Chánh niệm
Chánh
niệm là nhớ nghĩ sáng suốt để có thái độ đúng đắn trong mọi hành vi của mình.
Là con người, có nghĩa phải sống trong quá trình sinh, lão, bệnh, tử. Muốn sinh
tồn, con người phải có bốn điều kiện cơ bản, đó là cơm ăn, áo mặc, nhà ở, thuốc
trị bệnh. Người tu học theo đạo Phật, cũng như bao người khác, cũng phải đáp
ứng bốn nhu cầu thiết yếu ấy để duy trì đời sống tu hành của mình. Đức Phật đã
dạy các học trò của mình phải thọ dụng các nhu yếu như y áo, thức ăn khất thực,
chỗ cư trú, dược phẩm (người xuất gia gọi là «tứ sự cúng dường») trong chánh
niệm tỉnh giác.
Riêng
với dược phẩm, Ngài nêu rõ với các học trò: «Các dược phẩm và thuốc trị bệnh mà
Ta cho phép các ngươi dùng, như vậy vừa đủ để ngăn chận các cảm thọ đau ốm khởi
lên và giữ gìn sức khỏe» (kinh Thanh Tịnh, Trường Bộ). Đức Phật đã chỉ rõ việc
thọ dụng các nhu yếu không chính đáng sẽ phát sinh đau khổ hiện tại và tương
lai. Về dược phẩm, Ngài nhấn mạnh : «… thọ dụng dược phẩm trị bệnh, chỉ để ngăn
ngừa các cảm giác thống khổ đã sanh, để được ly khổ hoàn toàn. Này các Tỳ kheo,
nếu các vị ấy không thọ dụng như vậy, các lậu (tức phiền não) hoặc tàn hại và
nhiệt não có thể khởi lên. Nếu vị ấy thọ dụng như vậy, các lậu hay tàn hại và
nhiệt não ấy không còn nữa… » (kinh Tất Cả Lậu Hoặc, Trung Bộ).
Như
vậy, từ xa xưa Đức Phật đã tỏ ngộ nguy hại của dùng thuốc không chánh niệm, tức
nói theo ngày nay dùng thuốc không hợp lý và không an toàn. Xin nói rõ thêm về
chánh niệm trong dùng thuốc như thế nào.
Thuốc
là gì ?
Muốn
dùng thuốc đúng, ta cần biết thuốc là gì. Xin nêu định nghĩa về thuốc được ghi
trong Luật Dược 2005 của Việt Nam : « Thuốc là chất hoặc hỗn hợp các chất dùng
cho người nhằm mục đích phòng bệnh, chữa bệnh, chẩn đoán bệnh hoặc điều chỉnh
chức năng sinh lý cơ thể bao gồm thuốc thành phẩm, nguyên liệu làm thuốc, vắc
xin, sinh phẩm y tế, trừ thực phẩm chức năng ».
Thuốc
cần được định nghĩa bao hàm tất cả những gì liên quan đến thuốc để sự tuân thủ
dùng thuốc không có sự mù mờ đưa đến nguy hại. Thí dụ, thuốc tránh thai là
thuốc không dùng để phòng bệnh, chữa bệnh, chẩn đoán bệnh mà chỉ làm nhiệm vụ
điều chỉnh chức năng sinh lý của người là thay đổi sự thụ thai (chức năng sinh
lý bình thường của người nữ có chồng hoặc bạn tình khi giao hợp với người nam)
thành không thụ thai. Nếu định nghĩa về thuốc không nêu: « điều chỉnh
chức năng sinh lý cơ thể » thì thuốc ngừa thai không được xem là thuốc, và như
vậy thuốc ngừa thai muốn bán ở đâu cũng được (là thuốc phải được bán trong nhà
thuốc) và dùng sao cũng được (là thuốc phải dùng theo sự chỉ định của bác sĩ,
hướng dẫn của dược sĩ hoặc theo bản hướng dẫn sử dụng thuốc, nếu dùng sai là
nguy hiểm).
Vì
sao phải chánh niệm trong dùng thuốc ?
Cần
chánh niệm trong dùng thuốc vì thuốc như con dao hai lưỡi mà lưỡi nào cũng rất
sắc. Thuốc có một lưỡi rất sắc giúp ta tiêu trừ bệnh hoạn nhưng cũng có lưỡi
thứ hai sắc không kém là gây hại cho sức khỏe tậm chí là tính mạng ta.
Ta
cần biết, bất cứ thuốc nào, kể cả vitamin được cho là thuốc bổ đều có khả năng
gây tai biến cho người sử dụng nó nếu không được dùng đúng cách, đúng liều, và
đặc biệt khi cả dùng đúng cách đúng liều. Những bất lợi do dùng thuốc gây ra
được gọi chung là “Phản ứng có hại của thuốc” (người nước ngoài gọi ADR do chữ
viết tắt của Adverse Drug Reactions). ADR còn được gọi bằng tên khác như tác
dụng phụ, tác dụng ngoại ý, tác dụng không mong muốn… nhưng ngay cả người không
thuộc giới chuyên môn cũng nên làm quen, dùng ADR vì là chữ quốc tế thông dụng
trên toàn thế giới hiện nay.
ADR
được Tổ chức Y tế thế giới (WHO) định nghĩa như sau “ADR là tác dụng có hại xảy
ra ngoài ý muốn khi dùng một thứ thuốc đúng liều, đúng đường dùng nhằm chữa
bệnh, phòng bệnh hoặc chẩn đoán”. Ta nên lưu ý, nếu bị tai biến do dùng quá
liều thuốc thì không gọi bị ADR mà là bị ngộ độc thuốc.
ADR
lại được chia làm 2 loại: ADR loại A là loại thường xảy ra hơn, chiếm 80-90%
(của toàn bộ ADR), có liên quan đến tác dụng dược lý đã biết của thuốc, như
warfarin có tác dụng chống đông máu có thể gây ADR làm xuất huyết ở người bệnh.
ADR loại A có thể dự đoán và phòng ngừa, như thuốc kháng histamin thế hệ 1 là
promethazin gây ADR buồn ngủ, người dùng thuốc nếu dùng promethazin do buồn ngủ
không nên lái xe, vận hành máy móc. Còn ADR loại B là loại xảy ra hiếm hơn,
chiếm 10-20%, không liên quan đến tác dụng dược lý, như kháng sinh nhóm
fluoroquinolon kháng khuẩn nhưng lại gây ADR là làm co giật hoặc xói mòn sụn
khớp ở súc vật còn non. ADR loại B gần như không thể dự đoán trước là xảy ra
hay không xảy ra. Đặc biệt, dị ứng thuốc là ADR loại B có thể gây tử vong không
tiên lượng được thường xảy ra cho nhiều loại thuốc, trong đó có các vaccine tức
thuốc chủng ngừa.
Nên
lưu ý, nhiều thuốc được lưu hành trên thị trường dược phẩm vẫn được các viện
bào chế dược phẩm theo dõi ADR (được gọi là theo dõi thử nghiệm lâm sàng giai
đoạn 4) để nếu thuốc xuất hiện ADR quá nghiêm trọng sẽ tự ý ngưng lưu hành hoặc
bị chính quyền cấm lưu hành thuốc đó. Trước đây, vào cuối thế kỷ trước, có
thuốc giảm đau glafenin (biệt dược Glifanan) đã bị cấm lưu hành do gây di
ứng quá nặng nề. Cách đây không lâu, thuốc chống viêm trị đau xương khớp
rofecoxib (Vioxx) đã được nhà sản xuất chủ động rút ra khỏi thị trường dược
phẩm vì có nguy cơ gây biến cố tim mạch trầm trọng. Nhiều thuốc phải bán theo
đơn bác sĩ, tức là chỉ khi bác sĩ khám bệnh ghi đơn thuốc nhà thuốc mới có
quyền bán thuốc theo đơn đó, là vì chỉ có bác sĩ biết cách chỉ định
thuốc, ghi cách dùng thế nào để phát huy tác dụng điều trị của thuốc đồng thời
hạn chế mức thấp nhất hoặc không để xảy ra ADR.
Ngoại
trừ một số ADR thuộc loại nhẹ chỉ gây khó chịu (như ADR gây buồn ngủ của thuốc
kháng histamin trị dị ứng) có thể xảy ra thường xuyên (hễ dùng thuốc là bị), đa
số ADR, đặc biệt ADR gây rối loạn nghiêm trọng (như suy thận cấp, hoặc bị tai
biến do vaccine) rất hiếm khi xảy ra và chỉ xảy ra khi dùng liều cao hoặc dùng
lâu ngày. Có loại ADR thuộc loại thường gặp (trong sách chuyên môn dược thường
ghi ADR >1/100, tức 100 người dùng thuốc sẽ có hơn 1 người có nguy cơ bị
ADR), có loại ADR thuộc loại ít gặp (1/1000< ADR <1/100, tức 1000 người
dùng thuốc sẽ có hơn 1 người có nguy cơ bị TDP), và có loại ADR thuộc loại hiếm
gặp (ADR<1/1000, tức hơn 1000 người dùng thuốc sẽ có 1 người có nguy cơ bị ADR).
ADR thường gặp là loại phải cảnh giác nhiều hơn. Như vậy khi biết một thuốc có
ADR, ta sẽ cảnh giác, thận trọng dùng thuốc cho thật đúng liều, đúng cách, chứ
không nên chối bỏ việc dùng thuốc. Đặc biệt khi được bác sĩ khám bệnh và ghi
đơn chỉ định thuốc, ta nên yên tâm sử dụng thuốc. Bởi vì, chắc chắn bác sĩ đã
rõ về ADR của thuốc và đã có sự cân nhắc trong chỉ định thuốc cho người bệnh
dùng.
Có
hiện tượng ngược đời là thay vì dùng thuốc, chính sự ngưng dùng thuốc, đặc biệt
là ngưng đột ngột lại gây ra ADR, thậm chí ADR nghiêm trọng làm khốn khổ người
bệnh. ADR đặc biệt đó gọi là ADR do ngưng dùng thuốc (ADRNDT). ADRNDT được định
nghĩa là biến cố xảy ra với các triệu chứng rối loạn do đang dùng một thứ thuốc
nào đó mà lại đột ngột ngưng không dùng thuốc đó nữa.
Thuốc
gây ra ADRNDT đầu tiên cần phải kể là các thuốc gây nghiện (kể cả ma túy). Các
thuốc gây nghiện gây ADRNDT có thể kể: thuốc giảm đau có nguồn gốc thuốc phiện,
gọi chung là opioid (như morphin, pethidin, fentanyl), thuốc an thần gây ngủ
nhóm benzodiazepin (như diazepam), thuốc giảm cân kích thích là các dẫn chất
amphetamine (thuốc lắc, ma túy đá thuộc ở đây)… Các thuốc này khi đã quen dùng
trong thời gian dài sẽ làm thay đổi chuyển hóa cơ bản của các tế bào thuộc hệ
thần kinh trung ương và hệ thần kinh thực vật (điều khiển cơ trơn và các cơ
quan nội tạng). Những tế bào này lệ thuộc vào thuốc, nghĩa là chúng hoạt động
một cách bất thường theo tác dụng của thuốc, nếu đột ngột ngưng dùng thuốc,
chúng sẽ phản ứng bằng ADRNDT, được gọi là “Hội chứng cai thuốc“, bao gồm mất
ngủ, vật vã, đau nhức, ói mửa, toát mồ hôi, nước mắt chảy ràn rụa, tiêu chảy
liên tục v.v..
Các
thuốc gây ADRNDT còn phải kể: thuốc trị bệnh tăng huyết áp (clonidin,
propranolol) nếu đột ngột ngưng dùng sẽ làm huyết áp tăng vọt rất nguy hiểm;
thuốc chống trầm cảm loại 3 vòng (nortryptilin, clomipramin) nếu đột ngột ngưng
dùng sẽ làm trạng thái tâm thần của người bệnh xấu đi, thậm chí có người còn
tìm cách tự tử); thuốc trị bệnh động kinh (carbamazepin) nếu đột ngột ngưng
dùng bệnh nhân ngay lập tức sẽ lên cơn động kinh, thuốc glucocorticoid
(prednisolon, dexamethason) nếu ngưng đột ngột bệnh nhân sẽ khốn khổ vì thiếu
corticoid nội sinh do chính tuyến vỏ thượng thận tiết ra.
Đối
với loại ADRNDT vừa kể này, có một biện pháp giúp khắc phục là dùng thuốc giảm
liều từ từ trước khi dứt hẳn để giúp cơ thể người dùng thuốc thích ứng dần
trước khi ngưng thuốc hoàn toàn, chứ không được đột ngột ngưng thuốc.
Chánh
niệm trong dùng thuốc cần như thế nào?
-
Chỉ thật cần thiết mới mới dùng thuốc. Hoàn toàn không nên lạm dụng dù chỉ là
vitamin.
-
Nếu được bác sĩ khám ghi đơn thuốc, phải dùng đúng, dùng đủ (không dư không
thiếu) các thuốc ghi trong đơn và thực hiện tốt các lời chỉ dẫn.
-
Đừng nghe lời mách bảo của người không thuộc giới chuyên môn mà dùng thuốc
nào đó kéo dài từ tháng này sang tháng kia.
-
Trước khi dùng một thuốc, cần đọc kỹ bản hướng dẫn hoặc hỏi dược sĩ tại nhà
thuốc về những điều cần biết, trong đó có: tác dụng phụ tức ADR, những
thận trọng khi dùng thuốc, chống chỉ định (tức những trường hợp không được dùng
thuốc).
-
Khi đang dùng thuốc nếu bị phản ứng bất thường (có thể bị ADR) nên ngưng ngay
thuốc và đi tái khám báo cho bác sĩ biết để bác sĩ cho hướng xử trí.
-
Khi đọc trên báo chí thông tin về ADR của một thuốc), thì đó là thông tin để
tham khảo và cảnh giác chứ người đang dùng thuốc đó hoàn toàn không nên quá lo
lắng tìm cách ngưng dùng thuốc khi chưa có ý kiến của bác sĩ trực tiếp điều trị
chỉ định dùng.
-
Khi bác sĩ chỉ định giảm liều từ từ, phải theo đúng các thức giảm liều đó trước
khi ngưng dùng thuốc.
-
Sau khi ngưng dùng thuốc, nếu xuất hiện những rối loạn, những phản ứng bất
thường trong cơ thể, cần đến bác sĩ tái khám ngay.
TS Nguyễn Hữu Đức
No comments:
Post a Comment