Hoa làm quà tặng cho người yêu quý , hoa trong
bình trang trí cho ngôi nhà thân thương và có những loài hoa còn có trong món
ăn, trong bữa cơm suốt bốn mùa trong năm.
Nhiều dân tộc có các món
ăn chế biến từ các loài hoa như: người Nhật ăn hoa cúc đồng, người Pháp nấu thức
ăn với choux-fleur, artichaut , người Hy Lạp dùng bông bí để chiên, dân Nam Mỹ
có hoa của cây yucca dùng làm salad , xào. Ở Việt Nam, có nhiều món ăn được chế
biến từ các loại hoa như: bông bí, hoa chuối, bông điên điển, bông lục bình,
bông hẹ, hoa hiên, bông lẻ bạn, bông mướp, bông sầu đâu, bông so đũa, bông sen,
bông súng và hoa thiên lý.
1. Bông bí.
Bông
bí dùng để ăn là bông bí đực của cây bí rợ, không thể đậu trái. Bông bí lớn,
màu vàng tươi rất vui mắt. Bông bí được cắt chừa cuống dài, bó thành bó nhỏ đem
ra chợ bán, nhưng không có nhiều, chỉ có theo mùa.
Thông thường bông bí đem
về được rửa sạch, sau đó luộc chấm nước kho cá, kho thịt hay chấm nước tương
dầm ớt. Bông bí luộc có vị ngọt, hơi nhân nhẫn, phần tiếp giáp giữa cuống và
bông hơi dai dai, ăn rất ngon. Bông bí còn dùng để nấu canh, xào tỏi, xào thịt bò,
xào nghêu … Xào bông bí phải canh cho vừa chín mới còn dòn. Món đặc sắc nhất của
bông bí là “bông bí dồn thịt chiên“ hay còn gọi là chả bông bí.
Bông bí vừa chớm nở
phải hái xuống ngay, tướt xơ ở cuống, bỏ tâm, rửa sạch, để ráo. Tôm, mực, thịt
nạc vai heo quết nhuyễn, trộn tiêu hành, mắm muối, bột năng. Bẻ gập các cánh
hoa úp đè lên nhau, nhẹ tay bỏ vào chiên với lửa nhỏ để bông bí còn màu vàng
tươi, không bị cháy xém. Chả bông bí beo béo, thơm thơm, chấm nước tương dầm
ớt. Món ăn này thường được làm trong những ngày giỗ, tết của gia đình hay tụ
họp, đãi đằng. Chả bông bí không những phổ biến ở miệt vườn lục tỉnh nam bộ mà
còn nổi tiếng ở Huế nữa.
2. Hoa chuối:
Người
miền Bắc gọi là hoa chuối, người miền Nam lại gọi là bắp chuối. Thường buồng
chuối trổ đủ nải rồi, người ta cắt bớt đi các bắp chuối. Bắp chuối có màu tím,
ngon nhất là bắp chuối hột. Bắp chuối được chế biến thành nhiều món ăn như:
trộn gỏi, nấu canh, ăn ghém và chiên làm đồ chay…
- Gỏi bắp chuối (nộm hoa
chuối): Bắp chuối lột bỏ phần bẹ già, còn phần non xắt mỏng, ngâm nước pha chanh
hay dấm cho khỏi đen và ra bớt nhựa, vớt ra, để ráo.Trộn chung với tôm thẻ, thịt
heo luộc, hến, gà luộc xé phay hay vịt luộc chặt miếng… rồi rau răm, củ hành
tây xắt mỏng, đậu phọng rang giã nhỏ, nước mắm pha đường, chanh, tỏi, ớt.
- Canh chua bắp chuối: Bắp
chuối phần non thái mỏng, nấu canh chua me dầm với tôm, cá, lươn…
- Bắp chuối bào trộn
với các thứ rau sống khác, rau muống chẻ để ăn chung với các món nước như: bún riêu,
bún bò, lẩu các loại…
- Phần trắng giữa bẹ
bắp chuối được dùng thế mì căn làm món chay như gà xào xả ớt, tôm lăn bột
chiên.
3. Bông điên
điển:
Còn
được gọi là “hoa mùa lũ” hay “hoa cứu đói”. Do mỗi năm, khoảng một tháng sau
khi nước lên theo mùa, ở vùng châu thổ sông Cửu Long, bông điên điển trổ đầy
cành những cánh hoa vàng rực rỡ, trên những cánh đồng ngút ngàn. Trong những
ngày không làm việc được để kiếm tiền, người nông dân chống xuồng ba lá đi hái
bông điên điển tươi bán đổi gạo, làm dưa, hay nấu cháo với bông, luộc bông ăn
cầm cự đói.
Bông điên điển nhặt,
rửa sạch, ngâm với giá sống trong nước muối có độ mặn vừa phải, chừng 3 ngày
thì chua, thành dưa điên điển, dùng chấm nước kho cá, kho thịt, nấu canh với cá
rô. Mùa nước nổi là mùa tôm cá sinh sôi đầy đặc dưới nước. Người ta giăng lưới,
câu, xúc, kéo vó quanh nhà chừng nửa giờ là có cá rô con, rô mề cỡ mấy ngón tay.
Canh dưa điên điển cá rô chẳng cần nêm, nếm gì thêm cũng đủ vị mặn, chua hấp dẫn.
Bông điên điển dùng làm
rau sống nhúng lẩu cá, lẩu mắm, xào tép, thay giá làm nhân đổ bánh xèo với thịt
heo, ăn với các loại rau, đọt trong vườn, chấm nước mắm pha tỏi ớt; bông điên điển
làm mắm chay hoặc nấu canh chua rất ngon. Mùa điên điển ra bông cũng là mùa cá
linh từ Biển Hồ trôi giạt xuống vùng sông Tiền, sông Hậu. Cá linh nấu với me
sống vừa chua, làm lẩu, nhúng chỉ duy nhất bông điên điển vào. Bông điên điển còn
có thể được nấu canh chua với cá bông lau, đậu bắp.
4. Bông lục
bình:
Còn
có tên là sen nhật, bèo tây. Lục bình là thân cây cỏ, sống nổi trên mặt nước,
có cuống phồng lên thành phao nổi. Lá có gân, hình cung. Hoa mọc thành chùm ở
ngọn. Hoa không đều, có màu tím xanh, đài hoa và tràng hoa cùng màu, dính liền
nhau ở gốc. Cánh hoa trên có đốm vàng, 6 nhụy (3 dài, 3 ngắn). Người ta dùng
bông lục bình làm gỏi, chấm nước cá kho.
5. Bông lẻ bạn:
Cây
lẻ bạn có nguồn gốc từ các nước Trung Mỹ, được trồng rộng rãi ở Việt Nam. Cây
trồng trong chậu làm cây cảnh, trồng ngoài vườn để làm thuốc. Cây có thân rất
ngắn, lá mọc gần như sát đất. Lá không cứng, có bẹ, đầu thuôn dài, mặt trên màu
xanh lục, mặt dưới màu đỏ tím.
Cụm hoa nhỏ, mọc ở nách
lá, ngoài có hai mo úp vào nhau, giống như vỏ con sò, nên còn được gọi là bông sò
huyết (oyster plant). Hoa màu trắng, dùng làm thuốc trị ho, hay nấu canh với xương
heo ăn cho mát, bồi bổ cơ thể suy nhược.
6.
Bông hẹ:
Cây
hẹ đây là hẹ trồng, chứ không phải hẹ nước để ăn mắm kho. ông hẹ tiếng Tàu gọi
là Cửu thái, tiếng Anh là Chives. Bông hẹ màu trắng. Nấu canh với đậu hủ tươi
ăn giải nhiệt . Xào với lòng gà (tim, gan, mề), nghệ ăn để trị ho.
7.
Bông mướp:
Cây
mướp dễ trồng, thuộc họ dây leo, chưa phủ kín giàn đã ra hoa. Người ta thường
có câu: ”Nụ cà, hoa mướp“. Hoa mướp màu vàng rực, nụ hoa tròn và đen. Không
bằng bông bí, nhưng hoa mướp cũng được dùng luộc, xào lòng gà, ngon nhất là hoa
mướp hương, ăn bùi và béo.
8. Bông kim
châm:
Tiếng
Tàu gọi là kim châm hay hoàng hoa. Tiếng Việt gọi là hoa hiên. Cây thường mọc
hoang. Cuống hoa dài từ 80- 100 cm, đầu cuống chẻ làm hai, có từ 6-12 hoa. Hoa
màu vàng, phơi khô thành màu nâu. Người ta thường dùng hoa kim châm khô với nấm
mèo để nấu canh, hầm thuốc bắc, tiềm vịt, gà… Hoa kim châm có vị ngọt, tính
mát, được dùng làm thuốc lợi tiểu, giảm đau, chữa chảy máu cam. Ngày nay cây
được trồng nhiều ở vùng cao nguyên Trung phần Việt Nam.
9. Bông súng:
Cây
súng có lá tròn giống lá sen, phía trên màu xanh lục, phía dưới màu hồng nhạt,
nổi trên mặt nước. Có hai loại bông súng: Súng sen được trồng ở đầm chùa, ao
làng có bông màu tím đỏ, rất to. Súng dại có cuống lá nhỏ, bông màu trắng hay
tím. Bông súng có nhiều lá noãn gắn với nhau thành một bầu nhiều ô. Bông có 4
lá đài, 20-30 cánh hoa, 30-50 nhụy. Nhụy bông súng màu vàng. Thật ra, người ta
chỉ xài phần thân, cọng súng màu nâu, nhưng vẫn gọi đó là bông súng.
Bông súng muốn ăn phải tướt
vỏ, xắt khúc, ngâm nước cho sạch. Bông súng dùng trộn gỏi; ăn sống với mắm kho;
nấu canh chua với cá đồng; bóp muối cho héo, ngâm giấm làm dưa.
10. Bông sen:
Trong
địa hạt Đông y , mỗi bộ phận của cây sen có tính trị liệu khác nhau:
- Gương sen (liên phòng)
, lá sen (hà diệp), vỏ ngoài hột sen: tánh mát, trị tiêu chảy, cầm máu.
- Hột sen (liên nhục):vị
thuốc bổ tì, bổ thận.
- Nhụy sen (liê tu): thông
thận, cầm máu,giữ tinh(liên tu bất tận).
- Tim sen (liên tử tâm/lõi
xanh trong hột sen): an thần, trị huyết áp cao.
-
Ngó sen (liên ngẫu): thanh nhiệt, dùng sống giải rượu, nấu chín giải độc trong
thức ăn đồ biển.
-
Củ sen: chữa bệnh mất ngủ, hoạt tinh.
Trong phạm vi ẩm thực, các
phần của cây sen được sử dụng như:
Gương sen phơi khô đem đun
thay củi; Lá sen gói cơm, xôi, quà bánh giữ được hương vị rất lâu; Lá sen non
nấu cháo trị chứng giữ nước, phù thủng … Hạt sen tươi hay khô được xỏ xâu dùng
nấu chè , làm bánh, làm mứt, tiềm vịt, tiềm gà,… Ngó sen làm gỏi. Củ sen làm
mứt, luộc, chiên bột, hầm canh… cho đến trà ướp hương sen. Hoa sen vị ngọt, hơi
đắng, không độc, có tánh ấm, giúp an thần, trị xuất huyết.
Có một món ăn nấu từ hoa
sen của nhà văn Tản Đà, đã trở thành giai thoại: Vịt hấp hoa sen. Ông cho rằng tinh
túy của sen đọng lại ở hoa, nên dùng cánh hoa sen phủ kín vịt để hấp cách thủy.
Vịt ở đây là vịt tơ vừa, được làm sạch bằng rượu, khử mùi bằng gừng, ướp gia vị
cho thấm trước. Khi vịt chín, bao nhiêu hương hoa ngấm hết vào thịt. Ăn cả thịt
vịt mềm, không bị béo ngậy cùng hoa thơm, ngọt. Đến hết vẫn còn “vương vấn“
hương vị, cứ như là: "Dẫu lìa ngó ý còn vương tơ lòng“ (Nguyễn Du)
Còn
theo ý thơ của Mạnh Giao:
"Thiếp tâm ngẫu trung
tị , tuy đoạn do khiên liên"
(Lòng thiếp tơ trong ngó
sen, dù đứt còn vương hoa).
11.
Bông sầu đâu:
Sầu đâu
Tên
gọi sầu đâu dễ bị lầm lẫn với tên gọi là thầu đâu, là sầu đông của cây xoan ta.
Cây sầu đâu có nhiều ở vùng Thất sơn, An Giang, Châu Đốc, những tỉnh giáp giới
Campuchia. Cây sầu đâu thân gỗ, cao to, vỏ sần sùi, chứ không trơn láng như thân
cây xoan ta.
Xoan ta
Lá
xoan ta độc, không ăn được, còn lá non và bông sầu đâu thì ăn được. Lá sầu đâu
dùng làm thuốc sốt rét.
Bông sầu đâu ra hoa vào mùa
xuân, màu trắng, mọc thành từng chùm như hoa nhãn, dùng làm gỏi. Gỏi sầu đâu
tương đối dễ làm: Rửa sạch bông và lá non, có thể trụng sơ qua nước sôi. Nướng khô
cá sặc rằn, khô cá lóc, xé nhỏ, bỏ vào. (Nếu không có khô thì có thể thế bằng cá
lóc nướng trui xé nhỏ). Trộn thêm rau thơm, hành tây xắt mỏng, xoài băm sợi… Ăn
với nước mắm me, đường, ớt. Gỏi sầu đâu có vị đắng nhưng hậu ngọt dai.
12. Bông so đũa:
Cây
so đũa hoặc mọc hoang, hoặc được trồng nhiều ở các vùng bờ quanh ruộng của đồng
bằng sông Cửu Long. Cây so đũa thon cao, thẳng, vỏ nham nhám, xù xì, nứt nẻ.
Trái so đũa nhỏ dài , hình dáng như chiếc đũa. Thân cây so đũa dùng làm cột
nhà, cấy nấm mèo. Lá là món hảo của dê. Bông so đũa mọc ở trên cao, kết thành
từng chùm , có 2 màu: trắng và tím. Bông so đũa có vị nhân nhẫn đắng, nhưng
ngọt hậu.
Đầu tháng 10 âm lịch trở
đi , cây so đũa đồng loạt ra hoa, cùng lúc với mùa cá linh để có món ăn nức
tiếng là cá linh nấu canh chua bông so đũa. (Cá linh thường được dùng làm mắm
để dành. Chế biến nhiều món như kho mặn, kho mẳn lót mía, kho mắm với cà tím,
kẹp vỉ nướng, chiên giòn, nấu canh chua … ).
Bông
so đũa nhặt cuống, rửa sạch. Nấu nước sôi,dầm me, thả cá linh, nêm vừa miệng,
hớt bọt, cho bông so đũa vào là nhấc xuống liền , để bông còn giòn mới ngon.
Trên mặt bỏ ngò gai, rau om xắt nhỏ, thêm một chút tỏi phi, vài lát ớt tươi.
Không có cá linh, người ta nấu canh chua so đũa với tôm, tép. Bông so đũa còn
dùng luộc, xào, đặc biệt là món cá lóc bọc bằng bông so đũa hấp, chấm nước mắm
đồng dầm ớt.
13. Hoa thiên
lý:
Cây
thiên lý là một loại dây leo, dài hàng mét, thân non có lông, lá mọc đối. Hoa
mọc thành chùm màu vàng chanh hay trắng ngà. Ban đêm hoa tỏa hương thơm ngát,
nên còn được gọi là Dạ lai hương.
Lá và hoa thiên lý được thu
hái vào mùa hè, dùng tươi. Rễ thu hái vào mùa thu, phơi hay sấy khô. Lá có tác
dụng chửa bịnh trĩ, trị giun kim. Rễ chửa tiểu buốt hay ra máu. Hoa thiên lý
giống như cái chuông gió nhỏ, lấp ló trong những tán lá xanh mướt. Ngoài chức năng
làm đẹp.
Cộng mùi hương thoang thoảng,
hoa thiên lý còn có vị ngon ngọt, tánh mát, được người nông dân miền Bắc coi
như một loại rau có sẵn trong nhà.
Canh thiên lý mang hương
vị đặc trưng của mùa hè. Nấu canh thiên lý không phức tạp. Chọn những chùm hoa
mới nở, ngâm nước cho hết kiến, chùm hoa to thì tách làm 2, 3 nhánh nhỏ.
Ở thành phố thì nấu hoa thiên
lý với thịt heo bằm, giò sống. Nhưng kết hợp độc đáo của hoa thiên lý là cua
đồng giã nhỏ là canh có hương vị đậm đà ngay. Hoa thiên lý xào với thịt bò, có
ướp chút gừng và nước tương cho thấm. Ngày nay, người ta dùng hoa thiên lý như
một loại rau sống, nhúng với lẩu các loại.
14. Hoa Atiso:
Hoa
atisô có tác dụng bổ dưỡng, kích thích tiêu hóa, lợi gan mật, trợ tim, lợi
tiểu, thường dùng nấu canh. Khi nấu chú ý không dùng nồi gang hoặc nồi nhôm vì
hoa sẽ bị đắng, khó ăn.
Bộ phận của cây atisô được
dùng làm rau ăn là cụm hoa bao gồm đế mang hoa, các lông tơ, và các lá bắc (có
phần gốc mềm mầu trắng bao chung quanh).
Trong 100g bông atisô, có
chứa: 3 - 3,15 g protein, 0,1-0,3 g lipid, 11-15 g glucid (chủ yếu là inulase,
tốt cho người bị tiểu đường) và 82 g nước.
Ngoài ra còn có chứa các
chất khoáng như mangan, phospho, sắt, các vitamin: A , B1, B2, C, cung cấp 50-75
calori. Bông atisô khi nấu chín có tác dụng bổ dưỡng tăng lực, kích thích tiêu
hóa làm ngon miệng, lợi gan mật, trợ tim, lợi tiểu, chống độc, tăng tiết sữa cho
sản phụ (khi hầm với chân giò).
Trong đông y, hoa atisô dùng
trong các trường hợp đau gan, đau dạ dày, ăn uống không tiêu, sản phụ ít sữa, tiểu
đường thống phong, thấp khớp, suy nhược cơ thể...
Chế
biến: Rửa
sạch bông, chẻ dọc thành 6-8 miếng, luộc chín, nấu canh, hầm xương heo xương
bò, chân giò hoặc xào với nấm. Khi dùng bông atisô chỉ nên dự trữ bằng cách bỏ
vào tủ lạnh tối đa bảy ngày, khi nấu không dùng nồi bằng nhôm hay gang vì các
kim loại này làm atisô mất màu, gây đắng khó ăn.
Sưu tầm
No comments:
Post a Comment