---
Chào 45 năm, sự biến mất của một nước Cộng hòa miền Nam ---
Tôi là ai, giữa dòng định mệnh mang tên Việt Nam?
Câu hỏi đó vẫn theo đuổi tôi, buộc tôi phải luôn nhìn lại mình, nhìn những khát
vọng co rút lại như miếng da lừa, và đếm lại tuổi trẻ hoang phí, ngu ngơ trước
cối xay gió thời cuộc bên đường.
Ký ức lớn nhất của những ngày thơ ấu mà tôi luôn bị
ám ảnh, đó là một buổi sáng nắng gắt, trên mặt đường đầy quân trang vứt la liệt
khắp nơi. Tiếng người gọi nhau. Tiếng xe hỗn loạn. Tay mẹ nắm chặt tôi như sợ
tôi vụt mất đi, y như một quốc gia miền nam Việt Nam đã tan biến kỳ lạ sau cuộc
chiến tranh dai dẳng hai mươi năm.
Từ lúc đó, tôi lớn lên, loay hoay nhiều năm với việc
lựa chọn mình phải là gì, phải như thế nào để được chấp nhận là một sinh linh hợp
pháp trong một quốc gia mới, có tên Cộng sản.
Cuộc sống của một người Việt Nam không đơn giản đâu
bạn ạ. Nếu mười năm hay hai mươi năm nữa, khi được hỏi, tôi cũng sẽ nhắc lại, y
như vậy không khác gì. Nhưng chúng ta vẫn có thể vẽ lại nó.
Năm lớp ba, tôi học ở ngôi trường cách không xa
trung tâm Sài Gòn, nhưng hẻo lánh và nghèo nàn như một ngoại ô. Thằng bạn cùng
tuổi có cuốn truyện tranh của chế độ mới, kể về anh bộ đội chiến đấu giỏi, mà
tôi mượn mãi không được. Cuối cùng thì nó đồng ý cho mượn xem, nếu như tôi mang
đồ ăn cho nó. Ấy vậy mà sau khi ngồm ngoàm hết món tôi đưa, nó vẫn không cho mượn.
Giận quá, tôi gào lên với nó bằng một câu nói mà thời đó, tôi hay nghe người lớn
chỉ vào mặt nhau: “Đồ bợ đít cộng sản”.
Thằng bạn cũng nổi giận- dường như câu nói đó vào cuối
những năm 1970 là rất nặng nề thì phải. Nó lập tức chạy vào lớp và kể với cô chủ
nhiệm rằng tôi đã gọi nó là “cộng sản”. Bà cô nghiêm mặt, trầm giọng nói tôi ở
lại cuối giờ để nhận mức trừng phạt.
Tôi sợ hãi, co ro ở cuối lớp và chờ sự trừng phạt
vào chiều hôm ấy. Thế nhưng kỳ lạ thay, cô chủ nhiệm nhìn quanh khi không còn
ai, bước tới nắm tay tôi, nói dịu dàng và lo lắng: “Con không được nói như vậy
nữa, rất nguy hiểm biết không?”. Sau này, tôi mới biết cô có người em trai là
sĩ quan của chế độ cũ phải đi tù- mà nhà nước mới gọi là học tập cải tạo.
Nhà trường vẫn là nơi đổ đầy vào đầu trẻ con miền
Nam những câu chuyện thú vị về những con người mới đến từ miền Bắc, về một ông
cụ có râu dài, da mặt hồng hào được gọi là Bác Hồ.
Là trẻ con, tôi cũng bị hút theo những điều mới lạ
như vậy. Một ngày kia, tôi đeo khăn quàng đỏ chạy về nhà ăn cơm với mẹ và các
chị. Tôi khoe học được rất nhiều điều, và kể cho mẹ tôi “Bác Hồ biết nói đến
sáu mươi thứ tiếng, trong khi Đức Giáo Hoàng chỉ biết có năm thứ tiếng thôi, thầy
con nói vậy”. Cả nhà tôi im lặng ăn, không ai nói với ai tiếng nào. Nhà tôi lúc
đó vắng người. Các anh rể thì đi học tập cải tạo, còn các chị thì đang ngồi tù
vì vượt biên không thành.
Sau các câu chuyện kể từ bài học mới của tôi, mang từ
nhà trường xã hội chủ nghĩa về, ở nhà có thêm những tiếng thở dài.
Dù chỉ là trẻ con, tôi vẫn nhận ra có những điều gì
đó mâu thuẫn, rách nát trên một bề mặt cuộc sống được đậy kín, ca vang những
bài ngợi ca đời mới tươi đẹp. Nó là tiền đề để tôi nhìn, nhận thức của mình bị
cào cấu, và cuối cùng nát vụn mọi thứ trong tôi qua từng niên kỷ, khiến tôi phải
tự khâu vá đời mình cho đến hôm nay.
Cuộc sống niên thiếu trôi qua lãng đãng trong thống
khổ. Tôi nhớ những chén bo bo dành cho ngựa ăn với đường chảy mà Liên Xô viện
trợ cho Việt Nam vào những mùa miền Nam đói quặn. Tôi nhớ những ngày xếp hàng
rã rượi để lãnh được mấy ổ bánh mì theo nhân khẩu, vác vội về nhà rồi ăn ngấu
nghiến như ngày mai là tận thế. Tôi nhớ những đêm bọn trẻ đua xe đạp điên cuồng,
gào thét trong những đêm cúp điện triền miên để giải trí.
Nhà trường, các anh chị cán bộ dạy dỗ nói rằng tội
ác xâm lược của bọn bành trướng Bắc Kinh khiến người Việt Nam phải chịu khổ như
vậy. Mọi người nghe, và hò hét vỗ tay như trò giải trí của bọn trẻ chúng tôi
vào những đêm cúp điện, nóng hực.
Rồi mọi thứ dần đổi thay, tôi cũng đổi thay.
Thật cám ơn những thùng sách vở từ chế độ cũ mà gia
đình tôi, mẹ tôi quyết tâm giấu giữ lại, bất chấp việc truy lùng, bắt, đốt của
chính quyền như thời chống dị giáo. Như đứa trẻ may mắn tìm được lối đi bí mật
đến được vùng đất phép thuật Narnia, tôi tìm thấy một thế giới khác cho mình,
chìm đắm vào đó. Thậm chí có những ngày tôi trốn học về nhà chỉ để ôm sách ra
vườn đọc.
Sách giúp tôi vượt qua những bữa ăn cơm độn khoai lẫn
cát. Sách giúp tôi chỉ hô vang một lần ở những buổi mít-ting bắt buộc, rồi dành
thời gian để quan sát đám đông đỏ mặt, hổn hển vô nghĩa.
Từ sách, tôi biết nước Việt mình rõ hơn. Biết số phận
dân tộc mình nhiều hơn, và ý thức được về bản thân mình trong một nhà nước cộng
sản là như thế nào. Và tôi cũng biết nhiều hơn về ông cụ có bộ râu dài, da mặt
hồng hào, mà mọi người gọi là Bác Hồ.
Không biết từ khi nào, tôi đã bị ám ảnh về sự thật.
Và thật may mắn- hay xui rủi, tôi cũng không biết- tôi lại khao khát muốn được
sống cuộc đời cống hiến cho hiện thực. Tôi muốn làm một công dân Việt nói lên sự
thật và trình bày những gì tôi thấy, bất chấp điều đó có thể tước quyền, không
cho tôi làm thần dân trong vương quốc Cộng sản.
Tôi là ai vậy? Có lúc tôi tự hỏi.
Mang trong đầu đầy những điều khác lạ so với các bài
giảng, với nhà trường, với các buổi học chính trị, và âm thầm khác biệt ngay cả
trong thời kỳ tôi được ưu ái, bầu chọn là phó bí thư Đoàn thanh niên Cộng sản,
được coi là “hạt giống quốc gia”.
Những ngày tháng đó, tôi cũng đã tự hỏi mình: phải
ra sao? Và khi nào thì có thể sống nguyên vẹn là mình mà không cần tung hô, là
một người Việt Nam thuần túy với danh dự, trách nhiệm và duy chỉ tổ quốc mà
thôi?
Nhiều năm trước, khi được gọi là nhà báo và là nghệ
sĩ, tôi thấy mình quá mệt mỏi với trò hai vai trong một vở kịch đời, nên tôi tự
quyết định rút lui và chỉ chọn một bộ mặt để sống. Một trong số rất đông học
trò của tôi lúc ấy, dũng cảm nói thẳng vào mặt tôi rằng “Tội nghiệp thầy, nếu
thầy không phản động, thầy đã có hết mọi thứ”.
Thật là một nhận xét đáng nhớ và cần thiết.
Tôi có hèn yếu không, khi không gánh nổi cái trò một
đời-hai vai mà hàng triệu người già trẻ Việt Nam vẫn đang làm, hay bị buộc phải
vào vai? Chọn một bộ mặt đúng như mình muốn, tôi đã nếm thất bại rất nhiều, từ
chuyện bị đuổi việc liên tục hết nơi này đến nơi khác, bị hành hạ tinh thần bởi
các cơ quan văn hóa lẫn an ninh…
Hóa ra, đôi khi không nhận hai vai, mọi thứ lại còn
phức tạp hơn, nhất là trong cuộc sống phải được cho phép từ một nhà nước độc
tài.
Có những lần nghĩ ngợi như vậy, tôi thường tự đặt
câu hỏi rằng, một trí tuệ như đại công thần Nguyễn Trãi, khi đón Lê Thái Tông ở
Chùa Côn Sơn, ắt đã biết lành ít dữ nhiều. Vậy sao Nguyễn Trãi không cúi đầu
van xin, không quỳ xin sống? Người có thể viết một bản văn, đã xua được cả một
đạo quân phương Bắc lại không cất lời thuyết phục vua?
Chắc chắn vì Nguyễn Trãi không thể sống hai vai. Kẻ
sĩ có thể mang nhiều giai đoạn của thời thế trong đời mình, nhưng chỉ có một bộ
mặt để ngẩng lên và cất tiếng cười ngạo nghễ với đời.
Thầy Thích Tuệ Sỹ cũng ghi lại những câu chuyện như
vậy, và trong bài Trí Thức Phải Nói, thầy viết: “Nhưng tôi biết rõ một điều, và
điều đó đã được ghi chép trong lịch sử: trí thức chân chính của Việt Nam không
bao giờ khiếp nhược”.
May mắn thay, tôi biết viết, biết đọc, và hơn nữa,
tôi là người Việt Nam. Giờ thì tôi chỉ còn phải cố gắng tập để mình không khiếp
nhược, và giới thiệu sự không khiếp nhược đó cho những người chung quanh, đặc
biệt trước thời đại cái ác ngày càng lộ nguyên hình.
Ai đó đã gửi đến một câu hỏi cho tôi “Người Việt hiện
nay cần nhất là điều gì?”. Đó là câu hỏi rất lớn, mà cũng rất nhỏ.
Người Việt hôm nay đã có đủ tất cả, và thậm chí dư
thừa hơn ngày trước rất nhiều. Từng bữa ăn của đầu thập niên 1980, gia đình tôi
phải dành miếng thịt ít ỏi có được cho bà ngoại, đau yếu quanh năm. Nhưng những
đưa trẻ hôm nay đang phát ốm vì được ép ăn quá nhiều thịt. Không những vậy,
hãnh tiến nhiều hơn, chia rẽ nhiều hơn và thù hận vì lý tưởng cũng được tổ chức
công phu hơn ở cấp nhà nước.
Người Việt cần nhất điều gì? Tôi chỉ xin chọn một điều,
đó là người Việt trở về là người Việt, biết chọn lẽ phải và sự thật, biết nổi
giận trước cái ác và biết nhục khi còn bao biện trong việc quỳ gối trước cường
quyền.
George Orwell kể rằng khi những con lợn con được
nuôi dạy và quay lại trang trại, chúng chỉ còn biết máng ăn và tuân lệnh.
Người Việt phải là người Việt thì mới có thể chọn những
thứ khác hơn là máng ăn và thuần phục. Người Việt phải là người Việt mới có thể
nhìn vào núi sông, tổ tiên ngàn năm đã đổ máu để gìn giữ sự tự do cho con cháu
hôm nay.
Vì sao đó là điều cần nhất?
Vì bởi một tương lai sẽ tới của một dân tộc Việt tự
do và trường tồn với lòng kiêu hãnh, không cần những kẻ đã quen làm nô lệ,
không cần những kẻ hai vai, hai mặt. Đất nước phát triển lộng lẫy làm gì khi
con dân Việt trở thành bầy đàn đớn hèn và chỉ còn biết máng ăn của mình?
Khi đọc đến đây, ai đó sẽ nói rằng tôi đang chống cộng?
Nhưng đúng nhất, là tôi chống sự mất mát của người Việt, mất mát màu da, tiếng
nói mà tôi đã nhận mình là một phần trong đó.
Sinh ra làm người Việt là điều không thể chọn, tôi
thấy mình đã đứng trong đời Việt như một định mệnh đầy biến động và trắc trở.
Nhưng dù định mệnh như thế nào, thì chúng ta vẫn có thể chọn không làm kẻ hèn,
không làm nô lệ cho bất kỳ ai, cho triều đại nào.
Cộng sản cũng là những người đã chọn hai vai: giả vờ
yêu nước và mưu mô cầm giữ quyền cai trị mãi mãi với dân tộc. Nhưng rồi cũng đến
lúc họ phải chọn một, và một đó thuộc về sự thật.
Không có gì không thể thay đổi- lịch sử đã cho thấy
như vậy- và mỗi người Việt đều có thể thay đổi bản thân mình từ một kẻ vong quốc,
vô dân tộc ngay trên quê nhà, trở lại là một người Việt đúng nghĩa.
Từng niên kỷ, tôi đã đập vỡ sự hào nhoáng ngu muội của
mình, bật máu, rồi khâu vá lại mình.
Một buối sáng mùa xuân, tôi soi lại mình trong
gương. Tôi là tôi tầm thường, tôi dại dột giữa khó khăn, tôi không thể nhận ơn
huệ từ kẻ khác, nhưng tôi đã trên con đường trở về nơi chốn của mình: Tôi là
người Việt.
-----------
(tựa
khác: TỪNG THIÊN NIÊN KỶ, KHÂU VÁ LẠI MÌNH)
Đáng trân trọng.
ReplyDelete