Monday, March 31, 2025

Một Cái Nhìn Về 20 Thói Hư Tật Xấu Của Người Việt Nam

Dân tộc nào cũng có cái hay, cái đẹp nhưng cũng có những cái xấu, cái chưa hợp lý… Vấn đề quan trọng là biết hư thì sửa, biết xấu thì làm cho đỡ xấu và tiến tới làm cho đẹp hơn.

Người nước ngoài nhìn ta

1. Cần cù lao động song dễ thỏa mãn nên tâm lý hưởng thụ còn nặng.

2. Thông minh, sáng tạo, song chỉ có tính chất đối phó, thiếu tầm tư duy dài hạn, chủ động.

3. Khéo léo, song không duy trì đến cùng (ít quan tâm đến sự hoàn thiện cuối cùng của sản phẩm).

4. Vừa thực tế, vừa mơ mộng, song lại không có ý thức nâng lên thành lý luận.

5. Ham học hỏi, có khả năng tiếp thu nhanh, song ít khi học “đến đầu đến đuôi” nên kiến thức không hệ thống, mất cơ bản. Ngoài ra, học tập không phải là mục tiêu tự thân của mỗi người Việt Nam (nhỏ học vì gia đình, lớn lên học vì sĩ diện, vì kiếm công ăn việc làm, ít vì chí khí, đam mê)

6. Xởi lởi, chiều khách, song không bền.

7. Tiết kiệm, song nhiều khi hoang phí vì những mục tiêu vô bổ (sĩ diện, khoe khoang, thích hơn đời).

8. Có tinh thần đoàn kết, tương thân, tương ái, song hầu như chỉ trong những hoàn cảnh, trường hợp khó khăn, bần hàn. Còn trong điều kiện sống tốt hơn, giàu có hơn thì tinh thần này rất ít xuất hiện.

9. Yêu hòa bình, nhẫn nhịn, song nhiều khi lại hiếu chiến, hiếu thắng vì những lý do tự ái, lặt vặt, đánh mất đại cục.

10. Thích tụ tập, nhưng lại thiếu tính liên kết để tạo ra sức mạnh (Cùng một việc, một người làm thì tốt, ba người làm thì kém, bảy người làm thì hỏng).


Ta tự nhìn ta

1. “Giờ cao su”: Nhìn chung, ý thức giờ giấc của người Việt Nam rất kém. Nhiều bạn đi du học ở các nước phát triển lúc đầu rất hay bị bỡ ngỡ. Họ dễ bị trễ tàu, lỗi hẹn nhưng dần dần họ cũng khắc phục được. Ðến khi về nước họ lại khó chịu với “giờ cao su” của chúng ta.

2. Thiếu tự tin và óc phê phán: Ðây cũng là nhược điểm của văn hoá phương Ðông có lối sống khép kín. Nhiều bạn sinh viên năm thứ ba, thứ tư Ðại học mà vẫn ngại phát biểu ý kiến hoặc trình bày vấn đề trước đám đông vì thiếu tự tin, thiếu thói quen suy nghĩ, đi học chỉ biết “chép chính tả”. Kiểu giáo dục thụ động luôn tỉ lệ thuận với sức ì của tư duy và tỉ lệ nghịch với óc phê phán (critical thinking) của thanh niên.

3. Bệnh hình thức: Có bạn trong cơ quan hay công ty mình làm việc đang chẳng đâu vào đâu thì lại đi học master. Có bạn tốt nghiệp rồi mà chưa tìm được việc làm cũng đi học master. Tư duy nặng về “điểm chác”, bằng cấp rất phổ biến. Không xác định tư tưởng học để làm việc mà học để lấy bằng. Người Mỹ có quan điểm: to learn is to change. Còn chúng ta ra sức theo học rất nhiều lớp học nhưng rốt cuộc cách làm việc không thay đổi gì cả, điều khác là chúng ta có thêm mấy cái bằng bổ sung vào hồ sơ cá nhân.

4. Không tiết kiệm: hay tâm lí thích tiêu xài phung phí. Ðây là virus đang rất phổ biến và rất dễ lây lan trong giới trẻ. Họ quan tâm đặc biệt đến quảng cáo, thích xem các loại tem nhãn quần áo, nhận xét, đánh giá người khác qua tài sản, thấy thèm muốn, thán phục nếu ai đó có nhiều quần áo, xe, điện thoại, nhà…”xịn” hoặc tiêu xài sang hơn mình. Chúng ta đang tiêu dùng nhiều hơn chúng ta kiếm được.

5. Thiếu trách nhiệm cá nhân, thừa trách nhiệm tập thể: Nói chung trong những người bình thường, chúng ta thường hay đùn đẩy trách nhiệm, bất kỳ việc gì chuyển được sang cho người khác cũng đều thấy nhẹ cả người. Khi xảy ra sai phạm đó sẽ là lỗi chung của cả tập thể chứ không của riêng cá nhân nào. “Sẵn sàng” nhận cả “phần” không phải của mình…

6. Thể lực kém: xuất phát từ nhiều nguyên nhân như chế độ dinh dưỡng, chương trình học quá tải, học lệch, tâm lí lười vận động… Và hậu quả là khi làm việc với các đồng nghiệp nước ngoài, mặc dù rất cố gắng nhưng người Việt trẻ vẫn rất hay bị hụt hơi và cảm thấy khó có thể theo được cường độ làm việc của họ.

7. Thiếu thực tế: Ông Kim Woo Choong – Chủ tịch Công ty Deawoo viết: “tuổi trẻ không có ước mơ thì không phải là tuổi trẻ… lịch sử thuộc về những người biết ước mơ”. Nhưng đó là những ước mơ hoàn toàn có thể trở thành hiện thực. Chúng ta thường hay suy nghĩ viển vông, thiếu suy nghĩ thực tế và chưa có suy nghĩ học là để làm việc.

8. Tinh thần hợp tác làm việc theo team work còn hạn chế. Thế kỷ 21 là thế kỷ làm việc theo nhóm vì tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội ngay cả văn học và nghệ thuật, một cá nhân cũng không thể đảm đương được. Mạnh ai nấy sống…

9. Tác phong công nghiệp: Ðây là điểm rất quan trọng, có thể bao hàm một vài điểm đã nêu trước. Một nhà xã hội học Mỹ nói về nguồn gốc của cách làm việc tiểu nông như sau: “Anh nông dân sau khi gieo lúa xong có thể nhậu lai rai, ngủ dài dài và chờ đến thời điểm nhổ cỏ, bón phân mới làm tiếp. Mà việc này có làm muộn vài ngày cũng chẳng sao, không ảnh hưởng gì đến hoà bình thế giới. Nhưng một người công nhân đứng máy luôn luôn phải đúng giờ, có thao tác chính xác tuyệt đối và tinh thần kỷ luật cao. Một sơ suất nhỏ cũng có thể gây tác hại đến cả dây chuyền.”

10. Thích đi trên lối đi có sẵn, không thích tự mình mở ra một lối đi mới cho riêng mình.


Anh Phước chuyển

Tội Trần - Người Phương Nam

Khúc Bể Dâu - Sỏi Ngọc

 

Tôi khép cánh cửa phòng ngủ, rón rén bước ra, sợ gây tiếng động làm thằng cháu nội lại giật mình thức giấc; thằng bé đã mười tháng tuổi, biết làm đủ thứ trò như con khỉ con, chiếc mũi bé xíu của nó chun lại, đôi môi dầy cong lên, mỗi khi bà nội bảo nó làm xấu, thật dễ thương, canh nó hơi mệt vì phải chơi cho nó đừng chán, lèo nhèo, nhưng chơi nhiều thì sức bà nội có hạn, làm sao chạy theo nó cả ngày được!

Từ ngày tôi về hưu non, kế hoạch trong đầu là đi du lịch khắp thế giới, nhưng chưa đi được bao nhiêu, thì con dâu sanh, bây giờ lại phải trông cháu một tuần hai ngày cho các con đi làm, chưa kể cuối tuần chúng lại bế nhau về “làm phiền” bà. Bà ngoại của cháu lớn tuổi hơn tôi nhiều nên sức khỏe không cho phép bà chạy theo cháu, bế cháu như tôi, do đó tôi trở thành nhân vật chính trong vụ giữ trẻ này.

Các con tôi muốn chờ thằng cu bé được hơn một tuổi, biết đi, mới cho vào nhà trẻ vì sợ cho cháu vào sớm quá, lây bệnh, khó ăn uống lại xuống ký thì tội nghiệp. Tôi cũng đồng ý, ráng chờ vài tháng nữa, thằng cháu sẽ lớn hơn đi nhà trẻ sẽ biết tự túc hơn.

Cả người mỏi nhừ vì “vần vũ” với thằng bé từ sáng sớm tới giờ, ngồi xuống ghế nghỉ ngơi, bên ngoài cửa sổ những ụ tuyết còn cao quá đầu, tháng ba đã đổi giờ, ngủ ít đi một tiếng, nhưng đi làm được về sớm hơn một tiếng, ra khỏi công sở mặt trời vẫn chưa lặn.

Con dâu tôi đã từng tâm sự:

- Chắc con phải nghỉ nhà trông con nếu có đứa thứ hai… Làm một lúc rồi nghỉ luôn!

- Nếu có đứa thứ hai thì nên nghỉ thêm một năm trông cháu, thay vì chỉ có 6 tháng, rồi sau đó đi làm lại, vì nếu nghỉ hẳn, khi các cháu đi nhà trẻ, con sẽ buồn lắm, sẽ thấy tiếc sự nghiệp của mình.

- Nhưng nếu nghỉ một năm rồi vào làm lại, mình sẽ không còn thạo việc nữa, mọi thứ thay đổi, nếu vậy phải lấy thêm course nữa mới update được ạ.


Những lời tâm sự của con dâu làm tôi nhớ về những ngày tháng sau khi tôi nghỉ sanh đứa con trai thứ hai, tôi lấy một năm rưỡi ở nhà trông cháu, khi nó được hơn một tuổi thì cho vào nhà trẻ và quay lại công việc ngân hàng.

***

Ngày đầu tiên trở lại ngân hàng sau mười tám tháng nghỉ sanh con, lẽ ra tôi phải được hoàn lại chức vụ cũ, giám đốc ngân hàng trong nhà thương nhi đồng ở thành phố Montreal, Quebec. Khi vào đến nơi, tôi mới phát hiện ra tất cả ngân hàng tại Quebec đã được phân chia theo phân khoa đặc biệt, ví dụ: ngân hàng sức khỏe, ngân hàng công nghiệp, ngân hàng nông nghiệp, ngân hàng khoa học v.v.


Chỗ tôi đã được một ông tây người bản xứ thay thế; bà Solange, giám đốc trên tôi một bậc đã từng nâng đỡ, mướn tôi vào những ngày đầu tiên đã được thăng chức thuyên chuyển đi một nơi khác làm, tôi cảm thấy mình như người thừa thãi, lạc lõng, những nhân viên dưới quyền tôi, người đã đổi đến chi nhánh khác, kẻ thì nghỉ vì một công việc tốt hơn, chẳng có ai đón tiếp và không biết phải nói thế nào để lấy lại chỗ cũ của mình.

Bà giám đốc mới ở phòng nhân sự, bà Leclerc, là một người rất quan liêu, bảo thủ và nghe nói rất “phân biệt chủng tộc”, bà cho là những dân tỵ nạn đến đất nước Canada lấy đi những công việc tốt của người bản xứ! Bên cạnh đó bà không bao giờ gởi giấy khen hay động viên những nhân viên có ý tưởng sáng tạo, bà coi những đóng góp đó là chuyện đương nhiên!

Tôi lo lắng đến trình diện bà; sau khi nghe tôi trình bày hoàn cảnh đã nghỉ một năm rưỡi vì gia đình con cái, nay mới vào nhận nhiệm sở với bao thay đổi về nhân sự, bà nhìn tôi một hồi qua cặp mắt kiếng trễ xuống mũi, hai môi mím lại, vẻ mặt nghiêm trang, bà mở máy tính đọc tiểu sử, thành tích của tôi trong tám năm qua trước khi nghỉ đẻ, mặc kệ cho tôi ngồi yên trong chiếc ghế bành bằng da to tướng với bao hoang mang, trong đầu đầy những câu hỏi, không biết bà sẽ điều tôi đi đâu.

Bà ngẩng đầu lên, ánh mắt giá băng, như cái không khí lạnh ngắt của chiếc máy lạnh gắn thêm trong phòng bà mà bên ngoài trời tháng tư chả nóng chút nào.

- Cô làm …cũng khá đấy chứ!... Nhưng bây giờ chỗ cô đã có người thay thế rồi, tôi sẽ tìm một chỗ khác cho cô!

- Thưa bà, người mới chỉ là thay thế chỗ của tôi thôi, trong nội quy ngân hàng có nói sau khi nghỉ sanh dưới hai năm về vẫn làm lại chỗ cũ…

- Nhưng cô mới về lại, chắc chưa có thể làm ngay được, vì nhiều thứ thay đổi lắm, tôi sẽ cho cô đi học thêm ba tháng, sau đó sẽ tính tiếp… Tôi sẽ nói thư ký của tôi liên lạc với cô. Vậy nhé, chúc cô một ngày đẹp!

Bà không muốn nói chuyện với tôi nữa, bà gục đầu xuống xem một hồ sơ khác, như có ý “đuổi” tôi ra khỏi phòng!... Tôi thấy khuôn mặt lạnh như cắt của bà, cũng không dám đứng lâu tranh cãi, đành ra ngoài xem mọi người làm việc ra sao mà bà nói đã thay đổi rất nhiều trong một năm rưỡi qua.

Đúng là phần mềm của ngân hàng có thay đổi đôi chút, có thêm nhiều thứ linh tinh nhưng làm gì phải học thêm đến ba tháng chứ! Chỉ cần cho tôi ngồi bên cạnh một ai đó xem họ làm việc trong một buổi là tôi sẽ update ngay thôi. Đang miên man suy nghĩ, cô thư ký Helen đến gặp tôi nói:

- Bà Leclerc nói trong lúc chưa mời được người đào tạo xuống ngân hàng mình để dạy thêm cho cô thì bà nói cô hãy vào chỗ chứa hồ sơ xếp tất cả mọi hồ sơ trên kệ theo số thứ tự nhé, xin cô theo tôi.

Một phòng rộng lớn với mười dãy kệ bằng sắt để chứa hồ sơ đặc kín được quay bằng tay, một núi hồ sơ dưới đất chờ để được sắp lên kệ mà đã lâu lắm chưa có ai vào xếp cả vì thiếu nhân viên và ai cũng bận rộn tiếp khách. Cô thư ký trẻ, mới vào làm, nhoẻn cười với tôi:

- Cô cứ ở đây sắp xếp hồ sơ nhé, khi nào có sự chỉ đạo nào khác của bà giám đốc Leclerc thì tôi sẽ xuống gọi cô sau!

Cô để mặc tôi một mình trong một căn phòng rộng lớn lạnh ngắt mới xây này, tôi cảm thấy mình bé bỏng, uất ức như cô bé lọ lem bị phải nhặt hết ba thúng đậu đen đỏ!

Khi những ngân hàng gộp lại thì số lượng hồ sơ tăng gấp ba bốn lần so với lúc xưa, phòng chứa hồ sơ với bốn bức tường bằng đá chống cháy, thêm máy điều hòa không khí nên khá lạnh; tôi bắt tay vào công việc mới tuy không trực tiếp với khách hàng như xưa, nhưng qua những hồ sơ này, tôi “thấy” được những thông tin tài chính cá nhân, hoặc doanh nghiệp của họ, những notes để lại trong hồ sơ, tôi đều đọc và biết tình hình của những khách hàng đã từng đến ngân hàng, dưới sự chỉ huy của tôi thuở ấy đã thay đổi như thế nào trong gần hai năm qua. Tôi không còn thấy buồn nữa mà cảm thấy khá thú vị.

***

Một tháng trôi qua, tôi vẫn ngoan ngoãn xếp hồ sơ, một công việc nhàm chán, lẽ ra chỉ để cho một nhân viên thường (không có cấp bậc) làm, nhưng họ lại để một người giám đốc vào làm công việc ấy thì thật tình hơi lãng phí tiền bạc của nhà bank, nhưng tôi không phải là người quyết định, cũng không thể tâm sự cho ai biết được điều này mà chỉ biết kiên nhẫn làm theo sự phân công của cấp trên mà thôi. Tôi nghĩ đây chính là thử thách của tôi khi trở lại làm việc dưới sự chỉ huy của một kẻ khác tiếng nói, văn hóa và lại mang tính tỵ hiềm ganh ghét nữa, và tôi phải ráng làm sao phải vượt qua cái cửa ải này. Tôi tự nhủ phải thật kiên nhẫn đây!

Thấy tôi buồn rầu khi đi làm về, chồng hỏi tại sao, tôi trả lời ỉu xìu:

- Em …bị đì!

- Tại sao bị đì, em lúc nào cũng nói chỗ em làm ai cũng yêu thương em mà, làm sao mà bị đì chứ? Cái bà “đỡ đầu” của em đâu rồi?

- Bả đã đổi đi chi nhánh khác rồi!

-… Hay nghỉ ở nhà trông hai thằng con đi vậy!

- Thôi bao nhiêu công lao em học hành, em ráng chịu một thời gian xem có thể chuyển hóa được bà này không… Chả lẽ sự nghiệp của em vô cớ lại đóng lại ở đây sao chứ!

***

Những cố vấn tài chính trong nhà bank đều là người từ những chi nhánh khác đến, không biết tôi trước đó nên tưởng tôi là nhân viên hạng hai (ngân hàng có nhiều cấp bậc, hạng hai là tellers, cashier), họ gọi tôi lấy hồ sơ này, xếp hồ sơ nọ, nhờ tôi đánh máy những ghi chép, phân tích của họ vào máy sau một buổi gặp khách như đứa lon ton. Tôi vẫn cố vui vẻ làm việc với họ, còn giúp họ thêm vài chi tiết để hồ sơ được rõ ràng mạch lạc hơn nữa. Bên cạnh đó tôi còn đưa ra những đề nghị thêm những khoản đầu tư an toàn cho người lớn tuổi, chuyển phần hưu trí của họ thành tiền tiết kiệm có thể rút ra không cần hạn kỳ nào cả và không bị trừ thuế v.v. Lúc nào cũng phải khéo léo nhỏ nhẹ để đừng làm những người cố vấn mới vào nghề bị tổn thương, và cũng không muốn để người khách hàng phải chịu thiệt thòi vì sự thiếu kinh nghiệm của họ.

Từng chút một, tôi bỗng trở thành người “cứu hộ” về tài chánh bất đắc dĩ, bận rộn, hết chạy qua phòng cố vấn này đến phòng cố vấn khác để giúp họ cho ý kiến về đầu tư, giúp họ đặt vấn đề với những gia đình trẻ nên có plan đóng tiền học cho con từ lúc mới sanh, rồi giúp họ vào máy làm việc nên qua đó tôi cũng tự update cho mình mà không cần phải chờ coach đến nữa vì cả tháng nay người thầy này thật bận rộn với những chi nhánh khác chưa có thì giờ xuống chỗ tôi.

Khi chúng tôi cùng ăn trưa, cô Kate mà tôi thường giúp đỡ, nói với mọi người:

- Chúng mình thật may mắn gặp Lyly có nhiều kinh nghiệm giúp mình làm hồ sơ cho khách!

Người cố vấn khác nói thêm:

- Ủa mà sao Lyly không thi lên chức cố vấn đầu tư mà lại chỉ làm xếp hồ sơ thôi vậy? Tôi thấy phí quá; cô có thích lên chức không? Chi nhánh mình cũng đang cần người đấy, cô mà thi lên được thì chắc chúng tôi sẽ rất hạnh phúc có người bạn giỏi như thế, cô sẽ có nhiều thì giờ dậy chúng tôi thêm kỹ năng!

- Mình phải đem ý tưởng này nói với bà Leclerc, giám đốc nhân sự mới được!

Kate tiếp lời:

- Nhưng… bà ấy khó tính lắm, nói nhỏ thôi nhé, bà chỉ thích người bản địa thôi, người ta nói bà có một quá khứ không đẹp, mẹ bà là người Châu Á, Mã Lai thì phải, cha là người Tây, mẹ đã bỏ bà khi còn nhỏ đi theo một người đàn ông khác giàu có, khi bà mới có hai tuổi nên bà rất ghét người Á Châu nói chung, từ đó có tính phân biệt chủng tộc, lại có cuộc hôn nhân không tốt, bà sống một mình với thằng con trai không thích học hành mà chỉ thích hút sách thôi... Các bạn thấy đó trong chỗ mình làm có ai không phải là người Canadian chính gốc đâu, trừ Lyly!

- Nhưng Lyly lại rất giỏi và dễ thương, từ trước đến giờ chưa có ai chịu vào xếp hồ sơ cả, mà từ ngày có Lyly là cái đống hồ sơ đó được xếp ngay ngắn trên kệ, đã vậy cô ấy còn chu đáo dán từng vần ký tự cho mỗi hàng hồ sơ để tìm cho dễ nữa chứ, tôi phục quá, phải là người có đầu óc sắp xếp và logic đó!

Để cám ơn tôi, mọi người đem cơm trưa cho tôi ăn, kể chuyện gia đình của họ cho tôi nghe, cho tôi xem hình ảnh chồng con, tôi vẫn im lặng nuốt cục ức vào trong, không dám tâm sự bản thân cho ai nghe cả; còn bà giám đốc thì hình như đang trút cơn đau đớn, phẫn nộ của bản thân lên đầu tôi, nên không hề gọi tôi lên để trao trả lại chức giám đốc tuy tôi vẫn cứ nhận lương với chức vụ ấy, mà làm việc “lon ton”.

Mỗi buổi sáng đi làm, ngang phòng làm việc của bà Leclerc, tôi thấy bà đến rất sớm, ngồi yên lặng quay lưng ra phía cửa sổ, nhìn xuống phía sân sau bãi đậu xe của nhân viên, bà ngồi bất động như có nhiều tâm sự lắm, bà chả nói chuyện với ai, đi làm sớm, về đúng giờ, chả bao giờ thấy bà đi ăn trưa với những giám đốc khác; tôi bỗng thấy tội nghiệp bà hơn là oán trách và một chút niềm cảm thông của một người mẹ dâng lên, tôi đưa tay gõ nhẹ vào cửa phòng, bà quay lại ngạc nhiên thấy tôi, đôi mắt bà mở lớn như muốn nói điều gì đó, rồi lại cụp xuống, yên lặng; tôi niềm nở, lên tiếng:

- Chào bà Leclerc, bà khỏe không?

- Tôi nghe nói cô đã xếp hết cả đống hồ sơ vào kệ rồi phải không?

- Vâng, thưa bà!

- Tôi muốn nhờ cô điện thoại liên lạc với những khách hàng để bán những visa VIP mới của ngân hàng mình…Cô làm được chứ?

- Vâng, tôi sẽ làm.

- Vậy đây là danh sách khách, cô đi làm đi!

- …Tôi sẽ làm khi 8:00, bây giờ tôi muốn… mời bà một tách trà xanh, bà thích thử không ạ?

- …Trà xanh?

- Dạ vâng!

- Bố tôi đã từng kể cho tôi nghe, mẹ tôi rất thích trà xanh… Khi chúng tôi dọn nhà, trong tủ của bà ấy chỉ toàn là những túi trà xanh mua tại Việt Nam…

Tôi chưa bao giờ uống thử vì tôi ghét những gì thuộc về kỷ niệm… Nhưng hôm nay tôi sẽ uống…

- Bà chờ tôi một chút nhé, để tôi xuống bếp nấu nước sôi và đem lên cho bà…

- Thôi, để tôi đi theo cô!

Lần đầu tiên tôi thấy bà mỉm cười, chỉ một chút rồi khép lại ngay như giữ cho mình vẻ nghiêm khắc hàng ngày.

Trong lúc tôi nấu nước sôi, bỏ trà vào bình, bà nhìn tôi rồi khẽ nói:

- Đêm hôm qua, tôi nằm mơ một giấc mơ rất dễ sợ, cả nhà tôi bị cháy tiêu, ngọn lửa lên cao quá đầu, tôi sợ hãi la hét trong đêm và bật dậy mồ hôi toát đầy mình, không ngủ lại được nữa nên mới đi làm sớm hôm nay… Tôi không biết có chuyện gì xảy ra không!

Tôi nhìn thẳng vào mắt bà, trấn an:

- Nếu bà tin tôi, hãy chờ từ nay đến một tuần, bà sẽ có tin tốt, một tin vui về gia đình con cái hay người thân nhất của bà. Tôi chỉ biết nói vậy thôi, đó là giác quan thứ sáu cho tôi biết, bây giờ mời bà dùng trà xanh.

- Cám ơn cô rất nhiều nhé, tôi không ngờ cô có giác quan thứ sáu đoán được giấc mơ, tôi sẽ cho cô biết nếu có tin vui. Ah! Hôm nay người đào tạo đến ngân hàng mình, sẽ làm việc với cô đó, tôi quên mất từ sáng tới giờ vì bị giấc mơ ám ảnh mãi, tôi lo cho thằng con trai, nó vẫn mãi không lớn lên được; sau khi uống ly trà xanh này tôi mới tỉnh lại đó. Tôi chắc chắn cô sẽ học rất nhanh với ông ta đấy, ông rất nhiều kinh nghiệm và rất thực tế trong việc giải quyết vấn đề tài chánh.

8:00 chúng tôi trở lại phòng làm việc, Kate đi qua phòng tôi, dừng lại khẽ hỏi:

-Lyly, sao hôm nay tôi lại thấy bà “ấy” mở miệng nói chuyện riêng với cô thế? Chắc chút nữa trời sẽ đổ cơn mưa lớn ngập đường đây!

- Hahaha thì “sông có khúc, người có lúc” mà!

- Thế thì bạn gặp may rồi đấy! Chúc may mắn nhe!

Kate đưa ngón cái số 1 lên, rồi nhanh nhẹn về phòng.

Ông coach đi bên cạnh bà Leclerc xuống phòng tôi, bà giới thiệu:

- Đây là ông Christian Maheu sẽ dạy cho cô về software mới về cách làm sao nhập vào hồ sơ tài chánh của ngân hàng mình và những chi nhánh khác, ngoài ra ông còn chỉ cho cô tất cả công việc gì cô muốn hỏi, ông rất giàu kinh nghiệm…

Bà giám đốc chưa nói hết câu, ông Maheu đã la lớn khi thấy tôi bước ra khỏi phòng chào ông với nụ cười tươi, ông tiến đến ôm lấy tôi hôn lên hai má như hai người bạn thân lâu ngày gặp lại:

- Cô Lyly đây mà! Lâu quá không gặp cô, bây giờ gia đình ra sao rồi, chắc hai cu cậu để nhà trẻ hả? Hay ông bà ngoại canh? Tôi tưởng dậy cho ai chứ dậy cho cô Lyly thì chừng hai tuần là xong hết, cần gì tới ba tháng! Ủa mà chi nhánh nhà thương Ste Justine đóng cửa rồi hay sao cô lại đến đây, thưa cô giám đốc?

Lúc ấy tôi thấy chung quanh là những bạn cố vấn đứng đầy xung quanh vì tiếng nói như cái loa phát thanh của Maheu, họ đều ngạc nhiên nói với nhau:

- Lyly là… giám đốc chi nhánh nhà thương sao?

Ông Maheu gật đầu xác nhận:

- Phải! Sao mọi người lại ngạc nhiên chứ? Tôi đã thường xuống Ste Justine để dậy cho những người cố vấn mới vào đó mà... Bà Leclerc không nói gì sao?

Lúc ấy tôi thấy bà giám đốc vẻ bối rối, lúng túng:

- Tôi …xin lỗi mọi người đã không giới thiệu khi cô Lyly trở về đây làm việc, vì chỗ cô ấy đã có người mới thay thế nên tôi không tiện nói, cô ấy chính là giám đốc của chi nhánh Ste Justine, cô ấy có một quá khứ làm việc rất đáng ngưỡng mộ; sau khóa học này cổ sẽ chuyển đến một chi nhánh khác làm về đầu tư cho những người có cổ phần từ năm triệu trở lên; cô ấy đã từng làm việc với các bạn được hơn ba tháng nơi đây rồi, ai cũng thấy cô là người sống có tấm lòng và rất có trách nhiệm trong công việc phải không?!

Tôi nghe trong đám đông xì xầm:

- Thì ra Lyly là giám đốc…

- Hèn chi…

Tôi quay lại, lần đầu tiên bắt gặp ánh mắt của bà Leclerc đầy thiện cảm với tôi, chứ không còn xa lạ dửng dưng như những ngày đầu nữa, tôi biết mình đã chuyển hóa được trái tim « băng giá » của bà, mỉm cười cảm động:

- Cám ơn bà đã giành cho tôi những lời lẽ quá tốt đẹp, tôi mong đem hết sức mình cống hiến cho xã hội và nơi tôi đang sống!

- Tôi thấy được điều đó qua những việc làm của cô và rất tin tưởng nơi cô!

***

Vài tháng sau đó, một buổi sáng khi tôi vừa vào đến văn phòng, ngạc nhiên thấy trên bàn một chiếc đồng hồ để bàn mạ vàng với logo nhà bank, và một cây bút pilot thật to, nặng, nạm vàng, đề tên tôi với một chiếc card cám ơn; đọc xong tôi ù té chạy lên văn phòng bà Leclerc, nhưng văn phòng bà đã đóng cửa, tắt đèn, bà đã không còn đó nữa, chỉ có cô thư ký gặp tôi, cô gật đầu chào tôi cung kính:

- Thưa cô Lyly, bà giám đốc đã gởi thư từ chức cả tháng nay rồi, bà đã rời sở làm từ chiều qua, bà nói sẽ đến một tỉnh khác ở với con trai, vì con trai bà đã bỏ hẳn hút sách, rượu chè, đã tìm được một công việc phù hợp với anh ta ở Calgary, cậu ta muốn mẹ lên ở với cậu ấy cho có mẹ con; bà nói đây là một tin vui mà bà đã chờ đợi từ lâu lắm rồi, nên bà đã dứt khoát bỏ Montreal, bỏ công việc và đi theo con, bà nói cậu ấy chính là nguồn sống cả đời của bà, bà không muốn con bà lại bỏ nhà đi hoang vì cảm thấy cả đời bơ vơ vì mẹ chỉ ôm ấp công việc, sự nghiệp riêng của bà mà thôi, bà chuyển lời cám ơn cô Lyly rất nhiều vì chính cô đã đem cho bà niềm hy vọng và tin tưởng trong cuộc sống, bà nhờ tôi nhắn với cô như thế!

***

Cây bút pilot, món quà may mắn mãi đi theo tôi cho đến ngày về hưu, mỗi lần nhìn thấy nó, xoa tay lên nó, như có ông thần hộ mệnh vậy, việc khó bao nhiêu cũng giải quyết được; cây viết chỉ là vật vô tri nhưng nó đã cùng tôi trải qua những kỷ niệm vui buồn, đấu trí, chịu đựng, gian nan trong việc kiếm miếng ăn nơi xứ người.

Bỗng tôi nảy ra một ý, phải giữ cây bút cho bóng bảy, màu vàng óng của ban đầu để sẽ trao lại cho thằng cháu nội sau này, thế hệ tiếp nối, nó sẽ tiếp bước bà nội, học giỏi, tạo dựng sự nghiệp, tương lai vững chắc, hơn hẳn thế hệ của chúng tôi:

Sự đời gió cuốn mây trôi,
Lòng người tĩnh tại, vạn lời hóa không.
Bền gan vững chí mà trồng,
Một ngày rễ vững, cây trông hóa rừng. (vô danh)

 

Sỏi Ngọc,

Montreal, Mars’25

Người Nào Biết Thứ Tha, Người Đó Buông Được Đau Khổ - Youtube Phan Ngọc Thuận

Tao Là Ngụy !


Nếu ai đó hỏi tao "Mày là ngụy à?"  Tao sẽ trả lời là phải. Nếu ai đó hỏi tao mày là con cháu ngụy à? Tao cũng sẽ trả lời là phải. Tao ngán phải thanh minh hay giải thích với chúng mày "Ngụy " là như thế nào?, xuất xứ từ đâu ra rồi. Bởi vì ngày hôm nay, tao tự hào tiếng "Ngụy"!

Tụi mày biết không? Tao sống trong chế độ Ngụy, một chế độ đặt Tổ Quốc trên đầu. Khi đi khắp các phố phường, các ngõ hẽm, tụi bây sẽ thấy dòng chữ " Tổ Quốc Trên Hết ".

Tụi mày biết không? Tao sống trong chế độ Ngụy rất nhân văn, văn minh, Y Tế, Giáo Dục miễn phí. Dẫu biết đó là tiền viện trợ hầu như là của Mỹ, nhưng chế độ chúng tao biết cách phải sử dụng tiền đó như thế nào để phát triển đất nước.

Tụi mày biết không? Tao được Giáo Dục bởi chế độ Ngụy, đi học trường Ngụy, nhưng không bao giờ dạy hận thù, hay kích động, dạy cho biết làm người, biết cư xử, biết vị tha. Còn nữa, tụi bây đâu biết rằng Giáo Dục Ngụy họ tàn nhẫn lắm. Sáng nào cũng phát bánh mì và sữa miễn phí. Tụi tao rất ngán, tới nỗi phải trốn. Trong lớp học, thằng học sinh nào mà học  giỏi thì thể như kêu thêm chiếc xích lô để khiên quà về.

Tụi mày biết không? Tao là một công dân của Ngụy , nhưng chúng tao chưa bị ngược đãi bao giờ cả. Chúng tao tự do đi lại, không cần hộ khẩu hay bất cứ thứ gì, muốn đi đâu thì đi, được bầu cử, được tự do biểu tình, được quyền phản đối. Họ đứng ra bảo vệ tao, thì là công dân chúng tao sẽ phải làm việc để đóng góp xây dựng đất nước.

Tụi mày biết không? Tao là Lính Ngụy, nhưng chúng tao luôn chiến đấu vì đất nước, vì dân của tao. Trong những trận chiến, chúng tao luôn đặt mục tiêu phải cứu dân ra hết khỏi vùng giao tranh, dẫu biết rằng muôn trùng khó khăn với tụi bây. Lắm lúc tụi bây giả dân thường, lắm lúc dân cấu kết với tụi bây. Lần lượt nhìn đồng đội bị phục kích, rơi bẫy, và chết tức tưởi.. tao căm thù lắm. Nhưng động lực nào đó khiến tao không thể ngưng lui bước. Chỉ vì một câu " Tổ Quốc, Trách Nhiệm và Danh Dự ".

Tụi mày biết không? Tao là lính Ngụy, nhưng chúng tao luôn vị tha. Chúng tao sẵn sàng đón tiếp tụi mày. Chúng tao sẵn sàng chiêu hồi tụi mày, để quay lại làm người, làm lại từ đầu, đừng lầm đường lạc lối nữa..... Tụi bây luôn luôn tấn công và chúng tao cũng luôn luôn phòng thủ. Nơi nào có tụi bây đi chiếm, thì nơi đó tụi tao sẽ phải tái chiếm.

Dẫu biết rằng chế độ Ngụy kia còn non trẻ, còn nhiều khuyết điểm, nhưng tin tao tin rằng, chế độ Ngụy đó còn hơn cả chế độ tụi mày gấp 10 lần, hay cả 100 lần.

Bây giờ tao là hậu sinh của tụi Ngụy đây. Chúng tao sẽ nối tiếp, sẽ chứng minh, sẽ phơi bày lịch sử, sẽ trả lại danh dự cho họ.  Và Chúng tao tự hào chữ  "Ngụy "!!!


Việt Nam Sử Liệu

m.

Tháng Ba Lần Bước - Đỗ Công Luận

Rạch Giá - Món Nợ Ân Tình - Đỗ Xuân Quý


Câu chuyện bắt đầu từ một chuyến đi định mệnh trong đời tôi.

Đêm khuya đầu tuần, tháng Ba năm 1979, bầu trời tối đen như mực. Những ngọn đèn đường vàng vọt, leo lét chẳng đủ soi tỏ bóng người đi phía trước. Không gian lặng như tờ, chỉ có tiếng xe thưa thớt vọng lại từ xa.

Chị tôi lặng lẽ đưa tôi ra bến xe Miền Tây trên chuyến xe lam nửa khuya, xuất phát từ chợ Trương Minh Giảng. Đích đến là Rạch Giá—một cái tên quen thuộc, nhưng mảnh đất ấy lại quá xa lạ với tôi. Nơi đó, tôi sẽ chờ tàu với hy vọng rời khỏi quê hương. Khi chiếc xe vừa chuyển bánh rời sân, tôi vẫy tay chào chị. Tôi vẫy tay chậm rãi, mà lòng tôi nặng trĩu ưu tư. Một cảm giác bất an len lỏi trong từng suy nghĩ.

Vất vả lắm chị mới lo được cho tôi một chỗ ngồi trên chiếc ghế xúp (ghế phụ) của chuyến xe khởi hành lúc 5 giờ sáng. Quãng đường chưa đầy 200 cây số, vậy mà kéo dài hơn 9 tiếng đồng hồ. Chiếc xe ì ạch bò qua những cây cầu, xuống phà, lăn bánh qua những con đường gập ghềnh, sình lầy, nước đọng đầy vũng. Chưa bao giờ Rạch Giá dường như xa xôi đến vậy.

Trời chạng vạng tối khi tôi đặt chân đến bến xe Rạch Giá. Một vùng đất hoàn toàn xa lạ. Tôi kéo thấp cái mũ tai bèo, lặng lẽ bước vào một quán cơm nhỏ nằm khuất sau những chiếc xe nằm ụ, chờ đến chuyến. Lòng vẫn chưa hết hoang mang… lo sợ.

Mỗi bước chân đi tìm chỗ trọ qua đêm đều nặng trĩu những âu lo. Tôi nhìn trước ngó sau, tưởng chừng có ai đó đang theo dõi mình. Đêm nay, tôi chỉ cần một chỗ tạm để nằm, một góc khuất nào đó có thể nương náu qua đêm. Cuối cùng, tôi cũng thuê được một chiếc chiếu rách, trải tạm lên nền đất ẩm lạnh ở một góc nhỏ bên hông bức tường cũ kỹ.

Bóng đêm bao trùm, mùi rác rưởi nồng nặc quyện vào hơi ẩm lạnh lẽo, tạo nên một thứ không khí đặc quánh, khó chịu. Tôi quấn chặt chiếc áo ka ki đồng phục màu cứt ngựa của thanh niên xung phong sờn cũ quanh người, thu mình vào bóng tối, lắng nghe những âm thanh thưa thớt, rời rạc của bến xe về khuya.. Chuyến đi này, tôi biết, chỉ mới bắt đầu…

 

Vì quá mệt mỏi, tôi thiếp đi lúc nào không hay. Khi giật mình thức giấc, những người xung quanh đã đi đâu mất từ bao giờ.Tôi bật dậy, ngơ ngác nhìn quanh. Không gian vắng lặng, chỉ còn lại những vệt bánh xe hằn trên nền đất sình lầy. Trời đã sáng hẳn. Tôi chưa biết phải làm gì, cũng chẳng biết tìm nước rửa mặt ở đâu, hay lấy gì để vệ sinh cá nhân.

Mùi cà phê thoảng ra từ những hàng quán bên cạnh, gợi lên một cảm giác thèm thuồng. Bụng đói cồn cào, nhưng cái đói đã trở thành điều quen thuộc. Tôi nhủ thầm: Chờ đến trưa rồi tìm một ổ bánh mì hay tô bún có nhiều rau cho đỡ tốn. Tôi không biết mình sẽ còn ở đây bao lâu, Nếu lỡ chuyến đi—nhưng ngay cả số tiền để quay về cũng chẳng dư dả mà số tiền mang theo chỉ đủ tiêu trong hai ngày nữa. Nếu lỡ chuyến đi, tôi còn phải giữ lại ít tiền để mua vé xe về lại Sài Gòn.

Tôi nhớ lời chị dặn: "Không nên đứng yên một chỗ, phải di chuyển liên tục trong bến xe, tránh ánh mắt tò mò của người khác."

Bất chợt, một cô gái xuất hiện.Cô có vẻ hiền lành, nhưng trong ánh mắt ẩn chứa một nỗi lo âu, như thể đang mang chung tâm trạng với tôi.. Cô lặng lẽ tiến sát lại gần, thì thầm bên tai tôi:

"Anh Quý phải không?"

Tôi giật mình, chưa kịp phản ứng thì cô nói tiếp, giọng nhỏ nhưng gấp gáp:

"Anh Đa nhắn, hôm nay chưa có tàu. Mình còn ở đây thêm vài ngày nữa."

Nói xong, cô quay lưng đi nhanh, để lại tôi đứng sững, chưa kịp định thần, lòng ngổn ngang những câu hỏi.. Một cảm giác khó tả tràn ngập trong lòng. Sau này, khi con tàu rẽ sóng ra khơi, tôi mới biết cô tên Dung – một người cũng ôm chung hy vọng như tôi.

Ba ngày vất vưởng nơi bến xe, tôi lang thang qua cầu Đúc, lẩn mình vào chợ Lồng, len lỏi qua những con hẻm chật chội, rồi men theo con đường đẫm gió biển.. Mùi sình lầy, hơi nước mặn nồng nặc quyện vào không khí, bất giác gợi tôi nhớ về quê nhà. Nhớ gia đình chị, nhớ người yêu chưa kịp từ giã của tôi.

Sang ngày thứ ba, khi đi ngang quầy cháo cá trong chợ Lồng, mùi hành phi thơm lừng bỗng khiến bao tử tôi cồn cào. Tôi thèm lắm, nhưng trong túi chỉ còn vỏn vẹn số tiền đủ mua vé xe về lại Sài Gòn.

Sau một thoáng đắn đo, tôi chậm rãi kéo nhẹ chiếc ghế nhựa, như thể sợ ai đó sẽ nhận ra sự túng quẫn của mình, rồi khẽ lên tiếng::

"Chị cho em tô bún lòng cá nhỏ."

Chị bán hàng ngước nhìn tôi, ánh mắt đượm chút cảm thông, nụ cười hiền hậu:

"Em mới ở thành phố xuống, đi mình ên à?"

Tôi khựng lại. Câu hỏi bất ngờ như một nhát dao rạch toang lớp vỏ bọc mà tôi đang gắng sức giữ chặt.. Tôi không dám trả lời.

Tôi húp vội muỗng nước lèo cuối cùng, đặt đũa xuống, lục nhanh những đồng tiền lẻ trong túi, rồi hấp tấp rời khỏi quán. Không dám nhìn lại.

Đúng sáu giờ, như mọi ngày, tôi có mặt ở bến xe, mắt dáo dác tìm tín hiệu. Hôm nay, giờ khởi hành đã được ấn định. Một chiếc xe lôi ba bánh đậu sẵn bên đường, động cơ vẫn nổ lạch phạch. Tôi nhận ra cô gái đưa tin – người đã khẽ thì thầm với tôi ba ngày trước. Cô đã ngồi yên vị trên xe, ánh mắt lặng lẽ lướt qua tôi như nhắc nhở.

Không chần chừ, tôi nhanh chóng bước lên xe, chiếm lấy chỗ trống cuối cùng ở thùng xe lôi. Người tài xế không nói gì, chỉ nhấn ga nhẹ, chiếc xe lắc lư chuyển bánh, hòa vào bóng tối chạng vạng của phố xá.

Chiếc xe lắc lư qua cầu Đúc, rồi đột ngột rẽ phải, xuyên vào khu chợ đông đúc, như thể đang dò xét động tĩnh. Không lâu sau, xe vòng ngược trở lại, lặp lại hành trình ban nãy.  

Từng khúc cua, từng cú nghiêng nhẹ của chiếc xe đều toát lên sự cẩn trọng. Không ai trên xe cất lời, chỉ có tiếng động cơ lạch phạch vang lên giữa không gian chạng vạng.

Tôi cảm nhận được sự cẩn trọng trong từng chặng đường. Khi đến mép cầu, xe rẽ trái, tiếp tục chạy dọc theo con sông.

Những căn nhà sàn chênh vênh trên mặt nước lấm tấm ánh đèn dầu, hắt xuống mặt sông đen thẫm những vệt sáng mờ ảo, chập chờn như chính số phận những con người đang sắp sửa dấn thân vào hành trình định mệnh.

 

Những căn nhà sàn chênh vênh trên mặt nước bắt đầu lên đèn, ánh sáng leo lét phản chiếu xuống mặt sông đen sẫm. Tiếng máy ghe từ xa vẳng lại, hòa vào tiếng nước vỗ vào chân nhà sàn, tạo nên một âm thanh buồn bã, dường như càng nhấn chìm tôi vào tâm trạng lo âu, hồi hộp.

Khi xe dừng hẳn, chúng tôi lặng lẽ bước xuống. Trời đã nhá nhem tối, tôi cảm nhận được hơi nước lạnh bốc lên từ lòng sông. Không ai bảo ai, tất cả men theo những ván gỗ, lội bì bõm qua con nước cạn để đến một chiếc ghe đang chờ sẵn, nép mình bên những trại cưa chứa đầy ván gỗ.

Tôi rùng mình. Khoảnh khắc này, tôi biết… chuyến đi đã thật sự bắt đầu.


Nỗi sợ hãi càng dâng cao khi tôi nhận ra chiếc ghe nhỏ bé chỉ chứa vỏn vẹn 21 người, cả trẻ em lẫn người lớn, mà nước đã bắt đầu tràn vào, liếm dần theo mép ghe. Chúng tôi không dám thở mạnh, chỉ biết nằm im chờ đợi.

Sau hơn sáu giờ căng thẳng, khi thủy triều rút, ghe từ từ luồn qua gầm cầu trong gang tấc.Nhưng niềm vui chưa kịp nhen nhóm thì tai họa ập đến—ghe mắc cạn! Con nước rút nhanh hơn dự tính, để lại chiếc ghe kẹt cứng giữa những bãi bùn lầy. Không ai dám thở mạnh, tim tôi đập thình thịch trong lồng ngực.Tròng trành giữa con nước cạn, chúng tôi tưởng chừng như mọi thứ đã chấm dứt ngay tại đây. Thế nhưng, sau bao nỗ lực, bao lần nín thở trước những tình huống hiểm nguy, cuối cùng, chiếc ghe cũng thoát ra được, lao về phía vùng hải phận quốc tế.

Ba ngày ba đêm lênh đênh giữa đại dương mênh mông, đối diện với bao thử thách: đói khát, sóng gió, nỗi ám ảnh từ những chiếc thuyền cướp biển vô tình lướt qua. Không còn lương thực, không một giọt nước uống, chúng tôi chỉ còn biết bám víu vào niềm hy vọng mong manh. Và rồi, phép màu đã đến—chúng tôi đặt chân đến đất Thái Lan.

Từ đó, hành trình tìm tự do đưa mỗi người đến một nơi. Hầu hết chúng tôi được định cư tại Hoa Kỳ và Úc.


Sau sáu năm vật lộn với cuộc sống mới nơi đất khách quê người—trải qua bao khó khăn, thử thách, và cả một mối tình dang dở—đến khi mọi thứ tạm gọi là ổn định, tôi mới nghĩ đến việc tìm kiếm một nửa của mình. Và rồi, như một sự sắp đặt của số phận, tôi gặp một cô gái Rạch Giá—người con của mảnh đất từng cưu mang tôi trong những ngày gian khổ nhất.


Như một cách trả ơn cho đời, tôi nên duyên với cô, cô là cháu gái của một ông chủ trại cưa—cái trại cưa từng che chở, giúp tôi có một góc trú ẩn an toàn trước đêm vượt biển định mệnh. Như một vòng tròn khép kín của số phận, mảnh đất từng là điểm khởi đầu cho hành trình trốn chạy nay lại trở thành nơi tôi neo đậu cuộc đời. Ngày ấy, tôi ra đi với đôi bàn tay trắng. Ngày trở lại, tôi không chỉ có một mái nhà, mà còn có một tình yêu—tựa như món quà mà Rạch Giá đã dành sẵn cho kẻ lữ hành năm xưa.

Sau này, khi cuộc sống đã ổn định, tôi có cơ hội đưa vợ và ba đứa con trở về Rạch Giá nhiều lần, dù gia đình vợ tôi không còn bà con thân thích ở Rạch Sỏi hay Rạch Giá. Lần đầu tiên trở lại, tôi ngỡ ngàng trước những đổi thay của vùng đất năm xưa.Cổng tam quan ngày nào đã biến mất, bến xe cũ chìm vào ký ức, phi trường đối diện giờ hóa thành những tòa nhà cao tầng sừng sững. Những con đường ngày xưa tôi từng lầm lũi đi qua giờ rộng thênh thang, nhộn nhịp xe cộ, như thể chưa từng có một quá khứ lặng lẽ và âm thầm. Bệnh viện, trường Trung học Nguyễn Trung Trực vẫn còn đó, nhưng những kỷ niệm của tôi với nơi này dường như chỉ còn vương trong ký ức.

Cây cầu Đúc vẫn trầm mặc qua năm tháng, soi bóng xuống dòng nước lặng lờ. Nhưng chị bán bún cá nước lèo trong chợ Lồng—người phụ nữ với ánh mắt hiền hậu từng khiến tôi hoảng hốt năm xưa—đã chẳng còn ở đó. Tôi tự hỏi, giờ này chị đang ở đâu? Chị đã rời xa nơi này, hay đã lặng lẽ hòa vào dòng chảy thời gian, như bao phận người thầm lặng khác?, hoặc cũng có thể… chị chẳng bao giờ biết có một chàng trai trẻ năm xưa từng né tránh ánh mắt của chị trong một buổi chiều xa lạ và đầy lo âu.

Thời gian có thể làm phai mờ cảnh vật, nhưng lòng tôi vẫn vẹn nguyên một nỗi biết ơn. Biết ơn Rạch Giá—không chỉ vì đã cưu mang tôi trong những ngày chông chênh, mà còn vì đã cho tôi một gia đình: một người vợ hiền thục, chung tình, mẫu mực, một người mẹ tận tụy yêu chồng thương con.

Giữa những bữa cơm chiều đầm ấm, tôi kể cho các con nghe về Rạch Giá, về hành trình tìm tự do của mình, và về món nợ ân tình mà tôi mãi mãi mang theo.

Có lần, cậu con trai bất ngờ quay sang mẹ và nói:

"Quê của Dad đâu phải Đà Nẵng nữa Mom… mà là Rạch Giá rồi!"

Rạch Giá—tôi mãi mãi biết ơn mảnh đất này.


ĐXQ tháng 3-2025

Sunday, March 30, 2025

Đọc Và Suy Ngẫm: Sức Khỏe

 

"SỨC KHOẺ !"  

1. Thời hạn của cuộc đời tùy thuộc sức khỏe, còn sức khỏe thì do cách sống quyết định.

2. Có gì cũng được trừ có bệnh, không có gì cũng được trừ không có tiền, thiếu gì cũng được trừ thiếu sức khỏe.

 Sức khỏe không phải là tất cả nhưng không có sức khỏe sẽ chẳng có thứ gì!

3. Người kiếm cớ, vin vào những lý do không có thời gian rèn luyện cơ thể sớm muộn sẽ phải bỏ thời gian ra để đi chữa bệnh!

4. Người Thông Minh Thì Phòng Bệnh

 (Chăm sóc Bản Thân, Chăm Sóc Cuộc Sống),
Người Bình Thường Thì Chờ Bệnh

 (Ốm Đau Rồi Mới Đi Khám, Chữa Bệnh)
Người Kém Thông Minh Thì Tự Gây Bệnh (Hút Thuốc Lá, Uống Rượu Bia Quá Nhiều, Ăn Uống Vô Độ…)

5. Vận động hầu như có thể thay thế cho bất kỳ một thứ thuốc nào.

 Nhưng bất kỳ một thứ thuốc nào cũng không thể thay thế cho vận động.
6. Cái gì cũng có thể không tốt nhưng tâm trạng không thể không tốt.

 Cái gì cũng có thể thiếu nhưng tự tin thì không thể thiếu.

 Cái gì cũng có thể không cần nhưng vui vẻ thì bắt buộc phải cần.

 Cái gì cũng có thể quên nhưng việc rèn luyện sức khỏe

không được phép quên.
7. Sức khỏe là lựa chọn, không phải điều bí ẩn của sự ngẫu nhiên.
8. Sức khỏe không phải là thứ chúng ta có thể mua. Tuy nhiên, nó có thể là một tài khoản tiết kiệm hết sức giá trị.

9. Sức khỏe là thứ mà ta không nhìn thấy được, là yếu tố sống còn của mỗi con người.

 Hãy nâng niu quý trọng sức khỏe, đừng để khi mất rồi mới thấy hối tiếc.
10. Chính sức khỏe mới là sự giàu có thực sự, không phải vàng và bạc.
11. Giấc ngủ là sợi dây vàng liên kết sức khỏe và cơ thể bạn.
12. Chỉ khi người giàu ốm, họ mới hiểu sự bất lực của giàu sang.
13. Từ những cay đắng của bệnh tật người ta mới học được sự ngọt ngào của sức khỏe.
14. Đừng bao dùng hết sức khỏe của bạn chỉ để đổi lấy đồng tiền.
15. Sức khỏe thật sự là một món của cải to lớn mà không thể đong đếm bằng giá trị của vàng bạc.
16. Vẻ đẹp bên ngoài bắt nguồn từ sức khỏe bên trong.
17. Bạn nên tin rằng món quà quý giá nhất mà bạn có thể tặng cho gia đình bạn và cả thế giới này đó chính là sức khỏe của bản thân bạn.
18. Cơm là món thuốc nuôi thân.
Ăn uống giờ giấc cân bằng dẻo dai.
19. Một thân thể không ốm đau, một tinh thần không loạn: đó là hạnh phúc.
20. Không có gì quý giá hơn là sức khỏe tốt. Đó chính là tài sản giá trị nhất của một con người.
 

Sưu tầm

Thông Tầm Với Tay - Đỗ Công Luận

Đi Giữa Bầy Thú Dữ - Lâm Chương


Chúng tôi theo xe hàng từ Phnom Penh lên cảng Kampong Som, trễ mất gần hai tiếng đồng hồ. Ngày đã xế, nhưng nắng còn đổ lửa trên đầu. Trời đứng gió, cái nóng hừng hực như hắt ra từ lò sấy. Người dẫn mối cứ thôi thúc nhanh lên, nhanh lên. Đồ đạc cái xách cái mang tất tả đến được điểm hẹn, chúng tôi mệt phờ người. Ba gã chủ chốt người Miên còn kiên nhẫn chờ trên đầu dốc nơi ngã ba đường lên chợ, dưới bóng râm của một tàng cây. Hai gã ngồi trên hai chiếc xe Honda, phì phà điếu thuốc. Gã thứ ba đứng dựa lưng vào gốc cây. Thấy chúng tôi tới, họ bu lại vồn vã, cùng lúc những chiếc xe đò cổ lỗ xỉ ì ạch bò lên dốc. Khói xe và hơi nóng phả vào mặt. Đây là lần đầu tiên tôi gặp họ. Người dẫn mối giới thiệu chúng tôi bằng tiếng Miên. Họ cũng tự giới thiệu lại mình. Một gã tên Nu da xám, môi chì, mắt trắng, nói thạo tiếng Việt. Hai gã kia chỉ nói tiếng Miên, tên khó nhớ. Gã tóc quăn, có bịt răng vàng. Giữa cái răng vàng cẩn hình trái tim. Gã thứ ba mặt mày sáng sủa đẹp trai, Tàu lai Miên. Tất cả, trạc tuổi ngoài ba mươi, mặc đồ chải chuốt lịch sự, tư cách đàng hoàng đáng tin cậy.


Tôi xin lỗi vì trễ hẹn, và giải thích rằng đường từ thủ đô lên cảng có quá nhiều trạm kiểm soát làm mất thì giờ.

Gã tên Nu nói không sao, làm ăn đôi khi trễ nải là chuyện thường. Gã cho biết về phần gã đã chuẩn bị đâu đó xong xuôi, còn phần tôi thì sao?

Tôi nói: “Cũng sẵn sàng.”

Gã hỏi nhỏ: “Có đem theo đủ số không?”

“Đủ. Đi liền bây giờ chưa?”

“Dĩ nhiên.”

Nu quay qua nói với hai gã kia điều gì đó. Trông họ rất phấn khởi. Tôi cũng mừng. Dù trễ hẹn, nhưng mọi việc vẫn tiến hành đúng như dự định.

Xe Honda bắt đầu nổ máy kêu lụp bụp như con ngựa cuồng chân nóng nảy lên đường. Tôi chào từ giã người dẫn mối. Anh là người Việt sống lâu năm ở Kampuchia, cũng là người cuối cùng của đường dây tiếp nhận lúc chúng tôi mới đặt chân đến Phnom Penh. Nhiệm vụ của anh là hướng dẫn, và giao chúng tôi cho người chủ chốt. Anh ta bắt tay tôi lần chót, chúc may mắn. Nu cho biết sẽ đi về hướng Tân Hao, bảo vợ con tôi ngồi xe của gã Tàu lai. Con tôi ngồi giữa. Vợ tôi ngồi sau, choàng tay qua đứa con, ôm eo gã Tàu lai. Nu và tôi đi chung với gã răng vàng. Mỗi chiếc Honda chở ba người. Xe chạy. Tôi ngó ngoái về phía sau, thấy người dẫn mối còn giơ tay vẫy vẫy.


Đường đi Tân Hao rộng thoáng. Mặt đường không tráng nhựa. Nhiều đoạn lởm chởm trơ ra những sỏi đá, hoặc trũng thành ổ gà. Thế nhưng hai chiếc Honda vẫn phóng như bay. Không khéo cán phải đá hay vấp ổ gà, quăng cả lũ xuống đường, sứt tay gãy gọng như chơi. Tôi nói với Nu, bảo gã lái xe chạy cẩn thận hơn. Nu cười rằng đừng lo, gã đã từng lái xe trên đường này hàng trăm lần rồi, chưa bao giờ xảy ra tai nạn.

Hai bên đường là rừng. Có lúc xe chạy ngang qua trảng trống, hoặc đồng cỏ tranh. Nhìn xa xa về bên trái, thấy bờ biển và mặt nước xanh rờn, bao la ngút mắt. Mùa này, gió lặng sóng êm. Mặt biển láng như trải lụa. Vùng biển từ đây tới Lem Ngộp, Nu bảo đảm không có hải tặc. Mọi việc chắc chắn sẽ êm xuôi. Và vào khoảng quá nửa đêm, sẽ đặt chân lên bờ biển Thái Lan. Nghĩ tới một chân trời mới sẽ mở ra cũng đủ thấy đời tươi đẹp. Tự nhiên yêu biển lạ lùng.

Xe đang chạy, Nu bảo: “Sắp tới nơi rồi. Đưa vàng.”

Tôi hỏi: “Sao không chờ lúc xuống bãi?”

“Tới nơi là gấp rút chạy ào xuống bãi lên ghe. Nếu lằng nhằng mất thì giờ vì chuyện này, sẽ bể việc lớn.” 

Cũng có lý. Cái giờ phút quan trọng nhất là lúc bắt đầu lên ghe. Thành hay bại cũng từ nơi khởi điểm này. Tôi nghĩ, chiếc ghe đã chờ sẵn ở đâu đó. Honda vừa ngừng là chúng tôi nhào lên ghe liền. Bọn an ninh bờ biển có trở tay cũng muộn. Bởi người đầu mối đã cho biết, ghe được trang bị máy bốn lốc đầu bạc. Tôi chẳng biết máy bốn lốc đầu bạc là máy gì, mạnh yếu ra sao? Nhưng người ta đã khoe như thế thì chắc là phải ngon lành lắm. Dù công an tuần duyên có đuổi theo, cũng đành ngửi khói mà thôi. Chúng tôi sẽ chơi một cú thật ngoạn mục. Hồi hộp bất ngờ giống như phim trinh thám. Còn chuyện đưa vàng, trước sau gì cũng đưa. Thôi thì đưa ngay bây giờ, đổi lấy một chuyến đi định mệnh. Tôi luồn tay vào cái túi nhỏ may dính dưới đũng quần lót, móc hai thỏi vàng, đưa cho Nu. 

Gã đặt vàng trong lòng bàn tay nâng thử để ước lượng sức nặng, rồi nhét vội vô túi.

“Chưa đủ.” Gã nói khi xe đang chạy.

Tôi nói: “Còn hai cây nữa, vợ tôi cất.”

“Bảo vợ anh đưa ngay bây giờ.”

Tôi gật đầu.

Nu nói tiếng Miên với gã răng vàng. Gã này phóng xe lên song song với gã Tàu lai. 

Tôi bảo vợ: “Anh đưa vàng rồi. Em đưa luôn cho họ đi.”

Vợ nói: “Chờ xuống bãi.” 

“Họ muốn ngay bây giờ.”

“Ngồi trên xe, không lấy ra được.”

Tôi biết lý do vợ tôi không thể lấy vàng lúc này.

Tôi nói với Nu: “Anh nghe chưa?”

“Tôi nghe. Xuống bãi đưa.” 

Ba gã lại nói líu lo. Xe vẫn phóng như bay, tới một khoảng rừng rậm, họ dừng lại đột ngột. Nu nắm tay vợ con tôi lôi bừa, khom người chạy lúp xúp men theo rặng phi lao, vào rừng. Có lẽ gã sợ những chiếc xe đò ngang qua nhìn thấy. Tôi ôm cái túi xách, hấp tấp chạy theo. Hai chiếc Honda bỏ chúng tôi lại đó, vọt thẳng về hướng Tân Hao. Chúng tôi luồn lách qua những lùm bụi gai góc, đến một con suối cạn. Mùa nắng, lòng suối khô phơi bày cát đá.

Vừa ngồi xuống, Nu bảo: “Núp ở đây, chờ ghe đến, mình sẽ ra bãi.”

Tôi hồi hộp, tinh thần căng thẳng đến cùng tột. Nếu bị lính Miên bắt quả tang đang núp ló để chuẩn bị lên ghe thì đời khốn nạn ngay. Vợ con tôi ngồi nép vào nhau, thở hổn hển, mặt xanh như tàu lá.

Tôi hỏi: “Anh có đi theo ghe với chúng tôi không?”

Nu nói: “Tôi đưa anh tới Thái Lan.”

Rồi gã nhìn vợ tôi, xòe tay ra: “Đưa vàng cho tôi.”

Cách nói chuyện của Nu thẳng thừng, cử chỉ thô lỗ. Tôi nghĩ gã là người Miên quen tính bộc trực nên cũng không lấy đó làm khó chịu. Chỉ cảm thấy có điều gì bất thường, khi vợ ngó tôi, ngầm hỏi ý kiến. Xuống xe, chúng tôi chạy ào, nhưng không phải ào lên ghe như Nu diễn tả, mà ào vào rừng. Ghe đâu không thấy. Thế thì có gì gấp rút? Kế hoạch thay đổi chăng? Dẫu sao, đã tới mức này rồi, một liều ba bảy cũng liều. Tôi nhìn vợ, gật đầu.

Vợ tôi đứng dậy, đi khuất vào bụi rậm. Tôi biết vợ đang móc vàng từ trong cửa mình.


Trong chuyến mang vàng lên Kampuchia. Vợ giao tôi cất giữ năm khâu vàng, còn bao nhiêu vợ giữ. Lúc qua biên giới Việt- Miên, công an biên phòng xét hỏi. Tôi sợ quá, nhét ba chiếc khâu vô hậu môn, nghe nhói cấn khó chịu. Còn lại hai khâu không biết giấu đút nơi nào, tôi cho vô miệng nuốt luôn, trước khi họ mò xét khắp người. Tôi qua khỏi, chỉ lo vợ bị rắc rối. Nhưng vợ tôi cũng qua luôn. Sau đó, tôi hỏi em giấu ở đâu mà tài thế? Vợ mỉm cười, không nói. 

Khi đến Phnom Penh, người dẫn mối gởi chúng tôi tạm trú nơi nhà người Miên. Tôi bắt đầu móc ba chiếc khâu trong hậu môn, nhưng thọt ngón tay vào không đụng. Không biết tại sao nó chạy tuốt vô sâu? Tôi hoảng. Vợ bảo, nó nằm trong phần ruột già, không đáng ngại. Khi đi cầu, phân sẽ tống nó ra trước.


Đúng như vợ dự đoán. Hôm sau tôi đi cầu. Thỏi phân như cục đất sét khô, đẩy ba chiếc khâu rớt xuống cái bô nhựa. Tôi dùng que bới cục phân, không tìm được hai chiếc khâu đã nuốt. Tôi tính đem đi đổ. Vợ giựt cái bô lại, bịt mũi rà tìm lần nữa. Vẫn không thấy. 

Ngày hôm sau, tôi không đi cầu. Bao nhiêu lo lắng dồn dập làm bộ tiêu hóa nổi chứng rối loạn bất thường. Vả lại mấy ngày không ăn rau, tôi bị táo bón. Vợ nóng ruột, mua cho tôi một liều thuốc xổ. Tôi uống thuốc với nhiều nước. Và nửa khuya đêm đó, như cái nút chai bung ra, tôi tháo dạ ào ạt. Quậy trong cái chất lợn cợn dậy mùi. May quá, bắt được một khâu. Còn một khâu đi đàng nào? 

Thêm ngày hôm sau nữa, tôi lại nín ỉa. Cứ vài tiếng đồng hồ, vợ bảo xách cái bô vô buồng ngồi rặn, quyết tìm cho ra chiếc khâu.


Tôi nói: “Bụng trống không, rặn thế nào được?”

“Mất chiếc khâu hai chỉ là chết em.” Vợ nhăn nhó.

“Nó không ra, anh sẽ bị nguy. Em không lo cho tính mạng anh, chỉ tiếc của.”

“Nó còn trong ấy, không đáng ngại. Sợ ra rồi mà mình không bắt gặp mới chết chứ?”


Đến ngày chúng tôi lên đường đi Kongpong Xom, chiếc khâu vàng vẫn còn lẩn trốn đâu đó trong cái dạ dày, hoặc khúc ruột ngoằn ngoèo của tôi.


Trở về với hiện tại. Khi vợ tôi từ bụi rậm đi ra, trao cho tôi một nắm khâu vàng. Những chiếc khâu được buộc thành hai chùm bằng sợi chỉ còn ươn ướt.

Tôi đưa cho Nu: “Thêm phần này là đủ số.”

Nu cầm vàng, xòe ra nhìn, suy nghĩ. Tôi đâm lo. Tổng số vàng, vẫn còn thiếu một chiếc khâu hai chỉ. Nếu Nu phát giác chưa đủ số, làm khó trong giờ phút này thì thật rắc rối. Nhưng gã chẳng nói gì, đưa lên ngửi thử.

Tôi hỏi: “Anh thử vàng cái kiểu gì lạ vậy?”

Gã không trả lời, ra dấu bảo chúng tôi ngồi yên đấy, rồi bất ngờ quay lưng lủi khuất vào rừng rậm, nhanh như con chồn. 

Tôi thảng thốt: “Anh đi đâu?”

Không có tiếng trả lời.

Tôi phóng theo: “Anh ơi! Anh ơi!”

Tiếng kêu không ai hồi đáp. 

Tôi lại gào bằng tiếng Miên: “Bòn ơi! Bòn ơi!”


“Bòn” có nghĩa là “anh”, tôi học được từ lúc mới đặt chân lên đất Kampuchia. Dù đã gào hai tiếng “bòn ơi” thống thiết, nhưng Nu vẫn mất hút. Tìm loanh quanh một đỗi không thấy Nu, tôi tuyệt vọng trở lại con suối, ngồi lau mồ hôi, thở dốc. Vợ con tôi co rúm người, sợ hãi. Tôi chợt nghĩ đến những trường hợp đã từng xảy ra. Nhiều người lên Kampuchia vượt biên, bị lừa lấy hết vàng, rồi bị giết luôn để trừ hậu họa.


Tôi bảo vợ: “Em dẫn con Khuê tìm chỗ kín đáo ẩn núp. Anh ở lại đây chờ xem động tịnh ra sao.”.

Khi nói điều đó tôi đã có chủ đích. Nếu chúng trở lại đưa đi thì coi như tôi hiểu lầm thiện ý của chúng. Nếu chúng manh tâm sát hại, tôi sẵn sàng một mất một còn với chúng.

Vợ tôi dẫn con tìm chỗ núp. 

Tôi chạy theo dặn dò: “Dù có thế nào, em cũng đừng ra mặt.”

Ngồi một mình nơi lòng suối, tôi tự hỏi trong tay không một tấc sắt, lấy gì chống đỡ khi bộ ba của chúng trở lại? Và nếu muốn giết tôi, chúng phải tay dao tay búa sẵn sàng. Tôi khó mà thoát thân, nói chi đến chuyện dằn co ấu đả? Suy cho cùng, tôi quyết định bỏ của chạy lấy người.

Tôi đến chỗ vợ con đang trốn: “Phải rời khỏi nơi đây ngay.”

Vợ nói: “Chờ một chút. Có thể họ trở lại đưa mình đi.” 

“Họ đưa đi mua muối.” Tôi gắt.

Vợ xót của: “Còn vàng trao cho họ thì sao?” 

“Bỏ vàng, giữ lại cái mạng cùi.”

“Ráng chờ, anh ơi. Còn nước còn tát.”

“Nước nôi gì nữa mà tát? Hết vàng, nó sẽ lấy máu. Chạy ngay bây giờ, may ra còn kịp.”


Tôi nắm tay đứa con gái, băng ra đường. Ngoài đường trống trải. Thỉnh thoảng có xe qua lại, bọn sát nhân không dám làm ẩu. Trong khi chờ xe ngược về Kongpong Xom, vợ tôi ngồi bẹp xuống lề đường, thảm não khóc không ra tiếng. Chưa bao giờ tôi thấy cái mặt của vợ đau khổ như lúc này. Bao nhiêu tiền của chắt bóp dành dụm trong mười năm trời, chờ tôi ở tù về để cùng nhau vượt biên, bỗng chốc hóa thành trắng tay. Chuyện đời như sân khấu. Tự nhiên tôi bật cười khan. Chẳng biết tại sao tôi có thể cười được trong tình huống bi đát này? Ai đó đã nói, cười là tiếng khóc khô không lệ. Có phải tôi cười như thế không? Đời thật chó đẻ! Mình lao đao khốn khó, chạy trốn bọn ác ôn, lại gặp thằng thất đức.

Sau tiếng cười, tôi ngửa mặt lên trời, uất khí xung thiên: “Phật và Chúa đi đâu cả rồi? Sao không vặn họng mấy thằng quỷ sứ?“ 

Tôi muốn tiếng la vang rền cả thinh không như giọng gầm sư tử hống của Tạ Tốn. Nhưng sao tôi nghe tiếng mình nhỏ như tiếng con dế rè gáy trong bờ cỏ thấp.

Vợ tôi quẹt nước mắt, phẫn nộ: “Giờ phút này mà anh còn cười. Tôi hận anh!”

Mất của, vợ bắt đầu nổi điên, giở giọng ngang bướng xưng “tôi” với chồng.

Tôi dịu nhẹ: “Em không hiểu anh.”

“Tôi còn lạ gì anh mà không hiểu? Ai ở tù cũng đều rên xiết, nhưng anh ở tù với bộ mặt tỉnh bơ. Chuyện gì đối với anh cũng là trò đùa. Tôi mất vàng, tôi xót. Nhưng anh lại cười.” 

“Em muốn anh làm sao?”

Vợ rít giữa hai hàm răng sắc lạnh: “Chém nó!” 

“Anh không có dao. Anh sẽ cắn nó.”


Tôi vừa dứt câu, vợ tru lên đau đớn như sói tru trăng ngoài đại mạc.

Chúng tôi trở lại Kongpong Xom, bằng Honda ôm. Xe chở bốn người. Con Khuê ngồi trên bình xăng phía trước, trong lòng gã người Miên lái xe. Vợ chồng tôi ngồi phía sau. Trên đường đi, gã nói và chỉ trỏ vô rừng. Tôi không hiểu. Gã làm dấu bằng cách đưa bàn tay cứa ngang cổ. Ý muốn nói nhiều người đã bị giết dọc theo cánh rừng này chăng?

Chúng tôi lên tới chợ Kongpong Xom, lúc mặt trời sắp lặn. Từ khi rời Kongpong Xom cho đến lúc trở lại, chỉ cách bốn tiếng đồng hồ. Chúng tôi, những người đi tìm tương lai bỗng hóa ra kẻ đầu đường xó chợ. Tôi lang thang, làm quen với một cụ già người Việt hành nghề mài dao cho các thớt thịt. Tôi bịa ra chuyện đi tìm người bà con nhưng địa chỉ không rõ ràng nên bị lạc. Đồng thời tôi xin cụ giúp chỗ tạm trú qua đêm. Đêm đó, cụ dẫn chúng tôi về chỗ ngủ của cụ. Đây là chái hiên lề đường, bên hông một tiệm sửa Honda và xe đạp. Dọc theo các chái hiên khác, có những người hành khất nằm ngủ. Cụ nhường chiếc sạp cho vợ con tôi. Sạp kê sát đất bằng những mảnh gỗ vụn ghép lại. Cụ và tôi trải manh chiếu trên nền đất. Hơi đất lành lạnh dưới lưng, mùi dầu nhớt bốc thoang thoảng. Tôi nằm gối đầu lên bọc quần áo.

Cụ nói: “Đừng sợ mất đồ. Cùng đinh ăn mày cũng có nghĩa khí của cùng đinh ăn mày.”

“Tôi đã mất tất cả rồi. Chẳng còn gì để mất thêm.”

Tôi nói trong niềm cay đắng. Không ngờ có một ngày, mình rơi vào nỗi tận cùng bệ rạc thế này. 

Nửa khuya, cụ già ngồi dậy quấn thuốc hút. Anh đèn đường vàng vọt soi không rõ. Khuôn mặt cụ nhòe bóng tối. Hình ảnh âm u, in lên nền phong héo úa như một tấm tranh đời bi thiết. Mọi vật quanh tôi đều im lìm sâu lắng. Chỉ còn tiếng muỗi vo ve. Đầu thuốc cháy, từng chặp lóe đỏ lên là điểm sáng duy nhất còn linh động. 

Vợ con tôi ngủ mê mệt sau một ngày vất vả. Tôi trằn trọc đau xót mãi khôn nguôi, ngồi lên xin cụ điếu thuốc. Thuốc gắt quá, tôi ôm ngực ho sặc sụa. Nước mắt tuôn trào ràn rụa. Cụ già vỗ nhẹ vào lưng tôi như đè xuống một cơn ho, như an ủi một niềm thống khổ. Tôi quay ra ngoài hỉ mũi rẹt rẹt, và chùi nước mắt.

Cụ nói: “Dẫn vợ con đi vượt biên. Coi chừng mất mạng đấy.”

Dù tôi không bày tỏ, nhưng cụ đã biết cả rồi.

Cụ tiếp: ”Lần sau đừng dại dột tin lời người khác. Hãy về Việt Nam đi.” 

Tôi nín thinh, nhìn qua dãy nhà tối ám bên kia đường. Còn có một chỗ nào để đi về không? Sau thời gian vắng mặt không lý do, tôi về là tự đem thân nạp mạng cho chính quyền địa phương.

“Cụ ơi, tôi không thể về. Tôi hết đường tới, chẳng còn đường lui.”

“Phải có cách giải quyết chứ?” 

“Tôi ở lại Kampuchia, tìm việc làm.”

“Làm gì? Cái tướng trói gà của cậu khuân vác không nổi. Tính kế lừa thiên hạ ư? Tôi cho cậu biết, ở đây con người như lang sói. Cậu chưa kịp lừa ai, thiên hạ đã lừa cậu mất rồi.”

“Tôi muốn chẻ đầu bọn lừa đảo.” Khi nói, tôi nhìn những con dao chặt thịt to bản, để kế bên bộ đồ nghề mài dao của cụ. 

Cụ ngó vào mặt tôi: “Dám không?”


Lời cụ như cái thước đo xem tính khí liều lĩnh của tôi tới cỡ nào. Cái mạng của bọn kia, đáng triệt tiêu để trừ bớt ung nhọt cho xã hội. Còn cái thân tôi sau đó, nếu không chết cũng chịu một hậu quả vô cùng khốc liệt. Nó có xứng đáng để tôi đánh đổi một hậu quả như thế hay không?

Cuối cùng, tôi lắc đầu nói với giọng yếu xìu: “Tôi hèn.”

Cụ quấn cho tôi thêm điếu thuốc: “Hàn Tín chịu luồn trôn giữa chợ, vì không thể lấy cái mạng đáng giá muôn người, đổi mạng của tên vô lại.”

“Tôi không thể so với Hàn Tín. Tôi hèn, vì tôi quá thương tôi.”

“Còn biết thương mình là còn ham sống. Từ từ làm lại cuộc đời.”

Cách lý luận của cụ già, tôi thấy lạ. Với một cái đầu như thế, sao lại chịu sống hẩm hiu như người hành khất?

Tôi nói: “Tôi không hiểu cụ.”

Cụ bảo: “Con người sở dĩ còn gần gũi được nhau là vì không hiểu nhau đấy.”

“Cụ nói chi lạ vậy?”

“Không phải sao? Mọi người đến với nhau bằng cái mặt nạ. Ngày nào mặt nạ rớt xuống, nhìn rõ mặt thật của nhau, ngày ấy hai bên trở thành kẻ thù.”

“Đúng vậy, cụ ơi! Tôi có thêm vài kẻ thù, nhưng mình không làm gì được nó, mới đau chứ.”

“Nếu tất cả mối thù đều có thể thanh toán thì lúc nào cũng thấy mọi người chém giết nhau.”

“Cụ là ai mà thấu rõ tình đời đến thế?” Tôi hỏi.

Cụ chỉ bộ đồ nghề: “Cậu thấy đó. Tôi là lão mài dao.”

“Phía sau tấm bình phong ấy là gì?”

“Cậu nghĩ tôi làm khổ nhục kế? Hahaha ...”

Tiếng cười òa vỡ giữa đêm khuya. Vợ tôi thức giấc trở mình. Tôi thật không hiểu tiếng cười của cụ. Óc tôi đông đặc mù mờ không còn phân định điều gì. Tiếng cười như sảng khoái, lại nhuốm một nỗi gì u uất bi thương.

Cụ tiếp: “Trước ngày mất Miền Nam, nếu cậu biết hỏi một câu như thế thì những tên ăn mày, những thằng đi mua ve chai đồ cũ đâu có mặt, để sau này thay hình đổi dạng ra làm ủy viên, chủ tịch ngồi trên đầu trên cổ nhân dân.”

Tôi ngạc nhiên, một cụ già mài dao mà có được tư tưởng thế sao? Tôi chợt nhớ chuyện Kinh Kha khi đến nước Yên làm bạn với người bán thịt chó và người gảy đàn trúc tên Cao Tiệm Ly, ngày ngày cùng nhau uống rượu. Lúc rượu say, Cao Tiệm Ly gảy đàn, Kinh Kha theo đàn mà hát, và cuối cùng ôm nhau khóc giữa chợ nước Yên như chỗ không người. Họ mượn rượu cho vơi bớt nỗi niềm u uất không thể tâm sự cùng ai. Còn cụ già mài dao, lòng cụ ra sao mà cũng ưu tư thế sự?

Sáng ngày, cụ đưa chúng tôi ra bến xe về Phnom Penh. Tôi mua cho mỗi người một ổ bánh mì thịt.

Cụ nhất định không nhận: “Hãy lo cho vợ con đi. Coi bộ tình trạng sắp tới của cậu bi đát lắm đấy.”

“Chuyện gì rồi cũng sẽ qua.” Tôi nói một câu mà lòng không chủ đích.

“Cậu còn có vợ con, nghĩa là chưa mất hết đâu. Ở xứ lạ quê người, mang bộ mặt ngơ ngáo như cậu, dễ bị chúng lấy mạng, và cướp vợ con đưa vào nhà thổ.” 

Giờ phút chia tay, tôi còn nhiều bịn rịn. Nhưng cụ tỏ ra cương nghị dứt khoát, khác với vẻ người đờ đẫn mà tôi gặp chiều hôm qua.

“Đi đi. Cứ như đàn bà con gái thế này thì còn làm ăn gì được?”

Tôi lên xe, lòng vẫn tự hỏi cụ già mài dao là ai? Là ai? 

Tôi trở lại Phnom Penh, tìm đến cái nhà trước đây trạm trú, hỏi về người dẫn mối. Người ta không biết kẻ kia ở đâu. Hóa ra đây là nhà cho thuê giường ngủ. Lòng tôi bời bời trăm mối lo toan, nát óc nghĩ không ra lẽ. Về không được, ở không xong. 

Vợ nói: “Mình có thể buôn bán.”

Tôi hỏi: “Vốn đâu?”

“Em còn một ít tiền mặt và năm phân vàng. Anh còn hai chỉ.”

“Anh làm gì có?”

Vợ chỉ vào bụng tôi: “Nó còn trong ấy. Không chạy đàng nào.”

“Tính mổ bụng anh hả?”

“Gì mà trầm trọng thế? Trước sau gì, nó cũng tự động ra thôi.”

“Nếu nó không ra?”

“Thế thì nguy cho anh.”

“Thôi, chuyện ấy tính sau. Bây giờ, lo tìm chỗ ngủ đêm nay.” Tôi nói.

Vợ đề nghị: “Thuê giường ở đây.”

“Thuê giường một đêm, họ cứa cũng bộn bạc. Mình phải tiết kiệm.”

Tôi dẫn vợ con lên chợ Ô Hòa Xây, khu chợ chính của thủ đô Phnom Penh, tìm người Việt làm quen. Trước nhà lồng chợ là dãy phố buôn bán, tấp nập kẻ lại người qua. Đặc biệt có một gian nhà không bày hàng. Ngoài hành lang có những người đàn bà Việt ngồi lê trên những manh chiếu. Bên trong kê mấy cái giường sắt. Tôi rà rê tới làm quen. Vợ con tôi đứng ủ rũ sau một chiếc xe bán nước mía.

Thấy tôi, một chị hỏi: “Đấm bóp hả?”

Tôi nói: “Không. Chỉ tìm người quen.” Và bịa ra một cái tên, hỏi chị ấy có biết không.

Chị bảo: “Không biết. Sẵn dịp lại đây thì đấm bóp đi anh. Trông anh có vẻ bơ phờ lắm. Đấm bóp giác hơi cho giãn gân cốt, máu huyết lưu thông là khỏe ngay.”

Tôi lắc đầu, cười gượng.

Thêm vài chị rỗi việc bu đến. Tôi áp dụng bổn cũ soạn lại khi còn ở Kongpong Xom với cụ già mài dao, rằng tìm người bà con không gặp, nên bị lỡ đường. Xin họ giúp cho một chỗ ngủ qua đêm.

Một chị nói: “Anh về với bọn tôi đêm nay.”

Tôi chỉ về phía xe nước mía: “Còn có vợ con tôi nữa.”

“Gì mà đông thế? Kêu lại đây. Đứng xớ rớ, coi chừng bị giật đồ.”

Vợ con tôi đến. Những người đàn bà nhìn, dò xét.

“Đi tìm việc hả?”

“Không. Tìm người bà con.”

“Đừng có xạo, cha nội. Tôi biết là đi tìm việc.”

Chị khác, ngó vợ con tôi: “Chị này trông còn ngọt nước lắm. Còn con bé này có thể bưng cà phê bán dạo cho các bạn hàng trong chợ.” 

Vợ tôi hỏi: “Chị nghĩ em có thể tìm được việc ở đây không?”

“Ở đây à? Định cạnh tranh nghề nghiệp với bọn tôi hả?”

“Không. Em đâu biết đấm bóp. Việc khác kìa.”

“Đàn bà con gái lên đây, đừng hòng tìm được việc gì khác, ngoài cái việc làm đĩ. Nhưng ông anh chịu cho vợ mình làm không?”

Vợ tôi xám mặt: “Xin chị đừng nói chơi.”

Chị trề môi: “Mệnh phụ, tiểu thư lúc khốn cùng túng quẫn cũng thành gái ăn sương. Ở đó mà khư khư giữ lấy cái nghìn vàng.”

Vợ tôi cúi đầu nhẫn nhục. Lòng tôi tan nát. Cái tình đồng hương trên xứ lạ, sao nghe như muối xát gừng cay.

Không muốn vợ ngồi đây để nghe những lời xúc phạm, tôi bảo: “Em dẫn con đi mua đồ ăn cho nó.”

Vợ con tôi kéo nhau qua chợ mua cơm. Mỗi phần cơm, có con cá nướng bằng ngón tay, được gói trong chiếc lá sen. Cả hai ngồi bên lề đường, bốc từng nắm cơm uể oải cho vào miệng. Nắng chiều nghiêng đổ xuống hai mẹ con một màu tàn phai héo hắt. Con tôi không còn cái vẻ hồn nhiên tuổi nhỏ. Mặt nó vô hồn ngơ ngác. Còn khuôn mặt của vợ tôi, phảng phất một chút gì hờn tủi.

Tôi xót xa, muốn bỏ đi. Nhưng giữa nơi ồn ào phồn tạp quê người, tôi biết đi đâu?

Trong khi tôi ngồi đấy, có một người đàn ông Miên bước vào. Mặt sạm đen, nhễ nhại mồ hôi như thoa một lớp dầu bóng. Lưng áo cũng ướt đầm. Nhìn cách ăn mặc, tôi đoán chừng ông ta là phu khuân vác trong chợ. Các chị tranh nhau mời chào. Không biết họ sang đây hồi nào mà rành tiếng Miên thế? Ông khách đứng quan sát từng chị, so sánh chọn lựa một nhan sắc. Các chị ra vẻ tươi cười. Cũng vẫn những cái miệng này, mới đây đã phát ra những âm thanh cú diều với vợ tôi, bây giờ lại thốt những lời dịu dàng dễ thương chi lạ. Ông khách chỉ vào một chị. Chị vui vẻ liếng thoắng dẫn khách vào phía trong. Có lẽ đã từng là khách hàng đấm bóp nhiều lần, ông khách tự nhiên trút bỏ quần áo bên ngoài, chỉ còn độc cái quần xà lỏn màu đỏ chói, nằm sấp xuống chiếc chiếu trải sẵn trên nền xi măng. 

Tôi hỏi một chị ngồi kế bên: “Sao không để người ta nằm trên giường?”

“Giường làm kiểng thôi. Nó lung lay như chiếc răng sắp rụng.” Chị nói. 

Tôi lần vào phía trong, xem cách làm việc ra sao. Chị lau mồ hôi cho khách bằng chiếc khăn nhàu nát. Chiếc khăn đã từng lau cho hàng trăm người. Lau xong, chị xòe hai bàn tay chém lia lịa đều khắp trên lưng người khách. Những ngón tay va vào nhau, kêu lách chách.

Sau màn dần lưng, chị lên ngồi trên mông khách, đùi dang ra hai bên. Chị nhích tới nhích lui, bóp từ trên vai xuống tới thắt lưng. Khách có vẻ khoái, nằm nghiêng đầu qua một bên, mắt lim dim hưởng thụ. Dùng sức nhiều, trán chị lấm tấm mồ hôi, nhưng mặt tươi tắn yêu đời. Tiền. Chính mãnh lực đồng tiền đã biến đổi người đàn bà cáu gắt trở nên vui vẻ. Thỉnh thoảng chị ngừng tay, lau trán với chiếc khăn vẫn lau mồ hôi cho khách. Khoảng đôi phút, chị xoay qua màn khác. Chị dùng ngón trỏ và ngón cái, kẹp từng miếng thịt trên lưng khách kéo lên. Và bàn tay kia phạt ngang như nhát chém. Một hồi, lưng khách ửng đỏ trên làn da vốn đã sạm màu. Rồi chị xòe hai bàn tay chà xát thật mạnh dọc theo hai bên sống lưng. Sau đó, chị dùng mười đầu ngón tay kéo mảng thịt trên lưng khách. Mười ngón tay nhanh như những cái chân con rít, đùa mảng thịt thành gợn sóng chạy dài từ thắt lưng lên tận bả vai. Chị thụt về phía sau, chồm lên phía trước theo mỗi gợn thịt đùa từ dưới trở lên. Cái háng dạng ra, tới lui chà lết trên mông người đàn ông. Động tác làm tôi liên tưởng chuyện tục. 

Bất ngờ chị hỏi: “Muốn học nghề để truyền cho vợ hả?”

Tôi lắc đầu cười gượng, và bỏ ra ngoài hành lang. Thà tôi gặm cỏ cạp đất mà ăn, chứ không để vợ làm cái nghề dị hợm này!

Chiều sắp tàn. Khách càng đông. Họ cần đấm bóp giác hơi để tìm chút thư giãn sau một ngày lao động chân tay vất vả. Phía trong không đủ chỗ, các chị trải chiếu ra tận ngoài hiên. Những ông khách cũng dễ tính, họ xoay trần nằm sấp trên hiên, kế bên lề đường có bao nhiêu người qua lại. Người đi đường cũng không tò mò dòm ngó. Họ đã quen mắt nên coi đấy là chuyện thường.


Các chị làm việc lăng xăng. Tôi kiên nhẫn chờ một chỗ tá túc qua đêm. Lại có dịp coi thêm màn giác hơi.

Giai đoạn này, chị đấm bóp không ngồi trên mông khách. Bộ đồ nghề là những cái lọ thủy tinh bầu tròn cỡ trái quít. Chị thắp ngọn đèn dầu nhỏ. Dùng cái que, một đầu có đính cục bông, nhúng vào lọ dầu, châm lửa. Chị cầm nghiêng cái lọ, thọc ngọn lửa vào quậy quậy, và rất nhanh, chị chụp xuống. Cái lọ hút dính vào lưng. Từ miệng lọ da thịt phù lên. Chị làm nhanh tay và thiện nghệ. Cứ thế, từng lọ, từng lọ được chụp xuống, trông như những chiếc bong bóng nổi đầy trên lưng khách. Chị để yên đấy, và khách cũng nằm im. Trong thời gian chờ đợi, chị ngồi hút thuốc. Chị giải thích, phải chờ cho máu bầm tụ lại, sau đó sẽ đánh tan đi. Làm thế, máu huyết lưu thông, sẽ hết nhức mỏi và tránh được bệnh thời khí cảm mạo thông thường. Tàn điếu thuốc, da thịt phù lên trong lọ cũng bầm tím. Chị cầm từng chiếc giựt ra, mỗi lần giựt kêu bốc một tiếng. Lưng khách bây giờ, nổi đầy những vết bầm hình tròn. Chị lau sơ, và thoa đều một lớp dầu mỏng cho trơn. Thoa dầu xong, chị chỉ dùng một cái ống giác, thọc ngọn lửa vào quậy, và chụp nhanh xuống lưng khách. Chị kéo cái ông giác chạy lên chạy xuống, đều khắp trên lưng. Đây cũng là giai đoạn chót của màn giác hơi. Xong, chị lau sạch lớp dầu lần cuối cùng, và vỗ nhẹ trên lưng khách vài cái, báo hiệu mọi việc đã hoàn tất. Khách đứng lên vươn vai, mặc lại quần áo. Trông khách khỏe ra, mặt mày tươi tỉnh.


Chiều tàn. Người trong khu chợ Ô Hòa Xây thưa dần. Các chị cuốn chiếu, thu dọn đồ nghề và mua cơm phần gói trong lá sen cho bữa ăn tối. Chúng tôi theo các chị về bằng xe Lambretta ba bánh. Ngồi trên xe, tôi nhắm mắt lại. Có cảm tưởng như mình đang lao vào cõi mông lung vô định với nhiều rủi ro bất trắc.

Các chị thuê phòng trên tầng lầu thứ tư của một chung cư. Chúng tôi lên lầu cùng lúc những ông chồng của các chị về tới. Mỗi ông xách theo một thùng nước, tay kia xách cục nước đá treo tòn ten bằng sợi dây. Nước đá được bỏ vào thau nước lã, dùng làm nước giải khát. Còn thùng nước, dành cho các chị tắm rửa.

Chồng của các chị làm phu khuân vác nơi chợ búa, hoặc các bến xe hàng. Tất cả, họ thuê chung một căn phòng rất rộng. Phòng được chia ra từng phần làm chỗ ngủ, diện tích vừa tấm chiếu, che bằng những tấm màn vải. Họ sống tạm bợ. Kể cả tình nghĩa vợ chồng cũng là sự gán ghép tạm bợ giữa đường. Bởi những người đàn bà đàn ông này, đều đã có gia đình ở quê nhà. Họ trôi giạt sang xứ người kiếm sống và ráp lại từng cặp, chẳng qua vì vấn đề âm dương phối hợp mà thôi.


Chủ nhà là một bà già người Miên, ít nói. Đôi mắt cú vọ nhìn người lom lom, thể hiện cái thói gian tham, xảo quyệt. Dù chúng tôi nằm dưới sàn gạch, bà cũng bắt chẹt phải trả tiền một đêm. Nghe nói vào thời Pol Pot cầm quyền, những người dân thành phố, một số chạy trốn, một số khác bị giết, hoặc bị lùa đi các công nông trường. Họ đi không bao giờ về nữa. Dân cùng đinh khố rách khắp nơi tràn vào thành phố, chiếm lấy nhà cửa. Từ đó, thành sở hữu chủ luôn.


Buổi tối. Tôi xuống đường, tắm nơi vòi nước máy và xách lên một thùng cho vợ con. Vòi nước công cộng, một tay anh chị mặt rô tự đứng ra quản lý, phân phối và thu tiền bỏ túi. Ai dám phản đối? Thời buổi nhiễu nhương rối loạn. Luật pháp như cái cân hư. Xã hội xô bồ. Lưu manh ngự trị. Trời Phật không có chỗ đứng trong lòng người. Lòng dạ người nào cũng thủ sẵn một con dao. Họ vừa bảo vệ bản thân, vừa rình cơ hội đâm mũi nhọn vào người khác.

“Ở đây, thứ gì cũng trả tiền. Biết thế, ở lại cái nhà trọ thuê giường còn khỏe hơn.” Vợ tôi cằn nhằn.

Tôi nói: “Ai ngờ được những gì sẽ tới? Mình giống như nàng Kiều của Nguyễn Du. Cũng liều nhắm mắt đưa chân. Thử xem con tạo xoay vần đến đâu!” 

Vợ nổi cáu: “Chết lên chết xuống không lo, còn thơ phú nữa? Dẹp ông Nguyễn Du đi. Hãy lo moi vàng ra mà sống.”

“Anh cũng muốn lôi nó ra, nhưng nó cứ nằm lì trong bụng. Biết làm sao?”

“Lúc nào anh cũng tâm niệm hai tiếng “đi cầu” thì nó ra thôi.” 

“Đi cầu mà cũng tâm niệm?”

“Phải. Anh cứ tưởng tượng mình đang chột dạ mót đi cầu, cần tống khứ tất cả những gì trong bụng ra ngoài. Đến một lúc, anh sẽ tuôn ra hết ngay. Người ta gọi đó là tự kỷ ám thị”

“Khổ quá! Em điên rồi, nên nghĩ đủ điều như thế.”

“Không ám thị được, em sẽ cho anh một liều thuốc xổ.”

"Em ơi, anh đang mệt mỏi. Uống thuốc xổ hoài, mất sức làm sao chịu nổi?” Tôi nói như rên.

Vợ cương quyết: “Cũng phải chịu. Nếu đêm nay, nó không ra. Ngày mai, em mua thuốc xổ. Em cần vàng để xoay trở. Chỉ có vàng mới cứu nguy được trong lúc này.”

Tôi vào nhà cầu, lót tấm giấy bìa trên sàn, ngồi rặn và tự kỷ ám thị. Vàng ơi! Vàng ơi! Tôi gọi vàng và ám thị. Tâm trí lan man, nghĩ hận bọn thằng Nu. Vì mấy cây vàng, mà chúng nhẫn tâm xô vợ chồng tôi vào ngõ cụt.

Không biết oan gia nghiệp báo nợ nần nhau từ kiếp nào mà tai họa bám theo tôi như bóng với hình? Tôi được phóng sinh... Tôi nói phóng sinh thay vì phóng thích, mới bày tỏ hết ý nghĩa của những con người đang quằn quại trong cảnh âm ty. Vâng, tôi được phóng sinh ra khỏi trại tù, cũng chưa thoát nạn. Về quê, lại gặp chính quyền địa phương hà khắc. Họ chèn ép, bắt tôi đi làm thủy lợi liên miên. Gặp hồi mạt vận, vùng vẫy cách nào cũng không thoát. Đành cắn răng chịu đựng. Nín thở qua sông. Qua chưa hết con sông, lại nghe họ sắp đưa tôi đi gỡ mìn trên biên giới. Đã có nhiều người bỏ mạng vì công tác này rồi. Tôi biết họ muốn dồn tôi vào cửa tử. Không lẽ cúi đầu chờ chết? Tôi dẫn vợ con trốn ra miền Trung, tìm đường vượt biên. Từ đó, thiên la địa võng trùng trùng bủa vây. Chạy ngã nào cũng chạm mặt bất lương.


Đầu tiên, tôi quen một bà mệnh phụ tại Nha Trang. Bà tự giới thiệu, trong quá khứ bà là giáo sư của một trường nữ trung học ở Huế, và là vợ của một viên thiếu tá chế độ cũ, tù cải tạo chưa về. Tôi đặt niềm tin nơi người đàn bà mô phạm này. Bà nói, bà đã từng tổ chức đưa người vượt biên trót lọt. Tôi là người đồng cảnh ngộ với chồng bà, nên được đặc biệt ưu tiên, tận tình chiếu cố. Điều kiện vượt biên, không đưa vàng trước. Chỉ khi nào đặt chân lên ghe lớn, mới trao thư và mật mã để thân nhân căn cứ vào đó mà đưa vàng. Thời buổi củi quế gạo châu, con người lọc lừa phản trắc, khó tin tuyệt đối nơi một người nào. Điều kiện như thế, thật là sòng phẳng hợp lý. Để củng cố thêm niềm tin cho những kẻ sắp vượt trùng dương tìm đất mới, bà gọi bọn đàn em đến nhà, thắp đèn đốt nhang, cùng nhau thề nguyền trước bàn Phật. Phật đã chứng kiến. Con nào thằng nào dám lật lọng, trời tru đất diệt nó!


Một đêm tối trời, tại Hòn Khói. Tôi dẫn vợ con lên chiếc ghe nhỏ taxi, ra đảo hoang nằm chờ ghe lớn. Trên đảo đã có sẵn hơn ba chục người chờ đợi. Giữa trời nước bao la, ban đêm gió lạnh thổi ù ù. Mọi người nằm rúc vào nhau tìm hơi ấm. Ban ngày, trời nắng như thiêu đốt. Ngồi núp theo những hốc đá, hả họng mà đớp khí trời. Đã thế, còn thêm cái nạn bị muỗi và bù mắt đốt. Da thịt chân tay nổi mận sần sùi ngứa ngáy. Đám con nít không biết tại sao cha mẹ đem chúng ra chốn này để sấy khô, ướp lạnh. Chúng khóc la ỏm tỏi, đòi về. Khóc khan cổ họng, rồi cũng phải nín. Dưới cái nóng buổi trưa, chúng nằm thoi thóp, tội nghiệp.


Trong các hốc đá, nhóm tổ chức còn cẩn thận trữ sẵn gạo, muối, đường, cà phê. Nhiều người khen họ chuẩn bị chu đáo. Nhưng coi kỹ lại, không tìm đâu ra chiếc nồi để nấu. Đó là những vật dùng làm cảnh tạo niềm tin. Vật làm cảnh để đấy, thì muôn đời vẫn còn nguyên đấy thôi. Không ai dùng được.

Mỗi ngày, có chiếc ghe nhỏ đem cơm nước từ đất liền ra đảo. Mọi người nôn nóng nhao nhao hỏi thăm chừng nào ghe lớn đưa đi? Được trả lời rằng, chưa thuận tiện. Phải chờ. Chờ cho thời gian chín muồi đau khổ.

Một hôm, người đem cơm chỉ một chiếc thuyền xa xa, báo tin mừng: “ Con cá lớn sắp tới rồi. Bà con viết thư mau lên.”

Trong nỗi mừng vui quá đỗi, mọi người hấp tấp viết thư và ghi rõ mật mã cho thân nhân. Người đem cơm cũng sốt ruột không kém, anh ta thúc hối từng người, nhanh chóng thu gom tất cả thư từ. Sau khi kiểm đủ số thư, anh cho biết cần chạy ra liên lạc với con cá lớn. Mọi người vất bỏ những thứ lỉnh kỉnh không cần thiết, thu gọn đồ đạc, nhấp nhỏm ngồi chờ. Bao nhiêu mệt nhọc trong những ngày qua, phút chốc đều tan theo sóng biển. Con cá lớn sẽ đưa ta về miền đất hứa. Ôi, ba tiếng “con cá lớn” thân yêu biết dường nào! Ta mong đợi ngươi từ lâu lắm. Nhưng, sao lạ vậy? Hình ảnh con cá lớn càng lúc càng xa mù, mất hút giữa trùng dương xanh ngắt. Còn chiếc ghe nhỏ hướng mũi về đất liền, cũng biệt tăm luôn. Mọi người chưng hửng nhìn nhau, chưa tìm ra câu giải đáp. Lúc sau, chừng như thấm ý, có bà bật khóc. Rồi như một cái dịch truyền nhiễm, các bà khóc theo. Các ông văng tục chửi thề loạn xà ngầu. Tiếng khóc, tiếng chửi theo gió biển bay đi, không để lại một âm vọng nào. 

Trưa hôm sau. Một người đàn ông khác, lái chiếc ghe nhỏ đem cơm nước ra đảo. Mọi người bu lại như muốn phanh thây xẻ thịt anh ta.


Anh kêu gọi: “Xin bà con bình tĩnh..., bình tĩnh...” Chờ cho mọi người bớt cơn thịnh nộ, anh giải thích. “Rất lấy làm tiếc, ghe lớn bị động, không thể rời bến như dự định.”

Có người hỏi: “Vậy, chừng nào rời bến được?”

“Hiện thời, công an đang theo dõi, chưa dám nhúc nhích. Không thể nói chắc thời gian.”


“Chúng tôi ở đây, anh giải quyết thế nào?”

“Bà con chịu khó nằm chờ. Ai không muốn chờ, có thể theo ghe nhỏ trở về. Khi nào có chuyến, chúng tôi sẽ thông báo ra đi lần nữa.”

Nghĩ đến những ngày chịu đựng vừa qua, mọi người ngán ngẩm. Tất cả đều muốn đi về, chờ đợi chuyến sau.

Tôi về đến nhà người em, vào lúc nửa đêm.

Em tôi ngạc nhiên: “Ủa? Sao anh trở lại?”

Tôi mệt mỏi: “Có đi đâu mà trở lại?” 

“Tối hôm qua, bà Thiếu Tá đến trao thư, và thông báo anh đã lên ghe bình yên. Em coi thư, đúng là mật mã và chữ viết của anh. Em trao vàng cho bà rồi.”

 Tôi sực tỉnh, giậm chân kêu trời không thấu. Biết gặp phải lưu manh cướp cạn, năm lần bảy lượt tôi đến nhà bà Thiếu tT, đòi lại sáu cây vàng. Nhưng bà luôn luôn đi vắng.

Một hôm, tình cờ gặp bà trên phố. Tôi lớn tiếng đòi bà phải trả lại vàng.

Bà bảo: “Vàng đã chia năm xẻ bảy rồi. Không thể gom lại được. Ông chờ gọi đi chuyến sau. Tôi khuyên ông đừng nên làm rùm beng. Công an biết được, nó còng đầu cả lũ.” 

Tôi về, thuật cho vợ nghe trường hợp gặp bà Thiếu Tá.

Vợ nóng mặt: “Tố cáo bả và đồng bọn.”

Tôi giải thích: “Tố cáo bả và đồng bọn lường gạt, thuộc tội hình sự, chỉ bị tù vài tháng. Còn mình vượt biên, bị khép tội phản quốc, thuộc tội chính trị. Tội chính trị ở tù nhẹ lắm cũng vài năm.” 

Vợ uất hận, gầm lên: “Tức chết... đi!”

Tôi nói: “Tức cũng phải ngậm bồ hòn làm ngọt. Chẳng lẽ mất vàng, còn lao đầu vô tù?”

Chúng tôi ở lại Nha Trang, nơi nhà người em trong sự lo âu hồi hộp.

Em tôi trấn an: “Anh yên tâm. Láng giềng của em đều có gốc gác thuộc thành phần chế độ cũ. Toàn là phe ta cả.”

Tôi bị bà Thiếu tá “phe ta”, nữ giáo sư trường Đồng Khánh chơi cho một vố đau như bò đá. Bây giờ, nghe nói “phe ta”, tự nhiên tôi có ác cảm. Thiên hạ đua nhau bợ đít “cách mạng”, theo thời xu thế. Gió thổi cỏ rạp. Tiểu nhân cúi đầu. Loại người mang tâm địa hèn mạt sẵn sàng bán đứng “phe ta”, đổi lấy một chút quyền lợi nhỏ nhoi nào đó. Những năm trong tù, cho tôi nhiều kinh nghiệm đắng cay. “Phe ta” lẻ tẻ vài anh trở mặt. Họ như những con dòi cựa quậy ngoi lên trong nỗi khốn cùng của anh em. Nịnh nọt dựa hơi “cách mạng”. Hành hạ chà đạp “phe ta” không thương tiếc. Họ lấy sự vùi dập người khác làm sự sống còn của mình. Những khuôn mặt bẩn thỉu lem luốc đó, ra khỏi tù, tôi còn gặp lại họ ngoài đời. Họ giỏi luồn lách, và mau chóng thích nghi với chế độ mới. Làm người, nhưng họ mang bản năng của loài tắc kè, đổi màu da theo cảnh sắc.

Những người láng giềng của em tôi lịch sự và tử tế. Họ tỏ ra thân thiện với tôi như đã cảm thông nhau từ lâu lắm. Tôi nghi ngờ, nên cố giấu thân phận mình. Nhưng con mắt của “phe ta” rất tinh đời. Họ biết tất cả.

Một buổi tối. Bất ngờ công an ập vào nhà, lục soát và xét giấy tờ của tôi. 

Công an hỏi: “Anh đến đây làm gì?”

Tôi nói: “Tìm việc làm.

“Sao không làm việc ở quê anh?”

“Quê tôi không có việc gì cho tôi cả.” 

“Anh đi, không có phép của chính quyền địa phương. Anh ở, cũng không thông báo cho chúng tôi biết. Tại sao?”

“Tôi tạm trú, chờ tìm được việc, sẽ xin phép các anh cho ở đây. Nếu không tìm được việc, tôi về quê cũ” 

“Láo. Chúng tôi biết anh đang tìm đường vượt biên. Cho anh thời hạn một tuần chuẩn bị rời Nha Trang. Hàng ngày, anh phải lên phường trình diện với chúng tôi, cho đến ngày đi khỏi.”

Trong số những công an xét hỏi, có một gã còn trẻ. Gã này đang theo đuổi tán tỉnh cháu gái tôi. Khi công an ra cửa, gã cố ý đi chậm lại đàng sau, nói nhỏ với cháu tôi.

“Người ta tố chú vượt biên, nhưng không tìm ra bằng chứng. Chú đang bị theo dõi.” 

“Người ta” mà gã công an nói, là ai đây? Điểm trúng vào tử huyệt của ta, là người hiểu ta. “Kẻ thù ngồi sau lưng bệ hạ đấy!” Trên đường bôn tẩu, An Dương Vương được rùa thần báo như thế. 

Bị tống xuất khỏi Nha Trang, tôi về Sài Gòn tìm đến những bà con thân thuộc. Tất cả đều thờ ơ lạnh nhạt. Trong khánh tận nỗi đời, nhìn rõ mặt trắng đen. Nhắc câu thân tình ân nghĩa cũ, dễ làm người ta khó chịu như coi tên hề diễu dở. Không bám víu vào đâu được, tôi như con chim run sợ trước cơn giông thời cuộc. Thấy công an như thấy bóng hung thần. Sứ giả của chế độ mới, đến đâu là gieo rắc điềm dữ đến đấy. Trong lao đao hốt hoảng, tôi chạy trốn theo đường dây vượt biên lên Kampuchia. Và tại đây, tôi sa vào bẫy của thằng Nu. Sa bẫy thêm lần này, chúng tôi thành trắng tay.

Chỉ còn hy vọng vào chiếc khâu vàng, nhưng không biết nó còn trong bụng, hay đã lọt đi đàng nào?

Ngồi trong nhà cầu, tôi ám thị và gọi mãi vàng ơi vàng ơi, trong niềm đau nhức.

“Ra chưa anh?” Vợ hỏi vọng vào.

Tôi nói: “Chưa thấy gì.”

“Ngồi ráng thêm chút nữa coi sao.”

“Ráng vô ích. Cho anh liều thuốc xổ thôi.” Tôi đi ra ngoài.

Vợ nhìn mặt: “Mấy hôm nay, trông anh hốc hác nhiều. Uống thuốc xổ cũng tội, nhưng không còn cách gì khác.”

Buổi tối, trong gian phòng rộng lớn. Mọi người ngồi dựa lưng vào vách tường, tán gẫu đủ thứ chuyện. Qua câu chuyện, tôi biết có một chị, sáng mai sẽ về Việt Nam thăm gia đình. Những món quà chị sắm cho chồng con, đặc biệt có chiếc quần Jean sờn gối. Chị nói, chồng chị sẽ rất thích chiếc quần này, dân chơi đúng điệu chỉ mặc quần Jean bạc màu sờn rách. Chị ngồi dựa lưng vào lòng anh chồng hờ. Anh cũng âu yếm vòng tay ôm khít lấy chị. Họ tận dụng những giờ phút còn gần gũi bên nhau. Tất cả những người khác coi thế là tự nhiên, nhưng vợ tôi ngượng.

“Kỳ!” Vợ nói nhỏ.

Tôi bảo: “Kệ người ta.”

Đến giờ ngủ, những tấm màn vải được kéo ra, ngăn làm nhiều phòng nhỏ sát chân tường. Còn lại khoảng trống giữa phòng, tôi trải tấm chiếu cho vợ chồng tôi và đứa con. 

Đèn tắt, nhưng phòng còn có ánh sáng do ngọn đèn đường hắt vào. Chung quanh chỗ tôi nằm, từng cặp nói chuyện thầm thì, cười khúc khích. Một hồi sau, nổi lên những tiếng động dâm dật. Họ không cần khẽ khàng, dè chừng ai nữa. Cặp nào cũng như nhau, coi đó là điều tự nhiên. Mục đích gán ghép vợ chồng tạm bợ của họ, cũng chỉ vì chuyện ấy mà thôi. Chúng tôi bị bao vây bởi những âm thanh đầy kích thích. 

Tôi cố dỗ giấc, và lãng quên. Nhưng cái lỗ tai bây giờ quá thính. Tôi nghe rõ cả hơi thở dồn dập của họ, sát bên. Trong đầu tôi hiện ra hình ảnh và động tác...

Con tôi, sau những ngày vất vả, buông mình xuống là ngủ khì. Vợ tôi nằm lặng, không biết thức hay ngủ? Tôi khẽ trở mình, đưa tay khều thử. 

Vợ hất tay: “Đừng.”

“Ngủ chưa?”

“Hứ!”

Tôi cười thầm. Vợ tôi đang chú ý cái âm thanh gợi dục này, còn hơn tôi nữa.

Sau một chặp đầu hôm, mọi người đi vào giấc ngủ. Tôi vẫn trăn trở lo lắng buồn rầu cho một ngày mai. Nửa khuya, tôi nghe có sự cựa quậy nơi vị trí của người đàn bà sắp về Việt Nam. Tiếng động dâm dật lại nổi lên. Anh chị cố vớt vát thêm thú vui dục lạc, bù lại những ngày sắp xa nhau. Về thăm chồng lần này, nếu chị mang thai, đứa bé ra đời, dĩ nhiên chồng chị chịu trách nhiệm. Nhưng nó là con ai, chỉ có chị biết mà thôi. Khi tiết trinh là điều xa xỉ, loạn dâm là chuyện bình thường thì loài người đồng hóa với súc sinh. Sáng ra, tôi nói với vợ ý nghĩ này.

Vợ nguýt dài: “Khéo lo chuyện tầm phào.”

Tôi cười cười: “Đêm rồi ngủ ngon không?”

“Đừng hỏi báp láp. Ông ham lắm!”

“Ham gì?”


“Chuyện đó.”

“Chuyện đó, ai không ham? Em cũng vậy.”

“Không có tôi đâu. Đừng nói chuyện đó nữa. Bây giờ, ông vào nhà cầu rặn chiếc khâu cho tôi. Nếu nó ra, tôi khỏi tốn tiền mua thuốc xổ.”

“Lúc nào em cũng nghĩ đến chiếc khâu!”

“Chứ sao? Thiếu nó thì còn làm ăn gì được?”

Vợ chưa mua thuốc xổ. Tôi bắt lại được khâu vàng, sau một tuần lẩn trốn trong bụng. Một chị đấm bóp tình nguyện dẫn chúng tôi đi bán vàng. Dĩ nhiên, sự cám ơn phải thể hiện bằng tiền. Chị lại hướng dẫn chúng tôi ra vùng ngoại ô thành phố, mướn một căn lều bằng lá. Một căn lều theo đúng nghĩa đích thực của nó, nhưng chúng tôi gọi là căn nhà cho đỡ tủi thân. Mái nhà lợp bằng lá mía, chung quanh che chắn bằng liếp tre đan thưa thớt. Chiều sâu căn nhà quá ngắn, nhưng chiều ngang lại quá dài. Nghe nói, trước đây người chủ của nó dùng làm chuồng nuôi gà công nghiệp. Nhưng gà chết toi nhiều quá, nên dẹp luôn. Chuồng bỏ trống. Phía sau nhà còn chất đầy những chiếc lồng gà cũ. Có được một chỗ trú mưa che nắng là tốt rồi. Tôi ra sức quét dọn tẩy uế cả ngày, trông cũng mát mắt. Chúng tôi bắt tay ngay vào việc tạo điều kiện đời sống. Mua chăn màn nơi sạp bán đồ cũ. Mua chén dĩa, vài cái nồi nấu ăn, thêm chiếc nồi lớn dùng hấp xôi. Vợ tôi chọn nghề bán xôi làm kế sinh nhai. Cái nghề ít vốn, thích hợp với hoàn cảnh, tiện lợi cho việc ăn uống. Xôi bán không hết, vợ chồng con cái ăn xôi trừ cơm. Đỡ phí của trời!

Sáng sớm. Tôi gánh xôi vào thành phố. Vợ ngồi bên lề bán cho khách qua đường. Người mua kẻ bán nói với nhau bằng ngôn ngữ đôi tay. Miệng ú ớ không nên lời. Đôi khi ngớ ngẩn đến buồn cười. Mấy ngày sau, tôi nghĩ ra một sáng kiến. Nhờ người viết tấm bảng bảng liệt kê giá cả bằng tiếng Miên. Gói nhỏ một đồng. Gói vừa hai đồng. Gói lớn ba đồng. Người mua giơ ngón tay chỉ vào một trong ba hàng chữ ấy. Dễ dàng cho cả đôi bên. Con tôi cũng tích cực góp phần vào sinh kế. Nó bưng cái mâm có những nắm xôi đã gói sẵn, bán dạo theo các tiệm cà phê. Nó biết nở nụ cười mời khách. Có người không muốn ăn xôi, nhưng thấy nó lí nhí nói cái thứ tiếng chẳng ai nghe được và cười hoài, người ta cũng mua. Mặt nó vui hẳn lên, mỗi lần bán được gói xôi. Mười hai tuổi, lăn vào chốn mưu sinh, nó hiểu thế nào là giá trị của những đồng tiền. Còn tôi, đứng xớ rớ không biết làm gì. Lòng bứt rứt không yên. Tôi lang thang tới bến xe đò, xin làm phu khuân vác. Ở ngoài nhìn vào, cứ tưởng vai u thịt bắp là được việc. Nhưng không. Còn một điều kiện khác nữa, và đây mới là điều kiện cần thiết. Muốn có việc, phải giành mối. Trên đường đời, tôi thiếu bon chen, tay chân cò vạc lại vụng về xốc vác, nên chẳng ai thèm mướn. 

Chiều về, tôi nằm trên chiếc võng đưa qua đưa lại, buồn bã rời rã. Nhìn vợ con lu bu chuẩn bị cho nồi xôi ngày mai, tôi thấy rõ ràng mình đang sống bám trên hai chiếc lưng gầy gò yếu đuối. Giận mình bất tài vô tướng. Buồn giận quá, đâm ra quẫn trí. Tôi thù bọn chính quyền của quê tôi, thù bà thiếu tá giáo sư ở Nha Trang, thù bọn thằng Nu ở Miên. Từ đó, tôi ghét lây đến cả người đời. Sau những bản mặt hiền từ, họ còn giấu biết bao điều tàn ác bất lương. Những kẻ giả danh, mặt người dạ thú. Trong uất hận, tôi tưởng tượng mình có đủ quyền uy để làm như một Néron ngồi uống rượu, xem lửa đốt thành La Mã. Hay một Tần Thủy Hoàng lùa thiên hạ xuống hầm sâu chôn sống.


Tính tình tôi trở nên bẳn gắt. Con tôi sợ hãi người cha lầm lì dữ tợn. Nó đâu biết trong sâu thẳm cõi lòng, tôi thương và tội nghiệp nó đến nhàu nát ruột gan. Hoàn cảnh khó khăn, nó không được đến trường. Đêm đêm, dưới ngọn đèn dầu, tôi dạy nó về những kiến thức nhà trường. Cố nhồi nhét vô đầu nó những con số toán học. Nó quờ quạng với những ẩn số x, y. Tôi cú đầu nó, và la hét ầm lên. Nó hoảng. Càng hoảng, càng không lãnh hội được gì.

Vợ nói: “Anh dạy học với thái độ của nhân viên phòng tra tấn.” 

Nghĩ lại, tôi thấy mình quá nóng tính. Tôi không thể làm thầy, dù là thầy của con mình. Tôi tuyên bố không làm gia sư nữa. Con tôi mừng. 

Vợ lại nói: “Suy nghĩ nhiều, coi chừng điên đấy. Phải làm việc gì cho khuây khỏa.”

“Việc gì? Khuân vác cũng không ai mướn.” 

“Không làm mướn cho ai cả. Anh đủ sức vác bao bánh mì không?”

“Dư sức.”

“Được rồi. Anh vác bao bánh mì đi bán dạo theo các xe đò đậu dài dài trên đường Thu Mút, gần chỗ em bán xôi.”

“Em có lý. Xôi bán ế, ăn hoài nhợn lên tới cổ họng. Bây giờ thêm bánh mì ế nữa. Mình có thể thay đổi món ăn. Một bữa ăn bánh mì, một bữa ăn xôi.”

Thế là từ đó trở đi, tôi làm người bán bánh mì dạo. Sau khi gánh xôi vào thành phố cho vợ ngồi bán, tôi lội bộ ba cây số tới lò bánh mì, vác một bao trở lại đường Thu Mút. Tôi rảo theo những chiếc xe đò, cầm ổ bánh mì chìa ra trước mặt khách trên xe. Tôi mời họ mua, bằng cách kêu “bòn, bòn”, và gật gật cái đầu.


Ngày đầu tiên, bán được nửa bao bánh mì. Còn nửa bao, tôi vác về. Vợ chồng con cái ngồi ăn bánh mì, cười hỉ hả.

Con tôi nói: “Ăn bánh mì chấm nước mắm, ngon hơn ăn xôi với đường.”

Tôi hỏi: “Con chịu ăn hoài như thế này không?”

“Con chịu. Nếu cho con thêm chút thịt thì ngon hơn.”

Câu nói của con làm lòng tôi đau nhói. Nó cần thịt, nhưng từ lâu chúng tôi đâu dám tốn kém vì loại thực phẩm cao cấp này.

Buổi tối, tôi nói với vợ, dù buôn bán được hay không cũng mua cho con miếng thịt. Vợ nói, đã nghĩ điều đó rồi.

Hôm sau, tôi vác nửa bao bánh mì cũ đi bán nữa. Khách cầm ổ bánh bóp thử, rồi trả về. Tôi cố gỡ gạc tiền vốn, chỉ bán hai phần ba giá, nhưng người ta cũng từ chối. Không ai chịu mua một ổ bánh mì cứng đơ như khúc củi.

Hôm ấy, nửa bao bánh mì cũ còn nguyên. Tôi muốn bỏ nghề. 

Vợ khuyên: “Mới thua keo đầu, không đáng ngại. Thử thời vận thêm vài bữa xem sao?”

“Ừ, thì thử. Nhưng cái vốn của mình, đủ sức bù lỗ không?”

“Em còn đủ sức chịu lỗ mười ngày như thế. Hồi còn ở Việt Nam, có người chỉ cho em cách làm bánh mì cũ, trở thành bánh mì nóng giòn. Em sẽ thử.”

Trong khi chúng tôi bàn chuyện, con tôi ăn bánh mì cũ với thịt heo ram mặn.

Nó nói: “Thịt heo Kampuchia, ngon hơn thịt heo xứ mình.” 

Tôi hiểu ngay rằng, vì quá thiếu thốn mà nó thấy ngon đó thôi.


Những ngày sau, tôi tiếp tục đi bán bánh mì. Công việc quen dần, tôi rút được nhiều kinh nghiệm mời khách. Làm ăn có khá hơn. Tuy thế, ngày nào cũng còn dư bánh mì đem về. Vợ tôi thoa nhẹ một lớp nước mỏng lên ổ bánh, và ủ qua đêm trong cái bao nylon. Buổi sáng, đem ra hơ trên lửa than. Bánh mì cũ lại trở thành bánh mì nóng giòn! 

Chuyện buôn bán cũng đủ cho gia đình sống lây lất qua ngày. Dù vất vả nhưng không bi thảm như lúc đầu. Đêm, tôi nằm hút thuốc trên chiếc võng đưa cọt kẹt. Vợ con tôi lo hấp xôi. Con tôi ríu rít kể chuyện. Có người ăn một lần đến ba gói xôi. Có người ăn xong, còn mua vài gói đem về nhà. Cũng có người chỉ ăn nửa gói, còn nửa gói chê dở, trả và đòi tiền lại.

“Rồi con có trả lại tiền không?” Vợ tôi hỏi.

Nó cười: “Không. Con bỏ chạy.”

Vợ nói: “Lần sau, nếu gặp người như thế nữa, con trả lại tiền cho người ta.”

“Nhưng họ ăn hết nửa gói rồi.”

“Thì trả lại tiền nửa gói.”

Nó vẫn cương quyết: “Không trả. Gói xôi ăn lỡ dở, thì còn bán cho ai được nữa?”

Trong câu chuyện, thường nó khoe học được nhiều tiếng Miên. Nó dạy cho vợ chồng tôi đếm số. Và điều này, cũng cần thiết cho chúng tôi trong giao dịch buôn bán hằng ngày. Không khí gia đình tương đối dễ thở, nhưng láng giềng có điều rắc rối.

Xóm nhà lá tôi ở, toàn là gia đình nghèo người Miên. Cuối xóm, có một nhà người Việt, nhưng tôi cũng không gần gũi tiếp xúc. Qua bao nhiêu cạm bẫy cung ná, tôi nghi ngờ sự thân thiện của người đời. Chúng tôi sống âm thầm khép kín. Tránh động chạm làm mất lòng những người chung quanh. Tuy thế, một hôm bà Miên gần nhà, chỉ trỏ qua nhà tôi và la ầm lên. Tôi đứng bên này cười, dù không hiểu lý do. Nụ cười không đúng lúc, bà tưởng tôi khiêu khích. Bà gầm thét, ném khúc gỗ sang tôi. Tôi né tránh, không phản ứng. Loại người vô giáo dục, thường rất đanh đá chanh chua.

Lúc đó, có anh người Việt nhà cuối xóm đi ngang, thấy vậy đứng lại nhìn. Tôi nhờ anh ta hỏi xem bà có chuyện gì? Sau khi hỏi, anh cho biết bả chửi vì tôi quăng cứt qua nhà bả. 

Tôi nói: “Tôi không làm chuyện dơ bẩn đó.” 

Bà Miên không tin, cho rằng chỉ có thằng Việt Nam xấu xa mới chơi kiểu mất dạy như thế. Bà còn dọa, coi chừng bà đốt nhà tôi.

Sau hôm ấy, hai nhà hai bên quét rác đùa qua sân nhà tôi. Hành vi kiếm cớ gây sự. Tôi chẳng nói gì. Trò bỉ ổi tiếp diễn mỗi ngày. Cái sân thành nơi đổ rác. Kệ mẹ nó! Nói tới nói lui, ngôn ngữ bất đồng dễ thành lớn chuyện. Im lặng là một cách tỏ lòng khinh bỉ. Tôi cũng đâu cần ăn đời ở kiếp nơi cái xóm nhà lá khốn nạn này. Lúc nào đầu óc tôi cũng nghĩ chuyện ra đi. Tôi như co chim chỉ đậu tạm qua đêm. Rồi bình minh sẽ đến, và tôi sẽ bay đi thật xa.


Mỗi ngày, tôi lội bộ đi và về sáu cây số để lấy bánh mì từ lò nướng. Vợ tôi bàn, nên sắm chiếc xe đạp, giúp đôi chân đỡ mỏi đường xa. Tôi mua chiếc xe cũ trành, với giá rẻ mạt. Xe không thắng, không chuông, không đèn, không vè. Chiếc xe trần trụi đơn sơ đến mức, nếu bỏ bớt một bộ phận nào đó, thì không chạy được. Chẳng ai động động lòng tham với chiếc xe thổ tả này, tôi nghĩ thế. Tôi thường dựng xe nơi góc phố. Đúng năm ngày sau, chiếc xe bị cuỗm mất. Đây cũng là bài học dạy cho tôi biết rằng, bản chất con người là tham ác gian manh. Họ không từ nan bất cứ một thứ gì. Kể cả những vật nhỏ nhoi như cây kim sợi chỉ, cũng dấy lên trong đầu họ ý muốn chiếm đoạt. Từ nghìn xưa, Phật và Chúa đã biết thế, nên chiêu dụ con người ăn ở hiền lành thì được lên Niết Bàn của Phật, hay Thiên Đàng của Chúa. Nhưng người đời thực tế lắm. Họ không thả mồi bắt bóng. Niết Bàn hay Thiên Đàng là ảo ảnh. Của cải trên thế gian là hiện thực. Chiếc xe đạp trành của tôi, dù không béo bở, nhưng rõ ràng nó là một miếng mồi hiện thực, có thể nhá được. Đừng ai đem địa ngục kinh khiếp mà dọa chúng sinh. Ngay chốn trần gian này, đã là địa ngục rồi. Có ai sợ đâu?

Những ngày bán bánh mì, tôi quen một cô tên Nga. Tôi gặp lần đầu khi cô đáp chuyến xe đò từ Krong Kaoh Kong về Phnom Penh. Cô bước xuống đường Thu Mút trong cái dáng vẻ của một cô gái bụi đời. Hút thuốc và ngồi quán uống cà phê. Cô mua bánh mì, ăn kèm với bò kho. Thấy tôi là người Việt, cô bắt chuyện làm quen. Vài lần như thế, đôi bên tỏ ra thiện cảm. Cô cho biết đã sống bốn năm trên xứ Chùa Tháp. Quê cô ở Bến Tre. Năm hai mươi tuổi, cô có người yêu đi Bộ Đội, đóng quân trên đất Kampuchia. Cô lên đây tìm người yêu, nhưng anh đã chết tan xác trong một cuộc phục kích bằng mìn của quân Khmer Đỏ. Đau buồn không muốn trở về quê cũ, cô sống lang thang nương tựa vào các trại quân Việt Nam. Tôi hiểu ngay rằng cô đang làm gái điếm. Năm nay, cô hai mươi bốn tuổi. Bốn năm lăn lóc bụi đời, cô già đi trước tuổi. Tôi cũng nói với cô về chuyện gia đình làm ăn sinh sống. Cô ngỏ ý muốn thăm vợ con tôi. Tôi dẫn về nhà, giới thiệu vợ con. Từ đó trở đi, đôi bên thành chỗ thân quen. Mỗi lần về Phnom Penh, cô ngủ lại nhà tôi.


Có lần cô nói: “Em xin kết nghĩa làm em nuôi của anh chị.”

Tôi hỏi đùa: “Ai sẽ nuôi ai?”

Cô cười: “Anh chị nuôi em.”

“Nhà anh chỉ có xôi và bánh mì.”

“Hai thứ đó cũng đủ no rồi.” 

Buổi tối, vợ tôi thì thầm: “Giai đoạn đầu, làm em nuôi. Giai đoạn sau, làm vợ nhỏ.”

Tôi nạt: “Nghĩ bậy!”

“Anh sắp ló đuôi rồi đấy.” 

“Đuôi gì?”

“Đuôi dê.” 

“Anh coi nó như em.”

“Lằn ranh anh em kết nghĩa mỏng manh lắm. Nhích tới một bước, em nuôi biến thành vợ nhỏ.”

“Ghen hả?”

“Tôi mà thèm ghen với con đĩ ngựa ấy à?”

“Ô hay! Sao mạt sát người ta? Nếu em không thích, anh bảo nó đừng đến đây nữa.”

“Hứ! Để coi hai người sẽ tiến đến đâu.”

Dù thế, bề ngoài vợ tôi không tỏ vẻ gì để cô Nga biết được ý nghĩ của mình. Tôi cũng không hề bảo cô đừng đến nữa. Cô coi gia đình tôi là chỗ thân tình. Lâu dần, cô hiểu rõ hoàn cảnh và lý do chúng tôi có mặt trên đất Kampuchia.

Một buổi trưa. Tôi đang nằm trên võng. Vợ con tôi đi chợ mua nếp và lá sen dùng cho việc bán xôi. Có gã Bộ Đội Việt Nam mang quân hàm thượng úy xuất hiện đột ngột trước ngưỡng cửa. 

Gã hỏi: “Có phải anh tên Trần Văn Năm?”

Tôi tái mặt. Có chuyện gì đây? Đối với tôi, người của chính quyền Việt Nam được coi như sứ giả của điềm báo tai ương.

“Vâng. Tôi là Trần Văn Năm.” 

Khi giao tiếp với mọi người, tôi tự đặt cho mình một cái tên giả. Nhưng sao gã Bộ Đội này biết? Gã tìm tôi có chuyện gì? Và biết gì về thân thế tôi? Nếu gã phát giác ra tôi đang cư ngụ bất hợp pháp, rắc rối sẽ không nhỏ. Tôi chưa kịp mời, gã đã vào nhà kéo ghế ngồi. Gã là khách, nhưng thái độ và cử chỉ hoàn toàn chủ động. Tôi trở nên lúng túng thụ động trước một đối tượng mà tôi rất ngại phải gặp mặt.

Tôi miễn cưỡng tiếp người lạ bằng chén nước lã: “Xin lỗi, nhà tôi không có sẵn nước trà.”

Gã khoát tay: “Được rồi.” 

Tôi ngồi bối rối.

Gã tra vấn: ”Anh lên Kampuchia làm gì?”

“Bán bánh mì.”

Gã cười nhạt: “Thật không?”

“Nếu không tin, anh có thể hỏi những người Miên chung quanh đây. Họ biết việc làm của vợ chồng tôi.”

“Ở Việt Nam anh làm nghề gì?”

“Thợ mộc.” 

“Cách Mạng vào Miền Nam, anh có đi cải tạo không?”

“Không. Chính sách của Cách Mạng không bắt những người dân như tôi đi cải tạo.”

Gã lắc đầu: “Tôi muốn nói chuyện với anh trong tinh thần hiểu biết và thành thật, nhưng anh chối quanh. Anh biết cô Nga không?”

“Biết.”

Gã nhắc tên cô Nga làm tôi giật mình.

“Cô là gì của anh?”

“Em nuôi.”

“Cô Nga nói, anh là sĩ quan Ngụy. Đi cải tạo, được Cách Mạng tha về. Trốn đi vượt biên, và bị người ta giựt hết vàng. Có đúng không nào?”

Thôi rồi. Bể chuyện hết rồi. Tôi hoảng sợ, ngồi im. Có lẽ, mặt tôi cắt không còn giọt máu. Thầm rủa con Nga khốn nạn. Nó lợi dụng sự thân mật của gia đình tôi để điều tra và tố cáo.

Gã tiếp: “Tôi đến đây là muốn giúp anh.”

Gã giúp được gì cho tôi? Muốn bắt bớ hay lường gạt? Gã lầm. Tôi chẳng còn của cải gì cho gã giở trò lưu manh lường gạt.

“Anh vượt biên là hành động trốn chạy. Tôi giúp phương tiện cho anh chạy. Nếu ở lại hoạt động chống đối, tôi bắt anh.”

Tôi ngồi nghe, không dám tin, không dám có ý kiến.

“Tôi đóng quân ở Tân Hao. Về đây công tác, sẵn dịp ghé lại nói chuyện cùng anh. Tôi có quen với một thằng chủ ghe người Miên. Hắn thường chở người vượt biên. Tôi là người cho hắn mượn súng đề phòng bọn cướp biển Thái Lan. Chuyến nào cũng trót lọt an toàn. Khi có dịp, tôi sẽ dẫn hắn đến đây để hai người trực tiếp nói chuyện với nhau.” 

Tôi dè dặt: “Cô Nga đã nói về tôi, chắc cũng đã cho anh biết, tôi không còn vàng để vượt biên.”

“Vì thế mà tôi muốn anh gặp hắn để bàn xem có cách nào giúp được anh.”

“Tôi bỏ ý định vượt biên rồi. Hiện tại, chỉ lo làm nuôi vợ con.”

Gã cau mặt: “Cô Nga năn nỉ tôi giúp anh, nhưng anh nghi ngờ mãi.”

“Xin đừng gài bẫy tôi, tội nghiệp.”

“Muốn bắt anh lúc nào chả được. Gài bẫy làm đếch gì.”

“Tôi sẽ hỏi lại cô Nga, về chuyện này.”

Gã đến đột ngột như muốn áp đảo tinh thần tôi. Và ngồi chưa nóng đít, đã thoắt đi như một cơn dông. Thái độ kỳ lạ của gã làm tôi hoang mang, nửa tin nửa ngờ. Mong gặp cô Nga để hỏi về gã sĩ quan bộ đội. Nhưng cô như cánh chim phiêu bạt, biết đâu mà tìm?

Cô Nga về lại Phnom Penh, khi gia đình tôi đang ăn cơm chiều. Lần nào về, cô cũng mang theo món gì đó để ăn với chúng tôi. Tôi nghĩ, cô chịu đựng sự dày vò thân xác để mua món ăn đem đến. Đã mấy lần, tôi bảo cô không nên mua gì cả. Cô chỉ ậm ờ, rồi vẫn làm như những lần trước.

Vợ tôi nói: “Em về đây, đừng phí tiền mua món này món kia. Chị ngại lắm.”

Cô cười: “Không tốn kém bao nhiêu. Em góp phần cho vui.” 

Khi nói chuyện, cô thường nở nụ cười rất tươi. Vì thế mà nhiều thằng mê cô chăng?

Sau bữa cơm, tôi chờ cô nói về gã Bộ Đội, nhưng cô cứ lờ đi.

Cuối cùng, tôi mở lời: “Hôm trước có một thượng úy đến nhà anh...”

“Ồ! Hắn đến rồi hả? Có nói gì không?” 

Tôi hỏi lại: “Em đã nói gì với hắn?”

Cô gọi vợ tôi cùng ngồi: “Em quen với gã thượng úy này lâu rồi. Hắn có nhiều tiền. Em thắc mắc, với đồng lương chết đói của bộ đội, hắn lấy tiền đâu ra mà nhiều thế? Hắn kể rằng hắn bán bãi cho những tổ chức vượt biên. Nghe chuyện vượt biên, em nghĩ ngay đến anh chị. Em kể cho hắn về những khó khăn hiện tại của anh chị, và yêu cầu hắn giúp đỡ. Hắn đòi điều kiện. Em bảo, thân xác em chính là điều kiện của hắn.”

“Sao em tự hy sinh mình như thế?” Vợ tôi ái ngại.

Cô nói: “Chị ơi, đời em đã ba chìm bảy nổi, quý giá chi đâu mà so đo hơn thiệt. Em tính đưa hắn về đây giới thiệu, nhưng chưa có dịp. Không ngờ hắn tự mò đến trước. Hắn nói với anh chị thế nào?”

“Hắn nói sẽ dẫn thằng cha chủ ghe đến, nhưng anh chưa biết thực hư ra sao, chưa dám tin.”

“Chuyện này có thể tin được. Hắn chịu giúp mà không đặt điều kiện với anh chị, vì hắn biết anh chị không còn gì cả.”

“Tốt đến thế à?”

“Không. Hắn đặt điều kiện với em.” 

“Điều kiện gì?”

“Sau khi anh chị ra đi, em làm vợ hắn.” 

Vợ tôi hỏi: “Rồi em tính sao?”

Cô bình thản: “Trao đổi như thế cũng hay. Hắn cần tình. Em cần tiền.

Ngồi lặng một lúc lâu, vợ tôi xúc động cầm tay cô Nga: “Chị có lỗi với em,”

Cô ngạc nhiên: “Không. Chị có lỗi gì đâu?”

Cô Nga không hiểu, nhưng tôi hiểu. Vợ tôi ân hận vì đã nghi ngờ có chuyện vụng trộm giữa tôi và cô Nga, và gọi cô là con đĩ ngựa, dù chỉ nói với tôi.

Trong một đêm trăng mù sương, nơi ven rừng âm u sát bờ biển, cô Nga đưa chúng tôi xuống bãi Tân Hao. Cô đi với gã thượng úy. Gã đến đây, kiểm soát và đếm đầu người để tính ra số vàng tên chủ ghe người Miên phải trả.


Mọi người đã lên ghe. Vợ con tôi cũng lên ghe rồi. Cô Nga đứng sát mé nước. Sóng trườn lên bãi ướt cả gấu quần. Tôi cầm tay cô, ứa nước mắt nói những lời từ biệt. 

Cô cũng siết tay tôi: “Anh chị ra đi bình yên. Mong chị không hiểu lầm em.”

Dưới màu trăng khuya, tôi không nhìn rõ mặt cô Nga nhưng tôi đoán cô buồn lắm. Đó là lần cuối cùng tôi và cô còn gặp.


Mười hai năm, trên xứ Mỹ. Thời gian không dài lắm, nhưng cũng đủ lãng quên những oán hờn ngày cũ. Bao nhiêu khuôn mặt bẩn thỉu xấu xa trong quá khứ, nhòa dần trong trí nhớ. Chỉ hình ảnh một cô Nga là còn đậm nét trong tôi. Muốn tìm cô để đền cái ơn tri ngộ, không là điều dễ. Trên đất nước Kampuchia ngày ấy, tôi cũng chẳng biết cô lưu lạc phương nào. Và tên Nga cũng chưa chắc là tên thật của cô ở quê nhà. Làm sao tìm lại được một con chim bay trong bao la trời đất?


Lâm Chương