Saturday, January 13, 2024

Nhớ Những Năm Dạy Học Ở Củ Chi - Đỗ Duy Ngọc


Trước năm 75 tôi có đi dạy giờ mấy trường tư thục. Lúc ấy thầy giáo dạy từ đệ nhất cấp trở lên gọi là giáo sư. Dạy giờ là kiểu dạy hợp đồng, dạy giờ nào tính tiền giờ đó, hết niên khoá nếu dạy không đạt yêu cầu, nhà trường sẽ gởi một bức thư từ chối cho niên khoá tiếp. Nếu dạy tốt, được đánh giá cao cũng sẽ nhận thư của nhà trường trân trọng mời ông tiếp tục niên học tới có chữ ký của Hiệu trưởng cùng cái dấu đỏ.


Sau 75, chính quyền mới cho học thêm mấy tháng gọi là bồi dưỡng chính trị và kiến thức của chế độ mới ở trường Đại học Sư phạm Thành phố. Xem như là khoá đầu tiên ra trường của ĐHSP sau thống nhất. Thi xong chờ phân công. Con của “nguỵ quân, nguỵ quyền” không được nhận nhiệm sở, đành kiếm nghề khác sống. Cũng may tỉnh Bến Tre thiếu giáo viên trầm trọng nên vớt một số về cho dạy mấy trường ở vùng sâu, vùng xa. Thành phần bị nghi ngờ về tư tưởng hoặc bị gán cho tội lỗi gì đấy cũng không được đi dạy. Tôi nằm trong số đó lại thêm bị một số đoàn viên báo cáo không tốt nên đành định ra chợ trời kiếm cơm.

Ơn trời, tôi có cô bạn có quan hệ mật thiết với Hiệu phó trường, nhờ vậy tôi được chiếu cố cho về Bạc Liêu. Đường về Bạc Liêu thời đó trắc trở, gian truân lắm, đi từ tờ mờ sáng đến tối mịt mới tới nơi sau khi qua không biết bao nhiêu là trạm gác. Thế nhưng Sở Giáo Dục Bạc Liêu cũng không nhận vì lý do lý lịch đen thui, cha, anh đều là “nguỵ quyền”, hồ sơ lại bị nhiều phê bình ác ý. Lại thêm có anh chàng học cùng trường về trước dèm pha. Thế là khăn gói trở về sau mấy tháng đợi chờ vô vọng.


Nhưng thế mà lại may, Sở Giáo Dục thành phố chấp nhận cho tôi về dạy trường cấp 3 Phú Hoà. Nhận quyết định, cứ nghĩ là ở Phú Thọ Hoà, tưởng không xa lắm, cũng được. Nào ngờ trường đấy nằm ở ngã tư Tân Quy, huyện Củ Chi. Hồi đấy xe cộ khó khăn, xe khách chạy bằng than, muốn lên được xe phải chen nhau qua cửa sổ. Nhiều lúc không leo lên được phải đứng ở bục gỗ sau xe, lò than nóng hừng hực, lâu lâu lại rớt ra mấy hòn than đỏ rực. Xe chỉ đến chợ Hóc Môn, đi bộ hoặc đi xe ngựa vào bến xe lam. Xe chạy qua Cầu Xáng, qua Tân Thạnh Tây mới đến trường.


Trường nghèo, chỉ có khoảng sáu phòng học, sân trường đầy những cây bã đậu. Bảng tên trường liêu xiêu, tróc sơn nằm chơ vơ nhìn ra cánh đồng trống. Cảnh buồn hiu. Trước trường là tỉnh lộ chạy hết đường sẽ đến con sông đi qua tỉnh Bình Dương. Nhìn cảnh trường oải thiệt là oải. Mà cũng đành, thời đã thế thế thời phải thế thôi.

Từ nhỏ cho đến giờ phút đó, tôi chỉ học ở các trường to, sân rộng, lầu cao, phương tiện đủ đầy. Giờ lại đến một ngôi trường với những phòng quét vôi loang lổ, bảng đen sờn hết sơn, mái lợp fibro ciment. Cửa sổ phòng học nhìn ra bãi đất ngút ngàn lộng gió. Chất độc khai hoang thời chiến tranh khiến cỏ cây xác xơ, chẳng có cây nào sống nổi. Nhìn quá nản lòng chiến sĩ.


Trời đã về chiều, những đám nắng vàng vọt chiếu trên những đám cỏ trơ trọi khiến khung cảnh càng thêm nản lòng. Dáo dác nhìn quanh, thấy có căn phòng phía trước ngổn ngang ghế bàn. Cửa khép hờ, tôi gõ cửa. Có tiếng vọng ra: Ai đấy, vào đi.

Tôi vào, phòng có mỗi chiếc bàn và lung tung đồ đạc, giấy tờ cùng chiếc máy đánh chữ. Một ông trung niên da ngăm đen, tóc hớt ngắn đang kéo thuốc lào. Ông mặc áo thun ba lỗ đã ngã màu cháo lòng và chiếc quần tây bộ đội đã cũ nhàu. Sau khi rít một hơi thật sâu, ông ngửa mặt lên trời thở ra làn khói mù mịt rồi hất hàm hỏi: Đi đâu đấy, hỏi ai?

Tôi bảo: Tôi được Sở Giáo Dục phân công về đây dạy học. Cho tôi gặp Hiệu trưởng. Vừa nói, tôi vừa đưa giấy cho ông. Ông nheo mắt nhìn tôi, lại bảo: Tôi là Hiệu trưởng đây. Xem nào. Dạy môn gì? Tôi bảo: Môn Văn. Ông nhịp nhịp bàn tay như có ý bảo tôi ngồi xuống. Thầy xếp ba lô ở đây, tối xếp mấy cái bàn ngủ rồi mai tôi bảo Hiệu phó xếp giờ cho Thầy. Tối đến thầy cô xếp bàn thành giường, mắc màn ngủ trong phòng. Lúc đó chưa có điện, đêm thắp đèn dầu, sáng ra mũi ai cũng đầy bồ hóng đen thui.

Buổi đầu tiên trình diện để khởi đầu những năm tháng làm thầy của tôi diễn ra như thế đấy. Tôi tự nhủ, chắc gắng thời gian ngắn ở đây rồi rút thôi, làm sao mà tồn tại ở chốn này cho nổi.


Người tính không bằng trời tính, định ở đó thời gian ngắn rồi tìm cách thoát, ai ngờ ở đến năm năm. Năm năm biết bao kỷ niệm, buồn có, vui cũng không thiếu. Chính các em học trò đã níu chân tôi lại năm năm. Lúc đấy các em là học trò nhà quê, lạ lẫm với ông thầy lúc nào cũng mang giày da, áo chẽn, quần loe, tóc phủ mang tai, râu ria lún phún. Lên lớp dạy nói lớn đến nỗi cả trường nghe giảng. Trò quý Thầy và Thầy cũng thương cho hoàn cảnh của trò.

Các em hồn nhiên và rất tình cảm, kính trọng Thầy Cô. Xem Thầy Cô như thần tượng của mình. Ngay phụ huynh các em cũng thế. Dạy được một năm, tôi đưa vợ về ở luôn trong trường. Nhà trường phân cho chái nhà phên tre, mái tranh. Ngày nóng hầm hập, đêm con bọ xít bay đầy, tiếng ễnh ương kêu oàm oạp, mùa mưa lội bì bõm.

Lần đầu tiên vợ tôi đi chợ Phú Hoà Đông, các bà, các cô ở chợ rủ nhau đi xem mặt vợ Thầy Ngọc, bởi vợ tôi có khuôn mặt của người ngoại quốc. Rồi các người bán hàng chẳng chịu lấy tiền, vợ tôi ngại quá từ đấy không dám ra chợ nữa, chỉ nhờ người khác mua giúp.

Tình cảm của học trò thời ấy đẹp lắm, quý lắm. Đã hơn 47 năm rồi, các em ấy bây giờ đã qua tuổi sáu mươi nhưng tình thân càng ngày càng đầy chứ không hề vơi. Chính cái tình ấy khiến tôi không nỡ bỏ các em mà đi. Hơn nữa, năm 1978, tôi làm hồ sơ đi Pháp, đang chờ giấy xuất cảnh nên cũng không muốn thay đổi cuộc sống vì sẽ gặp khó khăn trong việc xử lý hồ sơ của công an và lãnh sự Pháp.


Thời kỳ đó cuộc sống vô cùng khốn khó. Lãnh lương có mấy chục đồng mà đóng tiền mua nhu yếu phẩm hết gần một nửa. Mỗi tháng mua được nửa ký thịt heo chẳng ngon lành gì. Cá thì ươn, gạo hẩm. Tiêu chuẩn 13 ký gạo mà hơn nửa là bột mì với bo bo. Thèm đủ thứ.

Vợ tôi có mang con trai đầu lòng, chỉ thèm miếng thịt gà mà chẳng có để ăn. Đẻ con phải làm đơn qua 4 cửa với đủ chữ ký rồi nhờ người quen giới thiệu mới mua được bốn hộp sữa bò. Bột ngọt, tiêu hột phân chia bằng muỗng. Vải, vỏ xe phải bốc thăm. Nhiều lúc nữ được quần đùi mà nam lại bốc được vải mùng vệ sinh của phụ nữ.

Ban đêm mấy thầy rủ nhau đi bắt bù tọt về ăn cho có chút đạm. Ai nấy đều ốm tong teo, bụng thon, ngực lép nhưng lên lớp thì rất nhiệt tình và thương quý học trò như những đứa em, con cháu của mình. Chính cái tình ấy đã giúp cho rất nhiều thầy cô từ thành phố về vẫn đứng trên bục giảng suốt mấy năm.

Rời trường đấy sau năm năm để đổi về thành phố, tôi vẫn nhớ như in những khuôn mặt của các em. Những khuôn mặt hiền lành, thân tình khó tìm ở thời buổi bát nháo bây giờ. Ra đời, nhờ lý lịch các em đa số làm quan chức, giờ đã về hưu. Lâu lâu gặp lại, cuốn phim của gần năm mươi năm trước lại quay về.

Hôm nay ngày 20 tháng 11, ngày của nhà giáo, kỷ niệm tràn về, viết một bài ngắn để nhớ về một đoạn đời đã qua đi. Nhớ những người đồng nghiệp cùng đồng cam cộng khổ thời gian khó, nhớ những người đã mất, những người đang ở phương xa.

Đoạn đời không dễ gì quên. Chúc các em, những người học trò trường Trung Phú, Củ Chi ngày xưa luôn hạnh phúc, vui khoẻ và luôn giữ được mối thân tình đã có. Mãi thương quý các em.


Sài Gòn, 20.11.2023

 Đỗ Duy Ngọc

No comments:

Post a Comment