cũng bỏ nước ra đi
Hắn và vợ, tay bồng tay dắt hai đứa con còn nhỏ, lặng lẽ, bùi ngùi bước ra khỏi
nhà cha mẹ, nơi mà hai vợ chồng hắn tá túc từ hơn một năm nay tại Saigon. Đồ
đạc chỉ vỏn vẹn có hai cái xách tay nhỏ, đựng một vài bộ quần áo cũ và một ít
thức ăn khô. Đó là ngày 23 tháng 3 năm 1980. Hắn vừa tròn được 37 tuổi.
Trời còn tối om khoảng ba- bốn giờ sáng. Trong nhà, ngoài một cô
em vợ ra thì không còn ai hay biết gì hết. Hắn dặn cô em nhờ nói lại với Pa Má,
là Anh Chị cần phải về Cần Thơ gấp để xin lại căn nhà bị tịch thâu một năm
trước đó vì đã đi không lọt và bị bắt...
Đây là lần thứ ba mà hắn liều mạng lôi vợ con mạo hiểm theo hắn. Chợt một ý
nghĩ loé lên trong đầu hắn, coi chừng “nhứt quá tam” hay “jamais deux sans trois” làm hắn cũng thấy ngài ngại...
Lần đầu, tháng giêng năm 1979, xuống cá nhỏ ngay tại bến Ninh-Kiều
Cần Thơ, ngay tại nơi có tượng Bác đưa bàn tay (Có nghĩa là giá 5 cây) chỉ ra
hướng vàm Cần Thơ để ra biển.(Đây là lời
đồn dại của dân CầnThơ thời đó).
Chẳng may chuyến đi bị gài bẫy từ đầu, nên khi vừa leo qua cá lớn
đậu ngay vàm Cần Thơ thì công an đã chờ sẵn trong ghe đón tiếp nồng hậu không
sót một mống nào, chẳng khác nào cá vào rọ.
Hắn và vợ con bị nhốt hết hai ngày ở Chấp Pháp Cần Thơ nằm cạnh bờ sông, xế
khỏi Trại Nhập Ngũ số 4 cũ, một quãng trên đường vô Cái Răng.
Qua ngày hôm sau, một diễn biến thật bất ngờ xảy ra như một giấc chiêm bao: hắn
và vợ con được thả ra. Đây là một cái bất ngờ tuyệt điệu chẳng khác nào cá mắc
cạn được đem thả trở lại xuống nước.
Khỏi phải nói hai vợ chồng hắn đều mừng hết lớn. Tưởng đâu là cuộc đời mình đã
bị tiêu tùng rồi, nhưng có lẽ nhờ phước đức ông bà để lại hay nhờ có số may mắn
gì đó mà gia đình hắn được ban lãnh đạo Đại Học vận động với công an thành phố
Cần Thơ để thả gia đình hắn ra thật sớm (2 ngày) và phải về làm tờ…tự
kiểm.
Trí thức 3N
Thời điểm đó phong trào vượt biên nở rộ khắp miền Nam. Đặc biệt là đa số
giới trí thức cũ, đều bằng mọi giá tìm cách bỏ đi. Anh nào không đi thì bị
thiên hạ mỉa mai và liệt vào nhóm trí thức 3N tức là hoặc nghèo hoặc nhát hoặc ngu?! Chất xám thất thoát nhiều khiến
nhà nước cộng sản phải cấp bách đề ra chánh sách o bế giới trí thức cũ để
khuyến dụ họ ở lại phục vụ đất nước, v.v...
Chòm xóm không ai hay biết gì hết, nhà cửa vẫn còn nguyên vẹn. Hú
hồn hú vía!.
Rồi hắn được cho đi làm việc trở lại tại nhiệm sở cũ là trường Đại
học Cần Thơ. Vợ hắn, dược sĩ ngụy, thì cũng được...gởi gắm đi làm tại một nhà
thuốc Tây quốc doanh nằm trên đường Nguyễn an Ninh ngay trong thị xã Cần Thơ,
dĩ nhiên là dưới quyền sai bảo của chị thủ trưởng dược tá giải phóng. Nói là đi
làm cho nó ngon vậy đó chớ thật sự ra có làm gì đâu, mà cũng chẳng có ai dám
giao cái gì đâu mà làm. Hắn biết là hai vợ chồng hắn đang bị người ta theo dõi
và canh chừng gắt củ kiệu lắm. Tối ngày cứ lo luây quây học tập chánh trị, họp
tổ, rồi sau đó là lo ba cái vụ chầu chực để mua nhu yếu phẩm theo giá chánh
thức cũng đã hết thời giờ rồi. Hắn rầu thúi ruột và hết còn biết tính sao
nữa.
Bế tắc hoàn toàn! Chỉ còn có một con đường duy nhất là phải tìm cách binh nữa.
Bằng cách nào? Hắn cũng chưa biết được. Chỉ còn biết cầu xin Trời Phật và chờ
phép lạ mà thôi.
Ngoan cố đi nữa …lại
kẹt nữa.
Rồi một dịp may khác lại xuất hiện vài tháng sau …Xuống bãi tại Phong Điền. Ghe
là một loại tam bản lớn không có mui gì hết, ớn quá chừng nhưng lỡ rồi. Ghe
được thả theo dòng nước sông Hậu, tà tà hướng xuống Cà Mau để tìm đường ra
biển.
Nhưng than ôi! Kỳ nầy lại bị tổ trát một lần nữa, xui xẻo hết cỡ ngoài dự tính.
Đúng là mưu sự tại nhân, nhưng thành sự tại thiên. Một trạm kiểm soát trên sông
Ông Đốc thình lình gọi ghe tấp vào bờ để xét hỏi. Thế là bể! Cả ghe bị tóm. Hắn
và tất cả bạn đồng hành đều bị áp giải vô Rạch Ráng ở Cà Mau.
Trong chuyến đi nầy, ngoài nhóm bạn bè của hắn trong Đại học Cầnthơ như Anh Chị
PL (nay còn ở bên nhà), dược sĩ TĐB (hành nghề tại Bắc Cali), hai vợ chồng dược
sĩ C&D. và mấy đứa con, và vợ chồng Trung tá Bác sĩ HNT cũng có mặt trong
chuyến vượt biên nầy.. Nghe nói mấy năm
trước đây Bs ở Houston,Tx.
Hắn lo cho hắn thì ít nhưng lo cho vợ và hai dứa nhỏ thì nhiều. Tất cả nhóm dàn
bà con nít đều bị nhốt trong vựa lúa phía sau láng của đàn ông chừng trăm
thước. Ăn uống làm sao đây? Lỡ có bệnh hoạn thì lấy thuốc đâu mà chữa trị.
Nhưng cũng may, một hai tuần sau, thì gia đình bên vợ hắn ở Saigon
hay được hung tin là chuyến đi bị vướng. Tội nghiệp, Ông bà ngoại các cháu phải
cực khổ tức tốc lặn lội từ Sài Gòn xuống thị xã Cà Mau, rồi từ đó đón đò máy đi
cả buổi mới vô tới Rạch Ráng để xin lãnh hai đứa cháu nhỏ (3tuổi và 5 tuổi) về
nhà...Trời ơi! Nhớ lại thuở đó sao mà trần ai lai khổ vô cùng tận vậy.
Sau vài tuần bị nhốt, thì vợ hắn cũng được thả về trước, còn hắn thì bị giam
thêm một thời gian nữa.
Ban ngày, họ bắt bọn hắn đi lội nước nhổ cỏ ngoài ruộng cho bỏ ghét và cũng để
cho biết thế nào là lao động. Tối về láng, hắn và các bạn tù bị xiềng một cẳng
lại với nhau qua một thanh sắt dài khóa lại ở một đầu phía ngoài cửa vào. Tiểu
tiện phải “làm” trong lon ngay tại chỗ, xong thì chuyền cho người nằm sát vách
phía bên trong, vạch tấm phên ra và hất đại xuống mương. Nhớ lại có một hôm
nhân lúc đi lao động, vì đói, ai nấy lúc về cũng ham nhổ theo cả bó rau muống
ruộng để ăn sống. Tối bữa đó thì đa số đều bị tào tháo rượt, phải làm ren rét
tùm lum ngay tại chổ. Cuộc đời tù tội là thế đó. Thê thảm quá.
Nhưng có lẽ là cảnh khổ cực của bọn hắn không nhầm nhò gì so với hoàn cảnh của
các anh em “ngụy quân ngụy quyền” bị CS trả thù và đì về tinh thần lẫn thể xác
trong những trại tù cải tạo.
Muỗi Cà Mau nhiều không thể tưởng tượng được. Mới 4-5 giờ chiều là chúng bay vo
vo đen nghệch thấy mà phát sợ. Vướng lần thứ hai nầy hắn nghĩ rằng chắc phải bị
kẹt lâu lắm chớ không mong gì được thả ra sớm đâu.
Hắn thuộc gia đình ngụy quyền mà. Vợ hắn thuộc loại “tư sản mại bản” vì có nhà
thuốc Tây ở Sài Gòn. Mặc dù đã bị họ kiểm kê ốp hết ráo hết trọi, của thiên trả
địa, nhưng gia đình hắn vẫn nằm trong diện không được thiện cảm của chế độ
đương thời cho lắm!.
Lúc bị nhốt, tin bên ngoài từ Cần Thơ cho biết là có vài người không đồng ý xin
cho hắn ra vì hắn thuộc loại quá ngoan cố hết thuốc chữa. Chắc cũng không mấy
sai đâu. Người ta đã tha cho một lần rồi mà không tởn. Hắn rầu thúi ruột đi.
Tương lai mù mịt. Nhưng rồi hắn thầm nghĩ, đây là một canh bạc, có lúc ăn thì
cũng có lúc phải thua, đó là lẽ thường tình ở đời mà thôi.
Cũng hên, sau khi bị nhốt hết ba tháng thì cả nhóm được Thành Hội Trí Thức Yêu
Nước Cần Thơ cử Anh ba T. xuống lãnh hết ra...(Anh ba T ngày xưa là nhân viên
nằm vùng trong Tòa Án Cần Thơ). Đây là việc nằm trong kế hoạch chánh trị của họ
trong thời điểm đó mà thôi.
Lần nầy thì mất hết tất cả. Te tua. Lỡ leo lên lưng cọp rồi thì không thể xuống
được!.
Nhà cửa của cải bị mất hết, mất luôn cả hộ khẩu, nên gia đình hắn chẳng còn chỗ
nào ở đành phải về tá túc một cách bất hợp pháp tại nhà ông bà già vợ tại Sài
Gòn. Vốn liếng, nữ trang và bao nhiêu cây dành dụm từ bấy lâu nay đều được đem
chụm hết trong hai chuyến đi hụt vừa qua. Căn nhà của hắn ở đường Mậu Thân gần
cầu Rạch Ngỗng Cần Thơ cũng bị mất luôn và nghe đâu được họ biếu cho Năm P
trưởng ty Nông nghiệp Cần Thơ thời đó.
Te tua láng túi sạch sẽ
Để kiếm sống qua ngày, vợ hắn phải nấu xôi, pha cà phê bán ngay bên lề đường
cạnh tiệm thuốc Tây cũ của mình tại góc đường BC/HTT Sài Gòn.
Còn hoàn cảnh của vợ chồng người bạn là dược sĩ C. và D. cũng bi
đát lắm. Họ cũng mất nhà và mất cả nhà thuốc CD ở đường Tự Đức Cần Thơ nên đành
phải dẫn bầy con (nhiều lắm!) về tá túc nhà bố mẹ ở khu sân vận động Cộng Hòa
Sài Gòn. Để kiếm sống, anh chị C.& D làm bánh cam rồi mỗi ngày Anh C. từ
nhà, cong lưng hì hục đạp xe ra bỏ mối cho vợ chồng hắn bán tại quán cà phê lề
đường.
Đây là tình nghĩa bạn bè lúc hoạn nạn...Và đó cũng là hình ảnh thê lương của
hầu hết các dược sĩ ngụy một thời le lói hết sức, nhưng lúc sa cơ thất thế thì
cũng bi thảm không ai bằng!
Lên voi xuống chó là như thế đó!.
Từ trên 30 năm qua hắn không thể bắt liên lạc lại được với gia
đình anh chị C & D. Năm 2011 có một thân nhân của duợc sĩ C cho biết trên
trang mạng Người Việt Boston là cả gia đình người em của họ đã không có cái may
mắn đến được bến bờ tự do. Tội nghiệp quá.
Còn hắn thì chạy tới chạy lui phụ giúp ba cái chuyện lặt vặt cho bà xã. Hắn
xuống tinh thần mất moral, chán chường thấy rõ, nhất là mỗi khi nghe tin có một
người bạn nào đó đã tới nơi yên ổn sướng quá. Hắn cảm thấy mình là kẻ thua
cuộc, bất lực, lẻ loi và cô độc hết sức!.
Có nhiều người khi xưa là bạn, nay thấy hắn thì lại lơ lơ là là, có lẽ họ sợ bị
liên lụy đến bản thân chăng? Đời là thế!
Sa cơ thất thế là hoàn cảnh chung của phe thua cuộc. Thôi thì cứ nghĩ đó là một
sự cộng nghiệp chung của dân miền Nam phải đồng phải gánh chịu. Hy vọng có ngày
rồi trời sẽ sáng trở lại...
Và cũng vào thuở đó, người ta hô hào lao động là vinh quang, lang thang là chết
đói, hay nói thì ở tù nên phong trào tăng gia sản xuất bằng cách nuôi heo bùng
lên khắp nơi trong các thành phố miền Nam. Bất cứ chỗ nào người ta cũng có thể
nuôi heo được hết.
Heo và nguời ở chung với nhau.
Người ta nuôi heo ngay tại Sài Gòn trong những căn nhà lầu, trong
một số villa sang trọng mà lúc đó đã đổi chủ, trong nhà bếp, trong nhà tắm, nơi
sàn nước, ngoài sân và thậm chí còn có người nuôi heo cả…trên sân thượng
nữa.
Hắn chụp thời cơ nhảy ra làm nghề chích dạo và chữa bệnh cho heo. Phần đông
thân chủ của hắn là những cán bộ quyền thế của chế độ mới. Họ cho xe lại đón
hắn về nhà khám bệnh cho heo, tiền bạc sòng phẳng!
Hắn sống lây lất qua ngày để chờ thời. Hắn cảm thấy tuyệt vọng trước một viễn
ảnh quá đen tối, bế tắt không còn lối thoát.
Mỗi khi nhìn thấy ghe tàu đậu dưới sông là hắn thầm mơ tưởng viễn vong và ước
ao…phải chi thế nầy, phải chi thế nọ, v.v…Hắn mơ, hắn ước, hắn cầu nguyện làm
sao có thể đưa được gia đình đến một miền đất nào đó. Hắn sẵn sàng làm bất cứ
công việc gì, miễn sao nơi đó hắn có thể hít thở được không khí thật sự tự do mà
thôi...
Tia hy vọng
Rồi một hôm, có một anh bạn đến móc nối hắn vì biết hắn đã từng du học nhiều
năm tại Bangkok và nói được chút ít tiếng Thái, để làm thông dịch khi
cần.
…Ra đến bến xe xa cảng Miền Tây, hắn lấy vé chợ đen đi Cần thơ, nơi chôn nhau cắt
rún và cũng là nơi mà hắn có rất nhiều kỷ niệm trong suốt 10 năm dạy học tại
đó.
Ngủ nhờ qua đêm tại nhà của một em học trò cũ trong một tâm trạng hết sức phập
phòng lo sợ bị phường khóm xét hỏi bất tử. Trời vừa hừng sáng thì gia đình hắn
lật đật ra Bến Xe Mới ở lộ 19 Cần thơ thật sớm để lấy vé đi SócTrăng. Hắn rất
sợ phải chạm mặt bất ngờ với mấy em sinh viên hay người quen thì coi như bể
hết.
Tại Sóc Trăng, gia đình hắn đổi xe dong tuốt xuống Cà Mau. Tới thị xã Cà Mau
khoảng 4-5 giờ chiều. Còn đang đứng lớ ngớ ở bến xe chưa định hồn không biết
phải làm gì bây giờ, vừa hồi hợp lo sợ tụi cách mạng 30 và công an xét giấy đi
đường và cũng vừa lo lắng không biết người liên lạc có đến đúng hẹn hay không,
thì may thay hắn gặp được một hai người quen ở Đại học Cần Thơ. Họ cũng đồng
một cảnh ngộ như gia đình hắn vậy. Trong chuyến đi nầy còn có cả nhạc sĩ PMC
dẫn theo hai đứa con (anh PMC và các cháu hiện đang sống tại Montréal). Hắn cảm
thấy hơi bớt lo đôi chút.
Mướn chiếu ngủ đỡ giữa trời ngay tại bến xe. Nằm trằn trọc, lăn qua lăn lại
suốt đêm, đầu óc thật căng thẳng, mãi đến 4 giờ sáng thì có người đến ra dấu
cho từng tốp nhỏ đi theo họ xuống bãi một cách thật là lặng lẽ.
Xuống cá lớn
Nối gót theo người dẫn đường đi một khoảng xa ở phía trước, hắn lôi vợ con hấp
tấp bước theo, xuyên qua những con hẻm quanh co giữa các xóm nhà bình dân còn
chìm đắm trong đêm khuya
Trống ngực hắn đánh thình thịch liên hồi. Hắn sợ tất cả: sợ gặp phải tổ dân
phố, sợ công an, sợ người lạ, sợ con nít và sợ luôn cả mấy con chó trong
xóm.
Tâm trạng hắn lúc đó thật là phức tạp. Hắn vừa hồi hộp, vừa lo lắng, vừa bùi
ngùi đứt ruột vì phải xa lìa đất mẹ, nhưng đồng thời hắn cũng cảm thấy vô cùng
phấn khởi náo nức khi nghĩ đến mỗi bước đi tới sẽ là những bước đưa gia đình
hắn đến gần một chân trời mới đầy tự do và hy vọng…
Hắn niệm Phật thầm trong bụng. Rồi kìa, “Cá lớn” đậu chình ìn ngay tại bờ sông
trước mắt. Đây là loại ghe bầu để chở hàng trên sông, dài cỡ 12 mét là cùng, có
mui bịt kín khoang và ở phía đàng sau là cabine nhô cao lên để tài công lái.
Hắn không nói ra nhưng trong bụng hơi lo vì không biết loại ghe này đi biển có
được không?
Thôi thì đành chịu vậy, vả lại đài radio tiên đoán tình hình thời tiết ở biển
Đông và vịnh Thái Lan khá tốt. Có người còn nói tháng ba bà già đi biển vì biển
rất êm vào mùa này. Mấy người tổ chức cho biết là họ đã chuẩn bị kỹ lắm đừng có
lo. Máy ghe là máy Yanmar loại mới, 6 hay 7 blocs gì đó?
Nói vậy thì nghe vậy chớ hắn nào có biết ất giáp gì đâu.
Tất cả mọi người đều bị ếm hết trong khoang ghe, không được gây tiếng động. Mấy
cháu bé đều bị cho uống thuốc ngủ trước đó hết. Trong khoang ghe, tất cả được
chia nhau ngồi chen chút dọc theo hai bên vách. Mọi người đều im lặng. Sợ lắm.
Trên cabine thì chỉ có tài công và Ba P.“người
hướng dẫn” địa phương mà thôi (nghe đâu anh ta là đại úy công an địa phương
gì đó ?)
Tất cả có 69 người khách vừa lớn vừa nhỏ. Ghe mở máy chạy bình bịch một cách
thong thả xuôi theo giòng nước Sông Ông Đốc đổ ra biển để vào vịnh Thái
Lan.
Vĩnh biệt đất mẹ yêu dấu
Hai bên sông, xóm làng khi ẩn khi hiện sau những rặng cây bần xanh tươi. Dưới
nước, ghe xuồng và tắc ráng xuôi ngược không ngơi. Càng ra gần cửa biển lòng
sông càng mở rộng ra.
Bà con trong ghe thì không ai nói với ai lời nào cả, tinh thần mọi người đều
rất ư là căng thẳng vì chưa ra tới biển. Trời đã bắt đầu tối. Đến khoảng 11 giờ
khuya, thình lình từ trong màn đêm lóe lên tia sáng chớp tắt của ánh đèn Pile
nào đó, rồi chẳng bao lâu không biết từ đâu đến, một chiếc xuồng nhỏ cặp sát
vào ghe một cách nhẹ nhàng. Sau khi nhận một cái túi do người tổ chức giao,
“người hướng dẫn” từ cabine tuột xuống xuồng và biến mất trong đêm tối.
Sắp tới trạm biên phòng rồi, mọi người đều im lặng, ghe tắt máy tắt hết đèn và
thả trôi theo giòng nước. Mọi người đều nín thở im lặng và cầu nguyện thầm
trong bụng. Thật là đứng tim trong 25 phút dài bất tận trong đời hắn.
Qua khỏi trạm kiểm soát một đổi khá xa, máy ghe được mở trở lại xả hết tốc lực
về hướng cửa biển. Nhưng không bao lâu thình lình ghe bị khựng lại, hình như
đụng phải vật gì ở dưới nước. Mọi người đều xanh mặt hồn vía lên mây. Có 1-2
anh em khỏe mạnh nhảy xuống nước để xem tình hình thế nào. Trời ơi ghe bị vướng
đáy rồi, xui ơi là xui. Biết làm sao bây giờ?.
Nhưng Trời cũng còn thương, lối một tiếng đồng hồ sau, nhờ con nước lớn chiếc
ghe tự nhiên xút ra khỏi đáy và tiếp tục vọt ra biển với hy vọng có thể ra tới
hải phận quốc tế trước khi trời sáng tỏ. Láng cháng dám gặp đám tàu đánh cá
quốc doanh thì phiền phức lắm.
Biển đây rồi, gió ào ào, trời nước mênh mông vô
tận.
Ghe nhảy sóng một cách chòng chành, lắc lư làm nhiều người bắt đầu
bị say sóng ói mửa tùm lum. Chạy theo hướng nào đây?
Nhiệm vụ này đã được phân công cho anh T. trung úy hải quân, nhưng ra tới biển
là anh ta bị say sóng như chết rồi nên không giúp ích gì được hết. Té ra anh ta
chỉ làm việc trong văn phòng mà thôi chớ không có kinh nghiệm về hải hành gì
hết. Có bạn nóng mũi, văng tục Đ.M. đòi quăng anh ta xuống biển cho đỡ tức.
Nhưng rồi cũng bỏ qua thôi.
Cái la bàn nhỏ xíu được lôi ra để định hướng. Người bàn thế nầy, người nói thế
kia, cãi cọ om sòm. Cuối cùng thì nhắm hướng mặt trời lặng mà chạy cầu
may.
Đến quá trưa, thình lình tiếng máy nổ khác thường, lạch cạch lạch cạch rồi êm
ru bà rù. Anh thợ máy bất đắc dĩ nhảy xuống tháo các bộ phận máy ra, xem cái
nầy, mò mẫm cái kia, mở ra lấp vào cả tiếng đồng hồ, mồ hôi nhuể nhại, rồi thử
quay máy cho chạy. Mọi người đều nín thở. Một lần, hai lần, ba lần, bốn lần…Tất
cả đều im lặng chỉ có tiếng gió thổi ào ào bên ngoài ghe mà thôi.
Vô ích: máy hư rồi! Mọi người đều vô cùng thất vọng ra mặt. Trời ơi! Làm sao
đây Trời? Gió càng lúc càng thổi mạnh, trời bắt đầu kéo mây đen kịt. Những con
sóng to nối tiếp nhau đợt này đến đợt khác, nhồi chiếc ghe lên xuống, lắc qua
lắc lại như một cái hột vịt vậy. Ai nấy cũng đều điếng hồn hết. Thế này thì cái
chết cầm chắc trong tay thôi.
Cũng may là trên ghe có một chị đã từng đi sông đi biển rồi nên có một chút
kinh nghiệm. Chị ta hướng dẫn các anh tài công bất đắc dĩ về cách bẻ càng lái
để chặt sóng.
Trước tình thế thập tử nhứt sanh, hắn và một số anh em trên ghe phải thay phiên
nhau ra phía sau ghe ráng sức kềm cái càng lái. Đó là một cái cán gỗ rất dài để
điều khiển bánh lái. Kềm nó cho đúng hướng rất nặng nề và rất khó khăn, vì sóng
to và gió quá mạnh.
Những lúc ghe nghiêng thì rất nguy hiểm, không khéo là bị cái càng lái gạt té
xuống biển như chơi. Nhiều lúc hắn cũng xém bị hất xuống biển. Trời kéo mây đen
thêm nữa. Gió bắt đầu nổi lên ào ào càng lúc càng mạnh hơn đẩy chiếc ghe đi rất
nhanh, nhồi lên hụp xuống, thật kinh hãi vô cùng.
Đàng xa hiện rõ dần dần bóng dáng lờ mờ của một hòn núi mà có người cho biết đó
là đảo Thổ Châu, cách đảo Phú Quốc 100km về hướng nam. Tâm trạng của anh em lúc
đó thật phức tạp, mừng lo lẫn lộn vì nếu ghe tấp vào đảo thì khỏi phải chết,
nhưng lại phải bị đi tù mút chỉ cà tha.
Nhưng tự nhiên lối một giờ sau thì gió lại đổi hướng thổi bạt chiếc ghe trở ra,
đi mãi và đi mãi ra khơi...
Thỉnh thoảng có những con cá nược phóng theo hai bên ghe như muốn lội đua cùng
chiếc ghe khốn khổ.
Nam mô Đại Từ Đại Bi cứu khổ cứu nạn
Hắn cảm thấy mình bất lực hoàn toàn trước hoàn cảnh bi đát nầy. Chỉ nằm chờ
chết. Ôm vợ con vào lòng mà đầu óc thật ngổn ngang trăm ngàn ý tưởng không mạch
lạc.
Hắn lâm râm niệm chú…Nam mô Đại từ Đại bi cứu khổ cứu nạn, quảng đại linh cảm
Bạch Y Quan Thế Âm Bồ Tát...
Trước cái chết gần kề mình mới cảm nhận được giá trị của cái sống. Hắn nghĩ đến
lúc ghe bị lật úp chắc hãi hùng lắm. Hắn cảm thấy thật ân hận khi nhìn vợ và
hai đứa con còn quá nhỏ tuổi. Không lẽ nghiệp quả của mình nặng nề như thế nầy
sao? Không lẽ số mình là số con rệp hay sao?
Rồi hắn nhớ lại lá số tử vi do một thầy tử vi lập cho hắn hơn 15 năm về trước,
lúc hắn vừa mới ra trường chưa có vợ con gì hết. Lá số đâu có nói là hắn sẽ
phải chết thảm như vầy đâu. Hắn nhớ ông thầy có nói hắn sau nầy phải ở xa nơi
chôn nhau cắt rún gì đó, ngoài ra cung mạng và cung phúc đức của hắn cũng khá
tốt. Trước khi đi một ngày, vợ chồng hắn cũng có lên chùa ở miệt Phú Nhuận để
trước lễ Phật sau là nhờ Thầy trụ trì xem coi có đi được hay không. Sau khi bấm
độn, Thầy nói: được! Nhớ tới đây, hắn lại lên tinh thần. Hắn nghĩ chết sống đều
do số mạng cả, lo làm chi cho mệt mất công...
Mọi người trên ghe đều kiệt sức, đói khát, ngủ gà ngủ gật, chỉ chờ một phép lạ
đến cứu mình mà thôi. Bao nhiêu tàu bè nhấp nhô ở chân trời để rồi cũng rẽ sang
hướng khác. Tối đến, mỗi khi thấy ánh đèn đàng xa, thì bọn hắn đốt đuốc lên làm
hiệu, nhưng cũng chỉ toi công vô ích, thất vọng hoàn toàn.
Đối mặt với cướp biển Thái Lan
Rồi thì chuyện gì sẽ đến thì nó phải đến. Qua ngày thứ ba, có một
chiếc tàu đánh cá Thái Lan xăm xăm tiến tới. Đây là loại tàu khá lớn và có cả
radar. Mọi người đều kinh hoàng và hồi hộp. Đàn bà con gái lo tìm dầu mỡ bôi lên
mặt lên mày cho nó thúi tha ghê tởm. Tàu Thái xáp gần,trên bong lố nhố 5-7 tên
có vẻ dữ dằn, rồi thì tàu cặp vào sát ghe kêu một cái rầm. Ghe bị chòng chành
dữ dội và nứt một bên hông. Thật khiếp đảm không lường. Mọi người trên ghe đều
ngồi yên thinh thích và hồi hộp, im lặng chờ đợi. Bọn Thái nhảy qua ghe,
4-5 tên cầm mã tấu, còn một tên thì cầm súng lục.
Nhờ biết chút ít tiếng Thái lúc đi du học mấy năm ở Bangkok, nên hắn lãnh nhiệm
vụ làm thông dịch và thương thuyết với bọn hải tặc.
Lúc đầu, tụi nó hơi giật mình không hiểu tại sao trên ghe có người lại biết nói
tiếng Thái. Hắn cắt nghĩa, hắn tả oán hoàn cảnh bi đát và xin tụi nó giúp đỡ.
Thằng cầm súng, có lẽ là tên đầu đảng, chĩa con chó lửa vào đầu hắn và bắt buộc
hắn nói lại với tất cả là phải nộp hết vòng vàng tiền bạc, bằng không thì tụi
nó sẽ bụp một phát là đời hắn tiêu tùng luôn. Hắn rất lạnh xương sống. Hắn năn
nỉ hụt hơi thiếu điều lạy lục tất cả mọi người trên ghe nên đưa hết tiền bạc ra
để đổi lấy mạng sống. Tụi nó lục lạo, tung bới tất cả đồ đạt, mò xét khắp nơi, đổ
bỏ cả thùng nước ngọt để tìm kiếm nữ trang cất dấu trong đó. Cũng may là tụi nó
không có làm hỗn với ai hết. Xong rồi thì rút đi rất nhanh. Ghe bị vô nước, tuy
chưa nhiều nhưng cũng phải lo tát ra.
Không bao lâu sau thì có một chiếc tàu đánh cá khác lại đến để...ăn mót. Có lẽ
là bọn hải tặc dùng máy radio thông báo với nhau. Trước khi đi tụi sau nầy còn
oái oăm bắt theo một cháu bé 2-3 tuổi gì đó, không biết để làm gì khiến cha mẹ
đứa trẻ quá khiếp đảm kêu gào khóc la thảm thiết. Nhưng may thay, độ một giờ
sau thì tụi nó quày trở lại trả đứa nhỏ.
Giữa trưa hôm đó thì lại có một chiếc tàu đánh cá thứ ba đến, nhưng lạ thay,
tụi nó không xáp vô mà chỉ đậu ở ngoài xa cách ghe vài chục thước và ra hiệu
biểu mình qua.
Một lần nữa, hắn lại xung phong lãnh nhiệm vụ nầy. Nhảy xuống biển lội thiếu
điều hụt hơi hắn mới qua được bên tàu Thái. Tụi nầy có vẻ hiền hơn mấy đám kia.
Hắn trổ tài ngoại giao, quọt quẹt lỏm bỏm ba mớ tiếng Thái, nhờ họ giúp kéo ghe
vào bờ. Tụi nó chịu nhưng đòi ăn tiền. Hắn lại trở về ghe, bàn với mọi người và
năn nỉ người nào còn dấu được tiền bạc thì xin làm ơn làm phước bỏ ra chớ không
thì chết hết cả đám. Cuối cùng thì cũng gom góp được thêm một số ít tiền đem
nạp cho tụi cướp. Bọn chúng suy nghĩ sao đó không biết, nhưng cuối cùng cũng
chịu. Chúng nhảy qua ghe quan sát tình hình một lúc, xong cha con chúng hè nhau
hì hục tháo cái máy ghe đem về tàu đánh cá và ra lệnh cho tất cả mọi người phải
leo qua tàu của chúng, chỉ chừa lại hai người ở lại để điều khiển chiếc ghe.
Sau đó thì chúng thả dây cột chặt chiếc ghe để tàu đánh cá kéo đi.
Đến đây thì mọi người đều
thở phào, phấn khởi lên tinh thần thấy rõ.
Chúng nấu cơm cho ăn. Thức ăn chính là món cá chiên, ăn ngon ơi là ngon. Nước
đá uống thả giàn, vì có cả hầm lận. Chúng nói chưa vô bờ liền được vì còn phải
đi kéo lưới thêm một ngày nữa. Muốn sao thì mình đành phải chịu vậy. Tối đến,
mưa trút xuống dữ dội như thác nước, ai nấy đều ước loi ngoi như chuột và lạnh
cóng run cầm cập. Thằng nhỏ con trai ba tuổi của hắn bắt đầu sốt nóng và ho nhiều.
Chắc là nó bị cảm nặng hay bị sưng phổi gì đó. Vợ hắn đè nó ra lấy dầu cù là
cạo gió, rồi sau đó hắn mò được trong túi xách một hũ ampicilline, đem ra lụi cho thằng nhỏ mấy phát nó mới bớt sốt...
Giữa đêm có tiếng la thất thanh từ chiếc ghe ở phía sau: Anh S. té dưới biển
rồi. Mọi người đều hốt hoảng. Hắn báo động cho bọn Thái hay liền. Tàu bớt máy
và quay ngược trở lại, rọi đèn pha rà tới rà lui khắp mặt biển. Sau một hồi tìm
kiếm thì thấy nạn nhân đang ngụp lặn dưới nước. Chúng thả phao xuống và kéo anh
ta lên. Khỏi phải nói người mừng nhất là vợ con của anh ta.
Ánh đèn chớp tắt cuối chân trời
Qua đêm hôm sau, khoảng 1-2 giờ khuya, thình lình chúng ngưng tàu lại. Ai nấy
đều nhốn nháo lên. Có chuyện gì đây? Chúng kêu hắn lại và chỉ ở chân trời phía
trước có một đốm đỏ cỡ lớn hơn đầu điếu thuốc một chút, chớp tắt đều đặn từng
chập. Chúng bảo đó là ánh đèn của ngọn hải đăng nằm trên một hòn đảo nhỏ không
mấy xa bờ Thái Lan cho lắm. Chúng bảo là không thể kéo mình vô đất liền được vì
sợ cảnh sát Thái bắt, nên ra lệnh bắt buộc tất cả phải trở về ghe ngay lập
tức.
Ai nấy đều nhao nhao lên quá sợ vì ghe đã bị bể rồi, lại nữa đất liền còn xa
quá, làm sao đây? Mọi người xúm nhau năn nỉ bọn chúng bằng đủ các thứ ngôn ngữ
để xin chúng kéo tiếp vào bờ. Vô ích. Có hai ba chị dằn co khóc la dữ quá khiến
chúng nổi dóa phải đè khiêng thải qua ghe. Khi mọi người trở về hết bên ghe,
bọn Thái liền chặt dây và rồ máy vọt mất trong đêm tối...
Ghe tiếp tục trôi chầm chậm theo sóng nước. Biển rất yên. Trời dần dần sáng tỏ.
Đàng xa, bóng dáng của một trái núi bắt đầu xuất hiện lờ mờ ở chân trời phía
trước và càng lúc càng rõ nét thêm hơn. Hầu như tất cả bọn đàn ông con trai đều
kéo róc nhau lên ngồi trên mui ghe, hồi hộp chờ đợi…
Chầm chậm và chầm chậm chiếc ghe định mệnh từ từ trôi về hướng núi... 10 giờ,
rồi 11 giờ, trái núi lần lần hiện ra rõ nét thêm, có thể nhìn thấy những đám
rừng trên cao chen lẫn những tảng đá to tướng xám xì xám xịt,...11 giờ ruỡi mọi
người hết sức hồi hộp.
Tưởng chừng như chết đi
sống lại
Còn khoảng 200 mét thì tới bờ. Rồi 100 mét… Rồi 50 mét… thình lình
lườn ghe chạm đá ngầm kêu rồn rột, chòng chành lắc qua lắc lại, nghiêng qua một
bên và rồi dừng hẳn lại.
Hắn và các bạn cùng phóng xuống nước chỉ tới ngang ngực mà thôi. Chân hắn vừa
chạm đất thì…nước mắt hắn cũng tuôn trào ra vì quá vui mừng và quá xúc
động.
Khi tất cả mọi người trên ghe đều vô được trong bãi cát, hắn và vài người bạn
mới đi vòng qua các đồi nhỏ, len lõi giữa đám cây rừng hoang dã, theo đường mòn
vòng qua phía bên kia núi. Thình lình, ngước lên vách núi ở đàng xa bọn hắn
thấy có bóng dáng một người đang đi lơn tơn. Hắn và mấy người bạn đều đồng loạt
la lên, ra dấu bằng cách quơ tay quơ chân tới tấp.
Người đó đã nhận thấy và đi chầm chậm về hướng của bọn hắn. Đó là một anh lính
Thái có nhiệm vụ gát trạm đèn pha trên đảo hoang nầy.
Ngoài ra không có nhà cửa của dân cư nào khác tại đây hết. Hắn bèn trình bày sơ
sơ hoàn cảnh cho anh ta biết. Anh ta lập tức trở về đồn và điện vô đất liền.
Anh cho biết đây là một đảo nhỏ của Thái Lan nằm ngoài khơi, không mấy xa thành
phố duyên hải Rayong, 150km về phiá nam Bangkok
Thế là kể như thoát nạn rồi, nhưng để cho chắc ăn, tối hôm đó hắn và vài người
bạn lẻn xuống chiếc ghe và dùng búa đập phá cho nước vào thêm trong hầm khoang
để khỏi bị cưỡng bách kéo ra khơi trở lại.
Lan Chau Nguyen
[http://%20nguoiphuongnam52.blogspot.com/2021/03/boat-people-lan-chau-nguyen.html]http://
nguoiphuongnam52.blogspot.com/2021/03/boat-people-lan-chau-nguyen.html
Nhập cảnh Thái Lan
Sáng ra, một tàu cảnh sát Thái ra đón tất cả 69 người về sở cảnh sát Rayong để
lấy lời khai và làm thủ tục nhập cảnh. Chấm dứt một cuộc vượt sóng kinh hoàng!
Cái giá phải trả cho sự Tự Do!...
Ngủ tại đây một đêm, hôm sau thì tất cả mọi người đều được đưa về trại tỵ nạn
Laem Sing. Đó là ngày 31 tháng 3 năm 1980.
Ngày 22 tháng 6 năm 1980, hắn cùng vợ và hai đứa con được bốc đi
định cư tại Canada, xứ lạnh tình nồng, đất lành chim đậu.
Cuộc đời trước mặt đổi thay
và hắn vẫn tiếp tục đi…/.
Tự Do là
vô giá!
Xin cám ơn TRỜI PHẬT. Thank
you CANADA
Lời bạt
Chuyến bay charter Wardair ngày 22/6/1980 cất cánh từ Bangkok đã
đưa trên 300 người dân tị nạn Việt Nam qua định cư tại Canada. Sau khi ghé Nhật
Bản (căn cứ Guam hay Okinawa?) để lấy thêm nhiên liệu, phi cơ tiếp tục bay đến
Canada. Đáp xuống phi trường Edmonton (Alberta) một giờ, xong bay tiếp đến phi
trường Mirabel, phía Bắc Tp Montreal.
Một cảm giác mừng vui, lo âu, bồi hồi, hoang mang, xúc động không
thể nào tả hết cho được. Đây là đất tự do, là tương lai của con của cháu
mình.
Trên mười chiếc xe bus quân sự loại lớn đón tất cả người tị nạn về tạm trú tại
căn cứ quân sự Longue Pointe nằm ngay trên đường Hochelaga, Montreal. Đây là một
Immigration processing center hay nơi làm thủ tục định cư.
Gia đình người gõ thuộc diện “mồ côi” nên được hội nhà
thờ bảo trợ. Một tuàn sau tất cả được đưa ra phi trường Dorval (nay là phi trường Trudeau) để đi
định cư tại Montague. Đây là một thành phố 2000 dân cư thuộc tỉnh bang PEI
(Prince Edward Island) nằm về phía Đông Canada.
Nhà thờ Công giáo St Marys Parish và nhà thờ Tin Lành United Hillcrest Church tại
Montague đã đứng ra bảo trợ trong một năm. Họ là những ân nhân đã dang rộng
vòng tay nhân ái đón tiếp gia đình mình trong buổi ban đầu tại miền đất hứa.
Người gõ xin mượn lời suy tư của nhà văn Phạm Tín An
Ninh (định cư tại Na Uy)đã nói lên lòng biết ơn sâu xa của người tị nạn Việt
Nam đối với thế giới tự do:
“Họ là nhừng kẻ xa lạ, không cùng màu da,
màu tóc, không cùng ngôn ngữ, mà lòng thông cảm yêu thương họ đã dành cho chúng
tôi lớn lao biết đến dường nào. Trong lúc những "người anh em" cùng một
nhà thì lại hành hạ đuổi xô chúng tôi đến bước đường cùng để phải đành lòng bỏ
nước mà đi”.
(Ngưng trích:Cô con gái quá giang đêm mồng một Tết-
Phạm Tín An Ninh)
Montague là một thành phố nhỏ nên buồn lắm. Tại nơi đây, người gõ đi làm
lặt vặt như hái thuốc lá, hái dâu Tây và làm công nhân lao động trong nhà máy
biến chế thủy sản GeorgeTown Seafoods, nhưng chỉ được 2 tháng thì bị cho nghỉ
việc vì mùa Đông nhà máy đóng cửa.
Tháng 3 năm 1981, gia đình quyết định dọn về Montreal để lập
nghiệp. Trong một hai năm đầu, hai vợ chồng đều đi làm trong hãng xưởng với lương tối thiểu
3.75$/giờ. Chồng làm cho một hãng dụng cụ, phụ tùng điện và plastic tại Ville
Mont Royal, Montreal. Vợ thì đi làm cho một xưởng sản xuất nử trang rẻ tiền tại
Ville Saint Laurent, gần phi trường Montreal.
Sau đó thì hai vợ chồng tìm cách đi học lại.
Cuộc đời trước mặt và hắn vẫn tiếp tục đi./.
Nguyễn Thượng Chánh
Montréal, tháng tư 2014
No comments:
Post a Comment