Một quán vỉa hè ngồi chồm hổm cũng giúp được người nghèo khó có
một bữa no.
SÀI GÒN, Việt Nam (NV) – Hồi tôi còn nhỏ, trước năm 1975, đã nghe từ
“lâm vố.” Ý nghĩa của từ đó, suy theo cách dùng, là tạp nhạp, rẻ tiền… Một món
đồ được xem là “đồ lâm vố,” là loại xoàng xĩnh, xài được nhưng phẩm chất tàm tạm
thôi. Còn đứa nào đó bị gọi là “thằng lâm vố,” là có ý coi khinh.
Lớn lên, đọc sách của nhà văn Sơn Nam, hiểu rõ hơn nguồn
gốc của từ này. Trong cuốn “Người Sài Gòn” xuất bản năm 1992, ông Sơn Nam viết:
“Cơm bình dân, thời trước 1945 mãi ghi dấu ấn trong lứa già 70 tuổi, còn gọi
cơm ‘thất nghiệp’ hoặc cơm ‘lâm vố’ (rabiot) tiếng lóng của nhà binh Pháp, chỉ
phần ăn bổ sung nếu người lính ăn hết phần tiêu chuẩn mà chưa no. Cũng có nghĩa
‘cơm thừa cá cặn’ do giới đấu thầu mua lại pha chế, thêm gia vị, nấu sôi để sát
trùng, rồi bán, phẩm chất còn khá cao, từng cục thịt bò. Cơm ‘lâm vố’ bày bán
bên đường, ngang hông Đông Dương ngân hàng, người thất nghiệp thường hài hước:
‘Dạo này tôi ăn cơm lâm vố, làm việc Băng Anh-đô-sin.’”
“Lâm vố” là phiên âm “Rabiot” của tiếng Pháp. Từ điển
Larousse định nghĩa “Rabiot” (danh từ) là: Vivres restant en excédent après la
distribution (đồ ăn phân phát còn thừa). Temps de service supplémentaire imposé
à des recrues (thời gian lính bị gia hạn tại ngũ). Supplément (thêm, phụ trội)
(dẫn theo Nguyễn Dư, bài “Cao lầu, hẩu lốn, loạn… xà bần”).
Chú Tám Lý Thân, tên gọi thân mật của nhà nghiên cứu
Lý Lược Tam cho biết hồi trước năm 1954 có ăn cơm “lâm vố” ở chợ cũ Hàm Nghi,
dưới Hàng chữ tức bên hông Sở Hỏa xa. Chú xác định là cơm “lâm vố” không phải
là cơm và thức ăn trong chén dĩa người khách đã ăn, chỉ để nuôi heo. “Lâm vố”
là cơm và đồ ăn dư của nhà bếp, sau khi phục vụ khách còn một chút rau, một
chút thịt và khoai trong chảo, một góc ổ bánh mì, phần còn lại của dĩa mì xào,
một phần rượu vang còn sót lại trong chai chưa rót hết… nên căn bản là sạch sẽ.
Vì mỗi thứ một ít tùy bữa, nên đầu bếp cuối buổi tận dụng trộn lẫn các món rau
thịt vào nhau, thêm chút gia vị rồi chiên xào thành một món khác rồi bán cho mối
quen. Kể cả rượu chát, bánh mì và cơm trắng còn dư.
Năm 1934, trên báo Tân Văn số 12 ra ngày Thứ Bảy,
20 Tháng Mười, đăng bài phóng sự điều tra “Lâm Vố” về món ăn này của Tử Thành.
Theo tác giả, cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu từ 1929 ảnh hưởng đến Đông
Dương đang dần lui để lại nhiều hậu quả. Suốt mấy năm từ 1929 đến 1934, các
nông gia, điền chủ phải chịu điêu đứng, tán gia bại sản. Cảnh khổ như không ai,
người giàu khổ theo giàu, kẻ nghèo khổ theo nghèo. Ngay như ở Sài Gòn, từ lâu
có tiếng là nơi ăn chơi xa xỉ, đời sống sinh hoạt rất dễ dàng, dân thầy dân thợ
cho đến hạng lao động…về đường sanh kế luôn ổn thỏa, dễ kiếm sống. Vậy mà, mấy
năm nay bị ngọn sóng kinh tế khủng hoảng lôi cuốn, ai nấy đều bị ảnh hưởng nặng,
phát sinh ra nạn thất nghiệp và bao nhiêu cảnh đói rách. Cơm “lâm vố” xuất hiện
trong hoàn cảnh ấy.
Theo Tử Thành, đó là những món ăn “xà bần” là đồ ăn
Annam, đồ ăn Tây hay là đồ ăn Quảng Đông trong các tiệm cơm người Hoa ở Chợ Cũ
mà những người “Phổ ky” trong tiệm để dành cho các phụ nữ Hoa gọi là “Á xẩm”
quen biết của họ đem ra góc đường Chaigneau (nay là Tôn Thất Đạm) và đại lộ de
la Somme (nay là Hàm Nghi, trước mặt ga xe điện Chợ Cũ nay không còn) bán cho
những người nghèo không có đủ tiền ăn cơm tiệm. Nhờ đó, dân phu phen bị thất nghiệp
lâu ngày chầy tháng kiếm không ra việc làm, chỉ cần mỗi buổi trong túi có chừng
hai ba xu cũng có được một bữa ăn. Ăn qua ngày để chờ lúc nào đó may mắn kéo đến.
Khoảng 11 giờ trưa, giữa lúc công sở bãi việc thiên hạ
rầm rộ ra về là có thể tìm cơm “lâm vố” mà ăn. Ngay góc đường Chaigneau – de la
Somme, nhìn qua tiệm may Tân Tín Thành, trên lề đường, có một nhóm người lam
lũ, đàn ông lẫn đàn bà ngồi chồm hổm chung quanh hai ba gánh cơm “lâm vố” của mấy
các bà á xẩm. Nhận chén cơm, họ và lia lịa, đói quá nên ăn ngon
lành. Một anh được xem là “lâm vố chuyên gia,” chuyên làm nghề này cho biết đã
bị thất nghiệp sang năm thứ tư và trải qua bao nhiêu lúc đói khổ. Có lúc anh ta
làm cu-li “tấp-mi-nơ” (tạp vụ trong trại lính khố đỏ ở Sài Gòn – PCL) khi thì
xuống mấy chiếc tàu nhà binh, hay tàu chở khách lấy cơm “lâm vố” bán cho qua
ngày tháng.
Theo anh, đúng 12 giờ thì chỗ trại Thủy Binh (Caserne
de la Marine) có xe “lâm vố” đưa ra. Trước đó, đã thấy có những người quần áo
lang thang đang ngồi tụm năm tụm ba ở lối đó mà chờ xe “lâm vố” trong thành
Marine ra mà mua ăn. Hầu hết họ là những người thất nghiệp. Cho đến 12 giờ,
chuông nhà thờ Đức Bà và phía nhà thờ bên kia Thủ Thiêm gõ vang rân. Lúc đó,
con đường từ thành Thủy Binh dọc vô sở Ba Son vắng người qua lại, chỉ có những
người nghèo nhìn lom lom ngó về hưởng trại Thủy Binh mà chờ đợi.
Rồi một tiếng thổi trong trại. Xe “lâm vố” ở trong từ
từ đẩy ra. Tới trước cửa Depot des Vivres (kho chứa lương thực) xe ngừng. Hơn
20 người đứng vây xung quanh cái xe để mua đồ ăn. Vì đói, thế nào cũng có chen
lấn. Trong một cái xe hai bánh nhỏ, thứ xe của người ta dùng để chở than, có
khoảng 4, 5 cái thùng thiếc, cái thì đựng bánh mì, cái thì đựng đồ ăn trong đó
khoai tây nghiền, khoai chiên, đậu trộn dầu giấm, thịt beefsteak, cải xà lách
cùng các món ăn Việt như đậu đũa xào, thịt kho… Đồ ăn chỉ ăn với bánh mì, không
có cơm. Trước đó thì có, nhưng sau không còn nữa. Người ta mua đồ ăn với bánh
mì rồi trải giấy báo ra bày ăn. Sau nửa giờ, các món ăn đã được bán hết.
Một người bán cơm “lâm vố” ở Thị Nghè cho biết từ mấy
năm nay, hai vợ chồng chị và mấy đứa con sống nhờ nghề này. Lúc đầu, chị xin
người trong thành Marine lấy cơm với đồ ăn dư về cho heo ăn. Về sau, nhờ có
quen với những người bồi bếp trong thành, vợ chồng chị mới nhặt những đồ ăn và
bánh mì ăn thừa đem ra bán cho những người nghèo. Chỉ có cơm dư và đồ ăn dơ
không dùng được, chị mới đem về nhà nuôi heo. Nhờ vậy, vợ chồng chị với 7, 8 đứa
con thơ sống được. Mà cũng nhờ vậy, chỉ cần 2, 3 xu, anh em lao động được no
lòng một buổi.
Một chỗ bán cơm “lâm vố” khác là “Sở Mộ” (5ème R.A.C –
Le Regiment d’Artillerie Colonial – trung đoàn pháo binh thuộc địa) gần bên đường
Lafont (nay là Chu Mạnh Trinh). Quang cảnh mua bán cũng y hệt như xe “lâm vố”
bên thành Marine. Có điều bên này người ta bán cơm với đồ ăn Việt của lính tập
ăn còn dư chớ không bán bánh mì và đồ Tây như bên kia.
Chỗ thứ ba là khu “lâm vố” “tàu đò.” Vào cửa hãng Nhà
Rồng (Messageries Maritimes), nơi đậu các con tàu, sẽ thấy cảnh mua bán ở đó.
Cách kiếm sống của những người bán cơm “lâm vố” khu “tàu đò” này là mỗi
khi tàu đến, họ xuống tàu, phụ dọn bàn rửa dĩa cho đám mạch-lô (matelot-thủy thủ)
trên tàu rồi xin lấy bánh mì, rượu chát và đồ ăn dư đem lên bờ mà bán. Họ kiếm
được khá nhiều tiền nhờ số đồ ăn này. Nhờ vậy, anh em phu phen làm dưới tàu, dù
ít tiền, cũng có thể dùng đồ ăn Tây với uống rượu chát thỏa thích. Theo lời một
anh làm nghề lấy “lâm vố” nói trên, khi tàu đã chạy đi, họ nhờ tiền của Tây dưới
tàu cho và tiền bán “lâm vố” mà ăn xài, để đợi tàu khác đến. Nghề làm ăn của họ
cũng dễ chịu, tuy cùng theo nghề bán cơm “lâm vố,” nhưng nhóm “lâm vố tàu đò”
so với nhóm bán cơm “lâm vố thành Marine” và mấy nơi khác khá hơn hẳn.
Khi nào còn người nghèo, còn có món cơm “lâm vố” chứ
không chỉ ở Sài Gòn sau khủng hoảng kinh tế. Khoảng thập niên 1960, vẫn còn
hình thức bán đồ ăn dư kiểu này.
Anh Tấn Thành, một cư dân sống lâu đời trên đường Thái
Lập Thành (nay là Đông Du, quận 1) cho biết khoảng năm 1968-1969, trên đường
Nguyễn Văn Thinh (nay là Mạc Thị Bưởi) gần đổ ra đường Tự Do (nay là Đồng Khởi)
có một nhà hàng nửa quán bar lấy tên là Peacock (con Công) sau các bữa ăn trưa
thường bán ra từng hộp bằng giấy đựng cơm chiên với các món thịt, cá, rau còn
dư cho các thầy chú, lái xe taxi… Người mua cũng gọi thẳng là cơm “lâm vố,” nhìn
giống cơm chiên Dương Châu và khi ăn thử, anh Thành thấy cũng khá ngon.
Cũng ở thập niên này, khoảng từ 1963 đến 1966, Chợ Lớn
cũng có cơm “lâm vố,” được giới lao động rất thích vì rẻ lại ngon. Một thương
phế binh quân đội Việt Nam Cộng Hòa kể cho tôi: Hồi anh còn trẻ, thích nhất là
đi ăn cơm nhà hàng Á Đông lúc 2 giờ chiều. Nói cho sang, đó là cơm “lâm vố” nấu
từ thức ăn dư của nhà hàng này. Kế bên nhà hàng có một đôi chồng Hoa vợ Việt có
cái quán nhỏ chuyên bán loại thức ăn đó, chứng tỏ họ có nguồn cung cấp ổn định
mà họ giành được quyền thầu. Trong bếp của quán, họ đặt một cái nồi thật to, nấu
lại các món như thịt ra-gu bò, thịt bò xào, bồ câu quay từ bếp bên Á Đông còn
dư hay khách ăn không hết. Sau đó cho thêm gia vị thành thứ món ăn sền sệt khá
thơm ngon, ăn với bánh mì hoặc cơm, giá bằng hoặc cao hơn thức ăn quán bình dân
một chút. Bà con nghèo quanh đó rất thích lui tới quán này cho đến khi quán
đóng cửa.
Cơm “lâm vố” là loại thực phẩm “ăn theo” các bếp ăn chế
biến thực phẩm cao cấp trong các nhà hàng nên chắc chắn biến mất hoàn toàn
trong những năm bao cấp thiếu thốn ở Sài Gòn sau năm 1975. Từ thời mở cửa đến
nay, không chắc tồn tại loại cơm này. [qd]
No comments:
Post a Comment