Vào năm 1954 khi dân Bắc di cư vào
Sài Gòn có nhiều điều bỡ ngỡ trước vùng đất mới đầy nắng gió này, họ
ngạc nhiên khi thấy gói thuốc lá không được bóc ra ở phần trên bao
thuốc, mà dùng tay khoét một lỗ ở phía gần đáy rồi rút điếu thuốc ra,
khi uống cà phê lại đổ ra đĩa rồi húp từng ngụm, tờ bạc 1 đồng xé làm
hai để thành 5 cắc cho tiện, nữ sinh kẹp tóc cao đến gáy, mặc quần trắng
ống rộng gấp đôi bình thường và đi guốc mộc.
Phương
báo Đời Mới số 68 ra đời tháng 7 năm 1953, có kể một ông ngoài bắc vừa
vào Sài Gòn, khi biết ông định đi thăm người quen lúc 7 giờ sáng, bà chủ
nhà trọ liền can ngăn, bảo lúc đó còn sớm quá, phải “chín giờ trở đi thì những người như ngài mới ra phố”.
Bà này từ Huế vô nam đã lâu, nói rằng ai ở
ngoài bắc vô cũng dậy sớm, đi chơi sớm và ngủ sớm, nhưng người trong
này thức khuya, đời sống về đêm nhiều hơn.
Bà lớn giọng: “Tối,
ngài ra các tiệm các chợ mà coi, cứ chật nức người là người, phần lớn
là anh chị em lao động, kiếm được đồng nào thì xào ngay đồng nấy, trong
này không biết dành dụm chi cả, bây giờ mới có người biết vá áo, biết
nhặt rau, chứ trước thì dùng cái gì cũng là nguyên chất cả, hơi hỏng là
‘đổ bỏ’ không hề chữa chạy bao giờ… Ban ngày kiếm được bao nhiêu tiền
đến tối xài cho kỳ hết, mai sẽ kiếm tiền nữa. Lo chi. Không lụt lội,
không mất mùa, không thất nghiệp…”.
Bà
chủ còn hướng dẫn ông khác, phu xích lô ở Sài Gòn, ai hay bận quần
“cộc” (quần ngắn) thì người ấy phải là người “ngoài ta” (tức là bắc hay
trung vào làm việc).
Người trong này hoang phí, cái gì cũng ra tiệm.
Ăn
bận toàn quần áo vải lụa mỏng tanh, người lao động trong này tiện là
ngồi bệt xuống đất không sợ hư áo quần, rách là quăng đi may cái khác,
hoang phí đến cả mồ hôi, vì có sẵn quần áo để thay…
Những người trong giới trí thức, nghệ sĩ
miền Bắc chuyển vào Sài Gòn ấp ủ bao nhiêu hoài bão để thực hiện ở quê
hương mới. Tuy nhiên, dù có nổi tiếng thì họ cũng phải đối diện với bao
khó khăn để hòa nhập vào đô thị mà họ sẽ sống lâu dài này. Báo Đời Mới
năm 1954 đã làm một chuỗi phóng sự Hồi mới vào của các văn nghệ sĩ, có
nhiều chuyện cảm động đáng suy gẫm về những gì họ đã gặp.
Nhà
văn Thượng Sỹ, một nhà văn nổi danh từ thời tiền chiến mà trong cuốn
Bốn mươi năm nói láo, nhà văn Vũ Bằng thường nhắc tới. Gia đình ông vào
Sài Gòn định cư chỉ có bốn người, gồm hai vợ chồng, đứa con nhỏ và chị
giữ em. Tuy nhẹ gánh gia đình, tên tuổi từng nổi tiếng là nhà phê bình
văn chương, cả nhà ông cũng gặp những khó khăn ban đầu. Mới vào, ông bị
lên cơn sốt rét vào nằm Bệnh viện Bình Dân. Vợ con ông và chị giúp việc
lên xe xích lô máy chạy vòng vòng Sài Gòn – Gia Định tìm kiếm bà con họ
hàng. Tìm mãi không ra, thấy trời đã tối, anh xích lô máy bèn đề nghị về
tạm nhà anh ở Vườn Lài.
Vừa về tới nhà, anh liền bảo vợ: “Má bầy trẻ đâu, tôi đón được một người làng xóm cũ đây!”.
Anh là người bắc, lấy vợ nam và đã lanh trí nhận “người làng” để thêm
thân tình, mong vợ trọng đãi khách. Chị vợ, người chất phác, lăng xăng
đi quét bộ ván cho ba vị khách nằm nghỉ, đi nấu nước châm trà và còn ra
tiệm mua thêm 10 đồng thịt quay về đãi cơm khách nữa. Vợ anh xích lô
trong lúc ăn cơm không ngần ngại hỏi: “Chẳng hay anh của chị mần nghề gì?”.
Chưa hiểu tiếng Sài Gòn nên chị Thượng Sỹ ngồi yên, anh xích lô đáp thay: “Anh ấy làm ‘nhật chình’!” (nhật trình: cách gọi báo chí cách nay trên dưới nửa thế kỷ ở miền Nam).
Chị vợ gật gù: “Ờ, tốt lắm. Có phải như các ông nhà báo ở Sài Gòn thường viết bài bênh vực nhà lá bị đuổi đất không?”.
Chị
vợ anh xích lô có thiện cảm ngay với vợ người làm báo mới quen. Sáng
hôm sau, anh xích lô tiếp tục chở cả nhà đi thăm nhà văn đang nằm bệnh
viện. Ông Thượng Sỹ cảm động về câu chuyện này lắm. Vài ngày sau, ông
khỏe nên cả nhà tiếp tục nhờ anh xích lô chở đi tìm bà con. Ông gặp một
nhà văn quen biết nên tá túc nhờ vài hôm.
Một bữa, ra chợ mua đồ, bà vợ ông gặp một chị không quen, hỏi thăm qua lại thế nào mà chị nói ngay: “Thôi, chị cứ theo tôi về nhà ba má tôi. Chị nhận là bạn cũ của tôi, thế nào ông bà cũng cho ở đậu”.
Cả nhà lại đến đó ở, một căn nhà lá rộng rãi ở đường Quang Trung, Gò
Vấp. Ông bà chủ nhà đã lớn tuổi, còn làm việc được, chuyên nghề đúc ống
cống xi măng.
Ông bà nói ngay với khách lạ:
“Thầy cô cứ ở đây với tôi, khỏi phải mua giường chiếu, mùng mền, đồ
bếp, tôi có sẵn cả. Tôi để thầy cô dùng chung. Gạo củi, mắm muối, cứ tự
nhiên nấu cơm mà ăn!”. Bà chủ còn nói là bà không lấy một xu nhỏ.
Gia
đình Thượng Sỹ ở đó, không muốn lạm dụng lòng tốt của ông bà chủ nhà
nên bà Thượng Sỹ xin tự lo ăn uống, chỉ ở nhờ thôi. Ông chủ nhà nói lên
điều xuất phát từ đáy lòng: “Cô Hai chớ nề hà. Con gái tôi nói cho
tôi hay thầy Hai làm báo, nên tôi quý thầy lắm. Vì bấy lâu nay đọc báo,
tôi thấy các ông nhà báo luôn bênh vực anh em lao động chúng tôi. Tôi có
phải nhịn ăn mà giúp thầy cô, tôi cũng vui lòng!”.
Sau này, nhà văn Thượng Sỹ nói với tác giả bài tường thuật này: “Tôi
cứ tưởng xảy nhà ra thất nghiệp… nào ngờ tôi lại hai lần ‘sa’ vào hai
cành gia đình lao động. Ấy cũng là tôi hái quả của một cây mà các anh
vun bón cho tươi tốt…”.
Ắt hẳn
trong thâm tâm, ông biết rằng còn do tính hào hiệp của người Sài Gòn,
luôn sẵn sàng giúp người gặp khó khăn. Như khi xưa họ hoặc cha ông chân
ướt chân ráo đến thành phố này đã được người ở đây giúp đỡ. Điều đó
khiến ông nói lên ý nghĩ: “Nếu được tiếp tục nghề cầm bút ở đây, tôi sẽ quyết dùng ngòi bút phục vụ cho đời sống người bình dân lao động”.
Đúng như vậy, chỉ một thời gian ngắn sau, ông tiếp tục đi làm tại một tờ báo chứ không đi dạy học như ý định ban đầu.
Nhà
văn Tam Lang, tác giả phóng sự nổi tiếng Tôi kéo xe, khi vào miền Nam
cũng ấp ủ nhiều mộng ước. Trước khi vào sống hẳn tại Sài Gòn, ông từng
vào đây để tĩnh tâm viết hai vở chèo cổ, theo như bài báo trên báo Đời
Mới. Viết xong, ông bay ra bắc lập một gánh hát chèo.
Theo tác giả Trương Thọ Phú, Tam Lang khi vào Nam vẫn muốn làm sống lại chèo cổ ở Sài Gòn. Ông nói: “Chèo
cổ là âm thanh thuần túy của đất nước, không như tuồng cổ là điệu hát
bắt chước điệu tuồng Tàu, cũng không như tân nhạc bắt chước điệu hát của
Tây. Đây là thứ âm thanh đặc biệt Việt Nam…”.
Đây
là tâm huyết của vua phóng sự đất bắc, mong phục hồi vốn văn hóa dân
tộc trên vùng đất mới Sài Gòn. Tuy nhiên, chuyện đó đã không thực hiện
được như chúng ta đã thấy. Trước kia, ông cũng không thực hiện được điều
đó ở Hà Nội ngàn năm văn vật, lúc đó lại đang mê tân nhạc và… cải lương
miền Nam.
Câu chuyện hội nhập vào cuộc sống Sài Gòn
là một câu chuyện dài nhiều tập, nhiều chương. Trong đó, có nước mắt và
nụ cười, có sự rộng rãi bao dung và cũng có những khắt khe, thiếu thông
cảm và hiểu biết trong cư xử.
Qua
thời gian và yêu cầu của cuộc sống một đô thị lớn, tính bảo thủ bị pha
loãng dần, sự chấp nhận lẫn nhau ngày càng mạnh mẽ và người ta tìm cách
dung hòa những dị biệt, hợp lực xây dựng cuộc sống yên ổn và phát triển.
Sự dung hòa đó đã tạo nên chất Sài Gòn, cá tính Sài Gòn.
Phạm Công Luận
Trích “Chuyện Đời Của Phố”
Trích “Chuyện Đời Của Phố”
Theo Saigonxua.org và Fanpage Saigonxua
Độc giả quan tâm có thể ghé thăm Fanpage để tìm hiểu về Sài Gòn xưa.
Độc giả quan tâm có thể ghé thăm Fanpage để tìm hiểu về Sài Gòn xưa.
No comments:
Post a Comment