Lời mở đầu:
-Nội dung câu chuyện
được ghi lại theo ký ức của một người xa quê lâu năm nhớ về “những
năm tháng ấy” tại quê nhà vào giai đoạn đầu thập niên 1950, trước hiệp định
Geneve 1954, tại miền
Bắc nước ta.
Trời lạnh
quá.
Gió rét
len lỏi lùa vào nhà. Gió thổi qua những ống tre đầu hồi ngoài hàng hiên tạo nên
những tiếng vo vo như tiếng sáo diều lẫn trong tiếng rít từng chập của những
cơn gió mạnh. Đâu đâu cũng gió, gió bao trùm khắp cả không gian. Những tấm cửa
lùa bằng gỗ không ngăn cản nổi cái giá rét căm căm của mùa đông miền Bắc.
Tôi ngồi
một mình trong phòng học, lặng lẽ nhìn ra ngoài qua cửa sổ kính. Trên trời,
những giải mây xám vẫn vần vũ bay. Ngoài ngõ, vài chị gánh hàng ra chợ sớm trao
nhau vài câu chuyện đứt quãng, lao xao rồi tắt hẳn. Xa xa, tiếng chuông nhà thờ
làng đổ hồi đang ngân vọng về như để dục dã con chiên kịp đi lễ sớm. Và, mọi
người trong nhà tôi như cố nằm thêm trong giường để được hưởng thêm cái ấm áp của
những chiếc chăn bông dầy cộm.
Vài
cuộn khói trắng đục tỏa lên từ mái bếp tranh, nặng trĩu, là là trên mái như
không cất mình nổi lên cao. Gặp cơn gió mạnh, khói vụt bốc lên cao, xoáy tròn
hay chúi xuống, lảo đảo rồi tan nhanh.
Những con
lợn đã bắt đầu ủn ỉn đòi ăn.
Tôi
biết chị Thìn đã dậy. Tôi khoác vội chiếo áo dạ, thu hết can đảm phóng xuống
bếp để tìm hơi ấm của bếp rơm. Con Mực (1) nằm trong ổ rơm giật mình
ngửng đầu nhìn tôi rồi lại cúi xuống, đặt đầu lên hai chân trước duỗi dài tiếp
tục lim dim ngủ.
Tôi
ngồi thu mình trong ổ rơm với con Mực, nhìn
chị Thìn đang nấu nồi cám lợn. Tuy gọi là nồi nhưng miệng của nó lại rộng ra như
cái chảo. Ánh lửa bập bùng. Thỉnh thoảng ngọn lửa bùng lên to, chị phải dùng
cây que "cời rơm" khơi bớt rơm ra. Khi ngọn lửa tàn dần chị lại dùng
cây que "cời rơm" đưa thêm rơm vào. Cứ như thế, chị luôn tay giữ cho
ngọn lửa cháy đều. Nồi cám lợn đã bắt đầu bốc khói, sủi tăm trên mặt, thỉnh
thoảng nổi lên những bong bóng lớn rồi vỡ ra với tiếng sôi ùng ục, quánh đặc.
Chị cứ
lẳng lặng làm việc như chẳng để ý đến tôi. Rồi chị cũng ngừng tay lẳng lặng rót
cho tôi một bát chè tươi (chè xanh) uống cho ấm bụng.
Chị Thìn
tuổi tròn hai nhăm. Trông chị khoẻ mạnh và nhanh nhẹn. Chị đến làm con nuôi bố
mẹ tôi vào năm đói kém. Tôi coi chị như người chị ruột thân thiết trong gia
đình. Tính chị nhu mì và chăm chỉ. Bố mẹ tôi rất yêu thương chị và tôi cũng
thế. Trong làng có vài đám dạm hỏi nhưng chị chưa ưng ai.
Tôi liên tưởng tới Thi, giờ này chắc nàng còn đang ngủ với giấc ngủ yên
bình. Tôi ngồi nhâm nhi bát nước chè xanh bốc khói, hai bàn tay ôm khít thành bát
để tìm hơi ấm. Tôi nhìn ra bầu trời xám và nhớ đến Hà Nội, nhớ đến nhà trọ, nơi
tôi và Thi đã trải gần tròn một năm sống bên nhau.
Hình minh họa
Hà Nội
với những hôm mưa gió như thế này, đi học thật vất vả. Lại thêm vào đó, có
những khi mưa bão kéo dài đến cả tuần lễ. Đường xá Hà Nội tuy không lầy lội như
ở nhà quê nhưng đôi chỗ cũng đủ làm cho người bộ hành cảm thấy khó chịu hay vất
vả bởi những vũng nước đọng ngập đến mắt cá chân, có khi cao đến bắp chân.
Thỉnh thoảng, mỗi khi có chiếc ô tô cũ kỹ chạy qua những vũng nước ấy làm tóe
văng nước lên. Nước văng xa làm ướt những bộ hành gần đó và đôi khi những tiếng
chửi vội vã của dăm ba bà gồng gánh cũng hối hả đuổi theo xe.
Vài cô
nữ sinh gò mình đạp xe trong chiếc áo mưa, vất vả cố đạp cho qua chỗ nước ngập
sâu trên đường. Có những đứa trẻ con, đứa mang trên lưng cái bao tải đựng đầy bánh
tây nóng hổi; đứa một tay cầm ấm nước chè vối, một tay cầm chiếc điếu cầy; đứa
trên đầu còn đội thúng xôi, phủ kín phía trên bằng một chiếc áo tơi. Chúng quên
cả bán hàng, nô đùa trong vũng nước mưa, lấy chân đá nước vào nhau.
Bác kéo xe tay cố rướn mình ra phía trước kéo
chiếc xe phía sau che kín mít một cách nặng nề. Mọi người như vội vã, chỉ riêng
chị "đổ thùng" gầy gò, chậm chạp gò mình kéo chiếc xe bò cọc cạch,
trên xe chở đầy những thùng phân đậy kín mà chị đã lấy từ sáng sớm tinh mơ từ
những căn nhà trong khu phố.
Trong
những ngày giông tố, chúng tôi không dùng xe đạp mà đi tàu điện đến trường. Để
có thể ra đến trạm tầu điện, hai chúng tôi phải cùng chia nhau một chiếc ô. Tôi
cầm ô, Thi đi rón rén bên tôi, một tay ôm chiếc cặp da che ngực, một tay xắn
ống quần cao tới gối. Đôi khi Thi phải nép sát vào tôi để tránh những cơn gió
tạt.
Hình minh họa
Vào
buổi sáng Hà Nội, sinh hoạt nhộn nhịp và tất bật lắm dù mưa hay nắng. Có nhiều
hàng quà bán rong, họ bán những món ăn nóng hổi, nào bánh tây đựng trong bao
tải lớn được vác trên vai, nào những thúng xôi đội trên đầu được rao bán khắp
các nẻo đường, nào những gánh bánh chưng rán trên vỉa hè, mùi thơm phức với
những tiếng xèo xèo của mỡ.
Hôm nào
"giầu có", hai anh em chúng tôi mỗi người một cái bánh chưng rán nhỏ
chỉ to bằng nửa bàn tay, vừa ăn vừa thổi, vừa xuýt xoa vì nóng. Những hôm
"nghèo", hai anh em chỉ chia nhau một cái bánh tây bằng nắm tay hay
một gói xôi lạc. Biết bao nhiêu kỷ niệm bên nhau, trong sáng như ánh sao trời
cứ nối theo nhau thành những chuỗi ngày dài êm đềm, hạnh phúc.
Cuộc
sống chúng tôi cứ như thế bình thản trôi đi. Thi ở bên tôi nhưng tôi vẫn thấy
tình cảm của Thi đối với tôi vẫn như ẩn như hiện, gần mà lại xa, có mà lại như
không, tất cả như trong cõi mông lung, mơ hồ. Thi như:
Xưa kia em ở bên trời
Ngây
thơ chưa rõ cuộc đời là chi.
(Tác giả (?))
Tôi mỉm
cười khi chợt nhớ đến mấy câu thơ của nhà thơ Nguyễn Bính:
Lòng anh như biển sóng cồn,
Chứa
muôn con nước ngàn con sông dài.
Lòng
em như chiếc lá khoai,
Đổ
bao nhiêu nước ra ngoài bấy nhiêu.
Chị Thìn nhìn tôi mỉm cười hóm hỉnh như chị đã biết rõ những điều thầm kín của tôi. Tôi hơi cúi xuống tránh ánh mắt nhìn của chị. Có thể chị chỉ nhìn tôi với cái nhìn thương yêu của người chị đối với đứa em. Ấy thế mà mặt tôi tự nhiên thấy nóng. Tôi không biết nóng vì thẹn hay nóng vì hơi nóng còn đang âm ỉ trong bếp tro.
Tôi mỉm
cười một mình khi nghĩ đến một kỉ niệm với Thi. Hôm đó tôi và Thi đi chơi dọc
theo phố Huế trong một ngày giá lạnh. Nàng mua một gói lạc rang còn nóng được gói
trong giấy báo nhật trình hình tháp nhỏ. Muốn giữ cho lạc nóng lâu, nàng gửi
gói lạc ấy vào túi áo dạ khoác ngoài của tôi, thỉnh thoảng lại thò tay vào túi
áo dạ bốc lạc vừa đi vừa ăn. Tôi ăn ké lạc của Thi.
Hai anh
em tiếp tục đi bên nhau nói chuyện bâng quơ. Khi tới chợ Hôm, người đi lại có
phần đông đúc hơn. Tôi định rủ Thi vào chợ ăn bát xôi lúa (xôi bắp) nhưng lại
thôi vì muốn để dành bụng cho bữa cơm chính ở nhà.
Chợ Hôm
là chợ họp ngay trên phố Huế, gần rạp xi-nê Đại Nam. Khu chợ được xây tường bao
bọc chung quanh. Chợ Hôm không có cái bề thế của chợ Đồng Xuân, nhưng nó cũng
là một ngôi chợ vào bực khang trang so với những chợ khác như chợ Dừa, chợ
Bưởi, chợ Mơ, chợ Cửa Nam hay chợ Hàng Da …
Chúng
tôi thỉnh thoảng ghé lại chợ Hôm ăn xôi lúa, rất ngon. Bát xôi lúa với những
hột ngô trắng ngà, thơm và dẻo. Bát xôi được phủ lên trên những lát mỏng đậu
xanh mầu vàng óng ả, thêm vào đó là những thìa mỡ hành rang khô béo ngậy thơm
phức cùng với thìa đường thẻ mầu nâu tán nhỏ. Trời lành lạnh, ngồi ăn bát xôi
lúa thì thật thú vị là bao. Bà hàng xôi quen mặt chúng tôi nên mỗi khi đến ăn
hay mua mang về, bà không quên cho thêm ít đậu xanh và xúc thêm cho ít mỡ hành
như một chút tình cảm bà dành cho những khách quen. Bà có cô con gái rất xinh
giúp bà. Nhiều cậu đến ăn xôi chỉ vì muốn được nhìn cô con gái ấy. Bà hàng biết
thế và cô bé cũng biết thế nên cô thường làm dáng với những cậu trai đồng lứa
tuổi với cô.
Xôi lúa (xôi ngô, xôi bắp)
Vào sâu
thêm trong chợ, rẽ vào khu hàng ăn bình dân, ta sẽ gặp một loạt hàng ăn với
những nồi nước dùng nóng hổi bốc khói. Hấp dẫn nhất đối với chúng tôi vẫn là gian hàng bún với hai nồi bún ốc và bún
riêu. Nồi bún ốc với những lớp váng mầu đỏ đậm mỡ màng. Nồi bún riêu với lớp
gạch cua đồng mầu hồng nhạt nổi lềnh bềnh trên mặt. Ăn bún ốc thì phải ăn cay,
cay đến ngứa da đầu và thưởng thức những con ốc nhồi to bằng ngón tay cái với
cái dai sừn sựt của đầu, beo béo của thân ốc mầu vàng ngậy. Còn ăn bún riêu thì
phải ăn với rau muống chẻ thành sợi ngâm vào nước cho quăn lại hay ăn với bắp chuối
non cộng thêm với rau thơm, thoảng qua chút mắm
tôm (mắm ruốc)
mới thấy hết được cái hương vị đồng quê của nó.
Người
Hà Nội đặc biệt có món bún thang hay bún mọc thường dành cho giới
trung lưu hay giàu có vì nó được nấu với những vật liệu đắt tiền như giò luạ sống,
trứng, thịt gà, lại phải có thêm hương vị cà cuống, mắm tôm và phải được trình
bày một cách cầu kỳ nên thông thường chúng không được kể như những món ăn bình
dân và cũng thường không được bán ở trong chợ hay ở vỉa hè. Tôi thích bún ốc và
bún riêu vì hương vị của nó đậm đà hơn.
Thi không ăn được cay nhiều nên mỗi khi ăn bún ốc, thỉnh thoảng nàng phải lấy tay quạt quạt mồm cho mát hay “chiêu” một ngụm nước chè. Có lần tôi đùa bà hàng bún ốc:
- Bà
hàng ơi, bà cho cô ấy thêm chút nước dùng!
Bà hàng
thật thà thêm ít nước dùng vào bát bún cho Thi.
- Bà ơi
cho cô ấy thêm tí bún và ốc!
Lần này
bà hàng biết tôi đùa nên chỉ mỉm cười, lặng lẽ cầm cái quạt nan (quạt đan bằng
tre) đuổi mấy con ruồi đậu trên bát ốc đã “nhể” sẵn.
Thi ngừng
ăn trợn mắt nhìn tôi:
- Cái
anh này ...!
Tôi nhớ
lại những kỷ niệm ấy như những kỷ niệm vui.
Trong
các món ăn với bún của người Hà Nội thì phải đặc biệt kể đến “bún chả Đồng Xuân”.
Ôi, cái mùi thịt “ba rọi” được thái thành từng miếng nhỏ, to và dài bằng độ hai
ngón tay giữa, chúng được ướp sẵn và kẹp vào giữa hai thanh nan tre. Những
“xâu” thịt này được nướng trên bếp “than củi”, mỡ của thịt chảy xuống than hồng
tạo nên những tiếng xèo xèo và tỏa khói. Để thịt nướng khỏi cháy, người ta phải
quạt bếp than liên tục để ngọn lửa không bốc lên cao làm cháy thịt. Mùi thơm
thịt nướng cuốn theo gió bay đi xa làm “điếc mũi” những người đói bụng.
Những
món ăn ta thường thấy trong chợ phải kể thêm đến hàng bánh cuốn nhân thịt hay
bánh cuốn tráng mỏng không có nhân thường được gọi là bánh cuốn “Thanh Trì” vì
loại bánh cuốn này được sản xuất ở làng Thanh Trì ngoại ô Hà Nội, một đặc sản
nổi tiếng của làng này được truyền lại từ bao đời nay.
Những
món ăn chơi bình dân và phổ thông của Hà Nội đã được đi vào văn học phải kể đến
món phở Bắc, chả cá Lã Vọng, bánh tôm Cổ Ngư, bánh cuốn “Thanh Trì”, bún chả
Đồng Xuân, thịt chó Yên Phụ, cốm Vòng, rồi với những món bánh đúc chấm tương ăn
với đậu rán, tiết canh, cháo long . . . Đứng về mặt văn hóa ẩm thực của Hà Nội, thì quả thực, nó phong phú và đa dạng
lắm.
Gió vẫn còn thổi
mạnh.
Cái lạnh
giá hắt nhanh vào da mặt khi tôi vừa bước ra khỏi nhà bếp. Tôi
chạy vội trở về phòng học ở nhà trên. Gọi là phòng học chứ thật ra là phòng vừa
để học vừa để ngủ, một căn phòng ấm cúng và đơn giản. Trong phòng, ngoài bàn
học nhỏ kê ngay cửa sổ, một nhánh lan rừng treo lủng lẳng trên thanh ngang của
cửa sổ ấy. Trên tường treo bức tranh "Tố nữ" và một tấm ảnh đen trắng
của tôi chụp cách đây hai năm về trước. Một tủ sách nhỏ nằm khiêm nhường im lìm ngay đầu giường ngủ.
Chị Thìn thường chăm sóc, dọn dẹp căn phòng này khi tôi đi học xa nhà.
Gió rít
mạnh từng cơn. Đám mây xám ùn ùn kéo đến như báo hiệu một cơn mưa to nữa sắp
sửa ập tới. Những tầu lá chuối đang phần phật bay như múa ngoài vườn, tơi tả. Những cơn gió vẫn
hung hăng rung mạnh cành cây. Một con
chim lẻ loi đang lảo đảo trong bầu trời xám tìm đường về tổ hay đi kiếm ăn.
Ngồi nhìn
qua cửa sổ kính. Không gian vẫn chìm trong mầu xám đục. Tôi
lại nhớ tới Hà Nội và nhớ tới Thi. Tôi
biết giờ này Thi còn đương ngủ, giấc ngủ thật an bình, an bình như hình ảnh:
Tay anh em hãy tựa đầu
Cho
anh nghe nặng trái sầu rụng rơi
(Huy Cận)
Thi đã có trái sầu chưa nhỉ, dù rất còn non? Tôi mỉm cười với ý nghĩ của mình. Em hãy ngủ yên bình. Khi tỉnh dậy em sẽ thấy một bình minh rạng ngời ánh ban mai lúc em vừa chợt nhớ tới anh. Anh đang nhớ tới em cũng như đang nhớ về Hà Nội của chúng ta.
Xin mời nghe
ReplyDeleteTác giả viết truyện này hay thiệt , làm lòng mình cứ lâng lâng , dĩ vãng bỗng hiện về , thoang thoảng cũng giống như trong truyện. Mình giờ đã có cháu cố , bồng đứa nhỏ trên tay , thoáng chốc tưởng mình còn nhỏ như xưa , giật mình ngó lại mình đã là ông cố . Ối thời gian sao mà lẹ quá
Xin cám ơn ông Phan Nguyễn. Và mong ông tìm lại được những kỷ niệm xưa trong những bài kế tiếp sẽ được đăng dần trên Blog Người Phương Nam. Kính chúc ông và gia đình nhiều sức khỏe. NG Hùng
ReplyDelete