Tôi là người gốc Triều Châu
nhưng từ nhỏ đến lớn chỉ học tiếng Việt và chỉ giao du với bạn Việt Nam và ngay
cả cái nhà tôi ở cũng ngay trung tâm thành phố (ngay trước Hội Đồng Xã Tân An - Cần Thơ) và
xung quanh là nhà của các công chức VN. Vốn liếng tiếng Tiều của tôi lúc đó rất
ít nhưng lớn lên, cho đến giờ tôi vẫn có một suy nghĩ: Tại sao người ta gặp
nhau hay hỏi "Anh khỏe
không?" hay "How
are you?" "你好嗎?" nhưng duy nhất thời đó người Triều Châu ở VN gặp
nhau lại hỏi là "食飯未?" (“chẹ
bừng quề”) có nghĩa là "Ăn cơm chưa?"
Tôi cho tới giờ vẫn còn bâng khuâng đó nên vẫn muốn tìm hiểu tại sao người Tiều ở VN gặp nhau hay hỏi "Ăn cơm chưa?" mà không bao giờ hỏi "Khỏe không?" vẫn không thấy gì giải thích nào thỏa đáng trên mạng; nhưng lại may mắn tìm được một truyện ngắn của tác giả Bình Nguyên Lộc (phía dưới). Đọc hết câu chuyện trong bài viết, tôi cảm thấy nghẹn ngào, rưng rưng có lẽ nó bây giờ thắc mắc đã được giải đáp dù cho chưa thỏa mãn, nhưng cũng đáp ứng phần nào cho chút suy tư của tôi.
Khuyết
Danh
*********
Ăn Cơm Chưa?
Bà sơ rút nhiệt kế ra khỏi
nách tôi, chăm chú đọc nhiệt độ, mặt lộ vẻ ngạc nhiên như không tin ở điều mà
bà đã thấy. Bà dòm mặt tôi, đoạn đọc lại một lần nữa.
Tôi đang hồi hộp vì đoán rằng có chuyện không hay thì bà đã nhảy ra khỏi phòng, làm cho tôi hốt hoảng đến cực điểm. Tôi mắc chứng thương hàn, sốt mê man mấy tuần nay, vừa tỉnh lại chứng kiến sự bối rối của con người áo đen bé loắt choắt ấy, làm tôi ngỡ là tôi sắp chết đến nơi.
Nhưng gương mặt tươi của bác
sĩ Chaput hiện ra nơi khung cửa, giúp tôi an lòng lại ngay. Giờ ấy còn sớm quá,
bác sĩ, chắc mới đến nhà thương, chưa kịp mặc áo choàng, còn mặc thường phục.
Bà sơ theo sau nói:
- Hắn không còn nhiệt độ nữa,
chắc hắn phải lạnh lắm, vì sự thay đổi đột ngột nầy, tôi cho hắn uống “Potion
de Todd,” bác sĩ nhé!
- Phải đấy.
Đoạn bác sĩ hỏi tôi:
- Ông nghe thế nào?
- Như vừa tái sanh, thưa bác
sĩ.
- Tốt! Mới nghe, tôi hoảng lắm,
vì nhiệt độ xuống thình lình, có thể là triệu chứng của sự chảy máu ruột… nếu
ông lén ăn gì.
Tôi cười, một cái cười héo
hon của con người sốt liên miên hăm tám ngày, mà không ăn uống gì cả trong thời
gian đó. Bác sĩ dặn thêm, trước khi rời buồng tôi:
- Vài hôm nữa là thèm
ăn, nhưng phải nhịn, ăn là lủng ruột ngay… Ngoan lên nhé!
Quên nói rõ, là tôi mắc bịnh
nầy trước chiến tranh, vào thuở mà loài người chưa tìm ra thuốc trị thương hàn.
Nhà thương cứ để vậy, tiêm thuốc nâng đỡ cho trái tim khỏi lụy, rồi ai kháng chết
được, thì sống, ai yếu lắm, là đi luôn.
Như vừa được tái sanh! Tôi
không nói quá đâu. Vi trùng bệnh thương hàn phá rối sinh lý con người một cách
kỳ lạ lắm. Tôi nghe yêu đời ghê hồn và dòm ra sân nhà thương tỉnh Bình Dương (bấy
giờ là Thủ Dầu Một), tôi thấy khóm bông dừa, thứ bông hèn ấy, sao mà hôm nay lại
đẹp lạ lùng.
Trưa hôm đó, bác sĩ Chaput
khoe với tôi rằng, ở trại bố thí III, một con đồng bịnh với tôi cũng vừa khỏi.
Ông ta sung sướng về chuyện ấy lắm, vì con bịnh các trại bố thí chết nhiều quá,
khiến dân chúng hiểu lầm, nhà thương bỏ bê người nghèo khó. Sự thật, thì sở dĩ,
số tử ở đó lên cao theo tỷ lệ, vì các con bịnh nghèo, thường để thật nguy kịch
mới vào nhà thương và khi vào điều trị, không có người nhà theo để săn sóc, nhà
thương chỉ vừa đủ người lo thuốc men thôi. Còn những sự săn sóc (rất cần thiết)
phải được người nhà lo lấy mới mong lành bịnh.
Tôi yêu đời, và cố nhiên, yêu
kẻ đồng bịnh vừa khỏi cùng một lượt với tôi. Ba hôm sau, được nuôi dưỡng bằng
nước xúp và bột Ý, tôi đã chống gậy đi được, và mục tiêu phiếm du đầu tiên của
tôi là trại III.
Kẻ đồng bịnh với tôi là một
cô gái Trung Hoa, hai mươi tuổi, con gái đang thì, cái ngực tất phải to, thế mà
tôi trông cô ta xẹp lép như con cá khô. Cái mền cô ta đắp, như dán sát vào chiếu
nhà thương.
Người bạn đồng bịnh với tôi,
đi không được như tôi. Trong cơn nóng sốt không ăn, người nhà tôi có mua “Sérum
Glucosé” cho bác sĩ bơm vào tôi, nhờ thế mà tôi không suy lắm. Con bịnh nghèo nầy,
thì khỏi hưởng món xa xí phẩm ấy, mà nhà thương không sắm được, vì kém tài
chánh.
Tuy nhiên, nhìn sơ cô gái,
tôi cũng thấy là cô ta đẹp lắm. Hoa tàn kia mà còn mang dấu vết thời tươi thắm
thay, huống chi đây chỉ là một đóa hoa thiếu nước lọ trong chốc lát thôi… Cứ
theo người cùng trại với “Á Lìl,” tên cô, thì cô ta là một đứa bé được “mua.”
Chú Xừng Hinh, chủ tiệm chạp phô ngoài chợ, năm xưa về thăm quê quán bên Tàu, gặp
mùa lụt lội, đói kém, đã mua đứa bé ấy ba mươi đồng bạc. Bạc Trung Hoa với bạc
Đông Dương thuở ấy tương đương giá với nhau, thì quý vị biết, con bé ấy rẻ là
dường nào.
Chú Xứng Hinh cũng khá, xem Á
Lìl như con chú, chớ nhiều thằng khác, nó nuôi những con bé “nước lụt” ấy cho đến
thời trổ mã, bắt làm lụng cho bù với số tiền mua, rồi lại hưởng luôn chúng là
khác.
Như chủ nó, Á Lìl là người
Triều Châu. Phụ nữ Triều Châu để rìa tóc phủ lên trán, xem rất ngây thơ và có
duyên. Họ lại đẹp người hơn tất cả các thứ người Trung Hoa khác. Á Lìl lại là
gái dung nhan có hạng trong thứ người đẹp nầy, nên tình thương kẻ đồng bịnh của
tôi, bỗng nhiên, tăng lên gấp bội, vì tôi mới có hăm ba tuổi.
Nếu như ở ngoài, chắc không
bao giờ tôi nghĩ đến chuyện yêu một “ả nô tỳ,” cho dẫu là nó đang đẹp lộng lẫy.
Nhưng ở đây, cô ta là con bịnh, đồng hạng với tất cả con bịnh khác.
Một ngày, tôi chống gậy xuống
trại III đến hai lần, lần nào tới nơi, tôi cũng đứng lại nơi cửa trại, để thở dốc
một hơi, rồi mới vào được...
Á Lìl đoán biết tình cảm của tôi đối với nó, nên lần nào, mắt nó cũng sáng lên, khi nghe tiếng gậy của tôi nện cồm cộp trên gạch.
Từ năm lên chín, mãi đến bây
giờ, nghĩa là từ năm bị bán và đưa sang nước “An Nam,” con “nô tỳ” nầy chưa được
ai nói ngọt với nó lời nào cả. Bây giờ, bỗng nhiên có một dân mặc “bi-da-ma,”
lân la thăm hỏi nó, thì làm sao nó không rưng rưng lệ sung sướng được.
Mặc dầu chỉ được uống nước
cháo với đường hạ, con ở Á Lìl cứ càng ngày càng hồng hào ra. Con gái, dường
như, có dự trữ trong người những sức mạnh gì như cứ chực vùng lên, không cần ăn
gì cho bổ lắm, họ cũng cứ béo tốt ra.
Má Á Lìl cạn dần lên, trông
ngon như hai trái đào ở bảy phủ Triều Châu mà Á Lìl thường ca tụng với
tôi. Trông Á Lìl, tôi nghĩ ngay đến những phi tần bên Tàu ngày xưa, cũng
tuyển lựa trong đám dân “nước lụt” như vầy. Thì ra, con gái Trung Hoa, ngàn đời,
vẫn đẹp và vẫn để mà tiếp tế cho các cung tần. Á Lìl sẽ làm bé chú “chệt” già đại
phú nào đây, một ngày kia.
Hôm ấy, Á Lìl ngồi dậy được,
nhưng còn phải ăn cháo hoa với “hàm-yũu.” Cháo với vị mặn giúp Á Lìl tươi tỉnh
hẳn ra. Nó tiếp tôi bằng một bài hát gì đó, tôi không hiểu, nhưng rất thích
nghe. Cái giọng mũi của người Triều Châu, khi hát lên, nghe líu lo rất dễ yêu,
nhứt là dễ thương, nghe như là họ khóc cảnh sống lầm than của họ.
Á Lìl cắt nghĩa cho tôi biết
rằng, bài hát ấy nói đến cái mặt trăng nho nhỏ và tròn tròn. Nó mới giải thích
tới đó, thì người nhà chú Xừng Hinh mang cho nó một “gàu-mên” cơm. Mắt con Lìl
sáng hơn là khi tôi mới vào thăm nó nữa... Tôi hỏi:
- Nhà đem cơm từ bao lâu rồi?
- “Ngóa” thèm quá, chỉ mới nhắn
đem vô lần đầu thôi.
- Lìl không nên ăn cơm vội.
Bác sĩ không có dặn gì sao?
- Bác sĩ nói tiếng Tây, ngóa
đâu có hiểu. Bà Sơ biết chút ít tiếng Annam, dặn đừng cho ăn đồ cứng, ăn thì lủng
ruột chết liền.
Á Lìl nói xong cười ngặt nghẹo,
một hơi, rồi tiếp:
- Đời thuở nào, ăn cơm lại chết.
Chỉ có không ăn cơm mới chết thôi.
- Lìl không hiểu, chớ ruột
Lìl đã bị vi trùng làm cho mỏng lắm rồi đó.
Á Lìl lại cười một giây nữa,
mà rằng:
- Bị thuốc của thằng Tây làm
cho mỏng thì có. Thầy biết sao không? Hổm nay ông Tây chích cho “ngóa” chết mà
“ngóa” không chết, nên ổng bỏ đói cho “ngóa” chết đó...
Á Lìl nói rồi vừa kéo gàu-mên
cơm lại, vừa nói:
- Ăn cơm với gừng nấu dấm thì
tốt lắm, như người “An nam” ăn với muối tiêu vậy mà, chết sao được.
Tôi bối rối quá. Hôm ấy có Mẹ Bề Trên, người cai quản các bà Sơ, từ Sàigòn lên Bình Dương thanh tra, nên bà Louise bận tiếp đón bà Mẹ Bề Trên ấy, không còn ai cho tôi cầu cứu để thuyết lý Á Lìl. Các thầy khán hộ thì đã dặn con bịnh cữ kiêng xong là nghe tròn bổn phận, không theo dõi họ để ngăn cản gì nữa. Còn tôi, tôi ngại một điều, mà cũng chẳng khỏi.
Khi tôi giựt lấy “gàu-mêm”
cơm, thì Á Lìl giận dỗi trách:
- “Cố lứ” nói thương “ngóa,”
sao không cho “ngóa” ăn cơm?
- Vì thương mới không cho ăn.
Thật thế. Nếu Á Lìl chỉ là một
cô gái xấu xí, tôi cũng không nỡ để cho nó tự tử một cách gián tiếp như vậy. Huống
chi trong mấy ngày vui mừng tái sanh ấy, tôi lại điên dại mà yêu đứa “nô tỳ” nầy.
Lìl cười gằn hỏi:
- Thương gì lại bỏ đói?
- Vì ăn thì chết ngay.
- Đời thuở nào, ăn cơm lại chết.
Chỉ có không ăn cơm mới chết thôi.
Á Lìl lập lại câu hồi nãy, rồi
khóc mùi mẫn.
Thật là em nhỏ, mất miếng ăn
một cái là khóc bù lu, bù loa. Nhưng không sao, tôi sẽ dỗ em nhỏ, thì em nhỏ
nín chớ gì.
Tôi định bụng như thế, nhưng
tôi lầm.
Lần đầu tiên, tôi rờ đến Á
Lìl. Tôi vuốt tóc trán nó và nói rằng:
- Lìl nín đi, rán nhịn, rồi
vài bữa khỏi hẳn, tôi sẽ đưa Lìl đi ăn tửu lâu Triều Châu Đại La Thiên ở Chợ Lớn,
có nhiều món ngon bằng một vạn thứ cơm gừng dấm nầy. Ở Đại La Thiên có chè thịt
heo nè, có cù lao nè.
Nhưng Á Lìl cứ khóc, khóc như
cha chết mẹ chết không bằng, lâu lắm nó mới nói được trong tấm tức, tấm tưởi:
- “Ngóa” nhớ tía má của
“ngóa” quá. Tía má “ngóa” vì không có cơm ăn nên chết. Tía “ngóa” chết đi được
một tháng, thì má “ngóa” bán “ngóa” cho Xừng Hinh lấy tiền mua gạo cho mấy em của
“ngóa” ăn. Nhưng cả nhà ăn giỏi lắm được mười ngày, chắc rồi cũng chết hết. Cơm
sao lại giết người? Không cơm mới nguy chớ!
Nghe Á Lìl nhắc tới nguồn gốc
nó, tôi đau xót vô cùng. Cơm là giấc ác mộng của người Trung Hoa từ mấy ngàn thế
hệ nay, cho đến đỗi họ gặp nhau, chào nhau bằng câu: “Ăn cơm chưa?”
Nhưng làm thế nào cho con bé
dại dột nầy hiểu rằng, không cơm thì chết đã đành, mà có cơm, lắm khi cũng chết.
Vả lại, Á Lìl không cả quyết
ăn vì thèm nữa, mà ăn để trả thù sự chết đói của cả nhà nó, thì làm sao mà thuyết
phục nó được. Có lẽ nó đang nhìn cơm, mà nói thầm: “Ừ, ngày xưa, cha mẹ tao
không có mầy nên chết, bây giờ gặp mầy đây, tao có dung tha đâu! Tao ăn cho sống
dai, mặc kệ lũ nó bày điều, đặt chuyện.”
Biết nói làm sao cũng không
xong, tôi xách “gàu-mên” mà đi. Sau lưng tôi, Á Lìl chửi rủa om sòm bằng
tiếng Tàu. Nếu nó mà rượt theo được, chắc nó một mất, một còn với tôi, để cướp
cơm lại.
Chiều hôm ấy, tôi trốn luôn,
đến sáng ngày hôm sau mới dám chống gậy qua trại III. Á Lìl vắng mặt trên
giường. Thấy tôi ngơ ngác tìm quanh, một bà lão vừa ho sù sụ, vừa nói:
- Nó chết đêm rồi thầy à, hồi
năm giờ sáng. Người ta đã khiêng nó xuống nhà xác.
- Trời ơi! Sao lại chết?
Tôi giậm chân mà hỏi câu ngớ
ngẩn ấy.
Người khán hộ ở đâu sau lưng
tôi đáp hộ bà lão:
- Chảy máu ruột!
- Sao lại chảy máu ruột?
- Vì ăn!
- Trời ơi!
Bà lão ho, rồi lại nói:
- Thầy giựt cơm của nó mà trốn
đi, thì chiều lại, người nhà nó đem cơm vô nữa. Nó ăn xong, tối lại kêu đau bụng,
vằn vật tới khuya mới chết.
- Sao bà không mời bác sĩ dùm
nó?
- Có, tôi có cho bà Sơ hay, bả
có kêu thầy đây.
Bà chỉ vào thầy khán hộ, thầy
ta lắc đầu thở ra và giải thích:
- Tôi có tiêm thuốc cho nó,
nhưng không gọi bác sĩ...
- Sao vậy?
- Vô ích. Chỉ có sang máu mới
có một chút xíu hy vọng cứu nó; Nhưng ai sẽ cho máu nó? Còn thuê người để lấy
máu thì tiền đâu?
Là con trai, tôi không khóc
được. Nhưng lòng tôi đã tơi bời như áo mục phơi dưới gió to…
Đứng tần ngần giây lâu, tôi hỏi
bà lão:
- Nó có nói gì hay không bà,
lúc nó hấp hối?
- Có. Nó có kêu thầy...
- Kêu tôi? Có nhắn gì hay
không ?
Nó kêu khóc rằng:
“Thầy
hai ơi, té ra, quả thật không cơm cũng chết, mà ăn cơm cũng chết.. ‘Ngóa’ nghèo
dốt, biết đâu. Trước kia tía má của ‘ngóa’ nghèo nên không ăn cơm, ngày nay
‘ngóa’ nghèo nên không biết, hai lần đều chết. Thầy hai ơi, ở lại mạnh giỏi
nhá!”
Tôi không còn là con trai nữa, nhưng tôi không khóc tiếc thương một cô gái đẹp. Tôi chỉ khóc vì một gia đình sống không tên, không tuổi bị thảm kịch cơm làm tuyệt nòi, chỉ còn một mống thôi. Mống ấy trôi dạt đi xa ngàn dặm, qua cái xứ có cơm nhiều nầy, mà lại cũng không thoát khỏi thảm kịch cơm.
Ngày nay, mỗi khi nghe một
người Trung Hoa chào ai: “Ăn
cơm chưa?” tôi bâng khuâng nhớ lại mối tình yêu đầu và nao nao
buồn mối tình thương đầu của tôi.
Bình Nguyên Lộc
No comments:
Post a Comment