Nhà Xuân vừa mở thọ diên,
Chén pha Giếng Cúc, bàn chen Non Đào.
(Nguyễn Huy Tự)
Giấc
mộng trường sinh, bất tử đã được ghi nhận từ thuở hoang sơ, khi con
người còn ăn lông ở lỗ. Trong huyền thoại thần tiên, trong niềm mê tín
dân gian, trong nguồn cảm hứng xuất thần của văn nhân thi sĩ hay luận lý
của triết gia. Tân, Cựu Ước, kinh Koran cũng có nhắc tới nguồn nước
trường sinh.
Nó là động lực thúc đẩy những nhà thám hiểm lặn lội
đi tìm suối nước vĩnh cửu ở vùng đất lạ, cũng như là mục tiêu nghiên
cứu của các khoa học gia xưa nay.
Nó đã tạo cơ hội làm giầu cho những lang băm, những tên lường gạt rao bán vịt trời giữa chợ với môn thuốc trường sinh bất tử.
Nó
ám ảnh mọi người, mọi giống. Ai cũng mong mỏi sống mãi không già, thoát
khỏi những tàn phá của cơ thể do thời gian, giữ mãi được những nét
thanh xuân đầy nhựa sống. Ai cũng nghĩ là ở đâu đó, có môn thuốc mà khi
uống vào ta sẽ thi gan cùng tuế nguyệt. Ta chỉ việc cố gắng, kiên nhẫn
tìm là sẽ thấy nó.
Nhân dịp xuân về, chúng tôi mời quý vị, ta
lang thang vào cái vườn địa đàng này. Biết đâu lại may mắn nhặt được vài
trái đào của Tây Vương Mẫu rơi rớt đó đây; uống lén được chút rượu Kim
Tương. Để rồi cùng nhau bách niên giai lão, tiếp tục mè nheo người bạn
đường sung sức...
Trường sinh trong Triết học
Đi trước các dân tộc khác, người Trung Hoa xa xưa đã có một khái niệm, một triết lý về sự sống lâu.
Lão
Tử từng quan niệm là nếu một sự vật có thể biến thành sự vật khác thì
với con người, sự chết cũng có thể thành bất tử. Như con nòng nọc có
đuôi kia biến thành con cóc, con nhái, con sâu róm lột xác thành con
bướm. Đạo Lão cho con người sống là nhờ sự hoà hợp của âm / dương, nếu
giữ được sự hòa hợp này thì cuộc sống kéo dài.
Quan niệm này đã
và vẫn là căn bản cho Y thuật Trung Hoa cùng các nước chịu ảnh hưởng văn
hóa quốc gia này như Việt Nam, Triều Tiên. Lão cũng khuyên người ta
phải tiết kiệm sinh lực bằng vô vi, tập phép hô hấp để tăng dưỡng khí
cho não bộ, ăn nhiều trái cây, kiêng rưọu, thịt và sống cho phải đạo.
Câu
chuyện người Luigi Cornaro, sanh năm 1470, sống cuộc đời phóng đãng hơn
30 năm. Thầy thuốc nói nếu tiếp tục như vậy sẽ không qua được tuổi 50.
Ông ta bèn thay đổi nếp sống, tiết mực hơn và kết qủa là sống tới tuổi
103, để lại cho hậu thế nhiều tác phẩm giá trị về bảo vệ sức khỏe. Hai
trăm năm sau, nhiều người đã áp dụng lối sống của Cornaro .
Triết gia Plato, thọ 81 tuổi, khuyên ta không được rượu chè say sưa, nhất là ở tuổi trung niên, nếu muốn trường thọ.
Thuỷ
tổ nền y học tây phương Hippocrates, sống tới 80 tuổi, nhắc nhở con
người nên từ từ, dung hòa ở mọi lãnh vực để giữ gìn nhựa sống. Nhất là
từ khi đặt chân lên ngưỡng cửa 60.
Có người muốn kéo dài sự sống thì cũng có người quan niệm ngược lại.
Sinh, Lão, Bệnh, Tử là lẽ thường của tạo hóa, hà cớ chi phải bận tâm quá đáng.
Sự chết cũng tốt cho loài người. Tre già măng mọc, đèn cạn dầu đèn tắt.
Và đã hưởng hết lạc thú rồi thì cầu sống lâu làm gì?
Trường sinh trong huyền thoại
Huyền thoại Hy lạp, Ấn độ, La mã ghi lại nhiều giai thoại trường sinh thần tiên.
Nàng
Eos yêu Tithonus hết mình, muốn cùng chàng bên nhau mãi mãi. Nàng xin
Thần lãnh đạo Thiên Đường Zeus cho chàng được bất tử. Tithonus sống mãi,
nhưng càng sống lâu càng trở nên đau yếu, bệnh hoạn và phải nuôi trong
phòng riêng. Eos trở nên buồn, vì nàng đã quên không xin cho chàng vừa
sống lâu vừa giữ được vẻ thanh xuân. Nàng đi kiếm người tình khác.
Người
Ả Rập hay kể cho nhau nghe câu chuyện nhân vật quen thuộc El Khidr với
Giếng Nước Vĩnh Cửu: Một hôm tình cờ El Khidr rửa con cá khô trong giếng
nước, con cá tự nhiên quẫy động, sống lại. Không bỏ lỡ cơ hội, El
Khidr nhẩy xuống giếng tắm và trở thành bất tử .
Hi Lạp xưa cũng
có suối nước vĩnh cửu trong rừng Jupiter, mà, theo tục truyền, ai tắm
nước đó sẽ được phục hồi tuổi trai tráng và khỏe mạnh.
Trường sinh trong văn học, nghệ thuật
Văn nhân thi xưa nay cũng khao khát sự trường thọ.
Thi
sĩ Hy lạp Hesiod tả hình ảnh đầy hấp dẫn của giống người Golden Race,
sống lành mạnh tới cả trên trăm tuổi. Đến khi chết, họ ra đi một cách
nhẹ nhàng, thoải mái như đi vào giấc ngủ say.
Pindar tả cảnh
thiên đường trường thọ của dân chúng trong một hải đảo giữa biển
Atlantic: sống cả ngàn năm trong hoan lạc, không biết gì đến đau yếu,
bệnh tật.
Trong tiểu thuyết Lost Horizon xuất bản năm 1933, James Hilton tả cảnh sống thiên đường của dân chúng ở vùng Shangri-La.
Trong
sách Metamorphoses, thi sĩ La Mã Ovid kể lại chuyện vua Aeson của Hi
Lạp được phục hồi sức khoẻ bằng cách chích vào tĩnh mạch một hỗn hợp
điều chế từ máu cừu đực chưa thiến, da rắn, thịt cú và rễ nhiều thảo mộc
khác nhau.
Trường sinh với các nhà thám hiểm
Nhiều nhà thám hiểm cũng đã giương cờ đi khắp năm châu bốn bể để tìm thuốc trường sinh.
Juan
Ponce de Leon, người Tây Ban Nha, đã lên đường thám hiểm Tân Thế Giới
với hy vọng kiếm được thuốc hồi xuân. Ong ta đã già yếu, không thỏa mãn
được cô vợ trẻ sung sức. Đồng thời ông ta cũng muốn kiếm thần dược dâng
Quốc Vương Ferdinand II. Không kiếm ra thuốc, nhưng ông ta đã tìm ra
tiểu bang phì nhiêu, hiền hòa Florida năm 1513. Ông qua đời vì vết
thương bị nhiễm độc trong khi giao tranh với thổ dân gốc Indian vào tuổi
63.
Tần Thủy Hoàng Đế, sau khi gồm thâu lục quốc, dựng nên
nghiệp Đế, muốn bất tử để trị vì trăm họ. Ong đã phái các phương sĩ Từ
Phước và Lư Sinh căng buồm ra Biển Đông tìm thần dược. Lư Sinh, Từ Phước
không tìm ra linh dược, nhưng đã lánh nạn và tìm được những mùa xuân
bất tận cho nhiều thế hệ con cháu trên đất Phù Tang mầu mỡ.
Năm 1498, Columbus tuyên bố là đã tìm ra miền vĩnh cửu ở dọc theo bờ biển Venezuela, gần đảo Trinidad.
Trường sinh với căn bản khoa học
Bên
cạnh những ý kiến, dữ kiện khó tin, nhiều người đương thời đã có cái
nhìn nghiêm túc hơn về sự hóa già và phương cách trì hoãn diễn biến này.
Tu
sĩ dòng Franciscan kiêm khoa học gia Roger Bacon đã lý luận rằng con
người già vì sự mất bớt nhiệt năng bẩm sinh. Nếu sống hợp lý cộng với
thuốc men hiệu nghiệm, ta có thể trì hoãn sự mất mát này và sống lâu
hơn. Ông ta hỗ trợ thuốc chế từ thịt rắn, tim hươu nai và một vài thảo
mộc trong rừng ở Nam Phi hay nước san hô, ngọc trai. Nhưng phương thức
mà ông ta ưa thích nhất là hít sinh khí hơi thở của trinh nữ.
Người
Do Thái khi xưa cũng tin rằng con gái là phương thuốc chữa bệnh tốt.
Vua David, khi về già không được khỏe, cơ thể lạnh toát, đắp bao nhiêu
chăn cũng không đủ ấm. Thần dân bèn đặt Người nằm cạnh những thiếu nữ
với ý định là để chân khí từ thiếu nữ tiếp sức cho vua cha. Và Ngài khỏe
ra.
Boerhaave,
danh y người Đức, sống từ 1668 tới 1738, cũng khuyên viên thị trưởng
Amsterdam là nếu muốn lấy lại sinh lực thì hãy nằm giữa hai thiếu nữ
còn trinh.
Công dụng Hơi Thở thiếu nữ cũng thấy ghi trong ngôi
mộ cổ của một lão nhân Ai cập, nói rằng ông ta sống tới tuổi 115 là nhờ
những hơi thở này.
Nhà luyện kim kiêm y sĩ Paracelsus của Đức,
vào thế kỷ 16 đã tin tưởng rằng lão hóa là do sự thay đổi hóa chất trong
cơ thể như sự rỉ sét của kim loại. Ông ta khuyên nên ăn uống cân bằng,
sống tại vùng khí hậu ôn hoà, dùng những thuốc do ông ta chế.
Theo Leonardo Da Vinci, con người mau gìa là do hậu quả của mạch máu dầy lên, máu lưu thông khó khăn, dinh dưỡng suy giảm.
Những
thế kỷ kế tiếp, việc tìm kiếm phương thức trì hoãn sự lão hóa mang ít
nhiều tính cách khoa học hơn và được thực hiện bởi nhiều nhà chuyên môn
quan tâm đến vấn đề này.
Mùa thu năm 1885, Charles Ed. Brown
Sequard, 72 tuổi, nguyên giáo sư Đại học Harvard, hùng hồn trình bầy
trước các học giả uy tín của College of France. Ông ta cho hay là đã lấy
lại được sinh lực, thỏa mãn đòi hỏi tình dục cuả người vợ trẻ bằng cách
dùng nước tinh chế từ ngọc hành loài chó. Y giới mọi nơi vội vàng áp
dụng môn thuốc này, nhưng hiệu quả không được như lời nói.
Sau
Thế chiến thứ nhất, viên Y sĩ người Nga, Serge Vernof, sang Pháp và cấy
tế bào ngọc hành cho nhiều người để tăng cường sinh lý.
Ở Mỹ, mấy
năm sau, John Romulus Brinkly cũng áp dụng phương pháp này cho thân
chủ, kiếm được nhiều tiền, mua đài phát thanh và ra tranh cử chức Thống
đốc tiểu bang Arkansas.
Descartes, Benjamin Franklin, Francis
Bacon, Christopher Hufeland ...với nhiều công sức nghiên cứu đều tin
tưởng là sự lão hóa và sự tử vong sẽ bị khoa học khuất phục. Hufeland
còn khuyên ta nên tránh sự tức giận, sự tự hủy hoại và coi chúng là kẻ
thù của trường thọ.
Các nghiên cứu hiện đại
Jean
Martin Charcot, Y sĩ Pháp, được nhiều người coi là cha đẻ của
Lão-khoa-học, xuất bản cuốn sách đầu tiên về khoa này năm 1867 nhan đề
Clinical Lectures on Senile and Chronic Diseases. Tác giả đề nghị nghiên
cứu diễn tiến sự hoá già, nguyên nhân già, thay đổi cơ thể khi về già.
Bác sĩ Ignatz Leo Nascher vận động để các trường Y Khoa đặt trọng tâm vào việc nghiên cứu vấn đề liên quan tới hóa già.
Sir Peter Medawar và Sir Mac Farlane Burnet là những người đầu tiên lưu ý tới ảnh hưởng của gene trong sự lão hoá.
Sau
thế chiến thứ hai, tốc độ nghiên cứu về vấn đề già phát triển mạnh. Tờ
báo uy tín Journal of Gerotology ấn hành số đầu tiên vào năm 1946 ở Hoa
Kỳ.
Từ năm 1970, tại Mỹ, do sự đòi hỏi của dân chúng, các khoa
học gia và chính trị gia liên kết thúc đẩy chính phủ trợ cấp nhiều hơn
nữa cho việc nghiên cứu các vấn đề về lão hóa. Do sự ủng hộ tích cực
củaThượng Nghị Sĩ Alan Cranton, cơ quan Quốc Gia Tuổi Già (National
Institute of Aging) được chính thức thành lập năm 1976. Cơ quan này có
ngân sách cao tới cả nửa tỷ mỹ kim và chuyên chú về các vấn đề liên
quan tới người cao tuổi .
Ngày nay, trên thị trường thương mại,
ta có thể kiếm được nhiều sản phẩm được công nhận bởi cơ quan có thẩm
quyền về y khoa học, hoặc được người chế ra quảng cáo là có công hiệu
trì hoãn sự lão hoá.
Nhớ lại vào giữa thập niên năm mươi, đồng
bào ta ở Việt Nam nhiều người đua nhau dùng thuốc Gerovital-KH3. Thuốc
này được một y sĩ Lỗ Ma Ni điều chế và nghe nói các nhân vật nổi danh
như Tưóng De Gaulle, Thủ tướng Adenauer, văn hào Sommerset Maugham cũng
có dùng. Gerovital vẫn còn được bán tự do ở Âu Châu, nhưng không được
cơ quan Dược Phẩm Hoa kỳ công nhận giá trị chống lão hóa.
Nhiều
người hiện đang dùng các loại sinh tố, khoáng chất, anti-oxidant, các
loại kích thích tố, Q-10, Glutathione, Melantonin, Sod, DHEA, Omega-E
..Và được giới thiệu là có thể làm chậm sự lão
hoá.
Các khoa học gia đang đi xa hơn trong công việc này. Họ
nhắm vào việc thay đổi gene trong nhiễm thể tế bào, việc giới hạn tác
hại của các phó sản trong biến hóa căn bản của tế bào.
Đi xa hơn
nữa, họ nghĩ tới chuyện thay thế những bộ phận hư hao bằng bộ phận tạo
ra do chính tế bào của mình, được nuôi dưỡng, cấu tạo trong phòng thí
nghiệm hay trên bào thai, để tránh hiện tượng khước từ thông thường. Một
ngày nào đó, biết đâu ta lại chẳng tân trang được cơ thể con người và
chỉ cần đưa đi kiểm tra định kỳ mười năm một lần, như một chiếc xe hơi.
Kết luận
Trở lại với thực tại, ta thấy tuổi thọ con người đã tăng đáng kể trong hơn trăm năm qua.
Chừng
nửa thế kỷ nữa, Hoa Kỳ sẽ có khoảng 75 triệu người trên 65 tuổi trong
tổng số trên dưới ba trăm triệu dân. Tại các quốc gia khác, số người cao
tuổi cũng tăng theo cùng nhịp độ. Đó là thành qủa những tiến bộ tuyệt
vời của khoa học cũng như sự thay đổi nhân sinh quan của loài người.
Nhà
bác học người Pháp, Louis Pasteur, năm 1856, đặt nền móng cho việc tiêu
diệt hầu hết các bệnh truyền nhiễm, nguyên nhân tử vong cao ở các thế
kỷ trước, đã là người có công đầu trong việc tăng gia tuổi thọ.
Rồi
khi sống lâu, loài người lại phải đối phó với những khó khăn mới gây ra
do môi trường cũng như do thói quen, những bệnh nan y. Con người đã ý
thức được vấn nạn đó và đang ứng phó rất hiệu nghiệm, tài tình.
Do
sự tăng gia số, người cao tuổi sẽ có nhiều mầu sắc mới, sinh hoạt mới
trong gia đình, xã hội. Những người trên 70 tuổi sẽ có nhiều việc để bận
rộn trong khoảng thời gian trên dưới 30 năm còn lại của cuộc đời. Sẽ
có nhiều người, 70, 80 tuổi còn đi làm, hoặc đi học để cập nhật kiến
thức.
Tỷ lệ lão niên nữ sẽ cao hơn nam vì sống lâu hơn. Sẽ có
nhiều cặp nhân tình đầu bạc sống chung để nương tựa, đầm ấm với nhau. Sẽ
có nhiều trường hợp con cái dọn về ở với cha mẹ già để các cụ bớt đơn
côi.
Kỹ nghê phục vụ nhu cầu người cao tuổi sẽ phát triển mạnh. Hãng du lịch sẽ phát triển mạnh để thảo mãn nhu cầu người già.
Đồng
thời, khối cử tri của người cao tuổi sẽ có ảnh hưởng nhiều tới các vấn
đề trọng yếu của quốc gia. Người già sẽ lấy lại được sự trân trọng như
trong thời kỳ nữ hoàng Anh Quốc Victoria xưa kia.
Và trong tương
lai, khoa học nghiên cứu sẽ hướng nhiều vào việc “tăng đời sống cho
năm tháng chứ không chỉ tăng năm tháng cho cuộc đời” (adding life to
years, not just adding years to life). Để nhân loại sống trong thế kỷ
thứ hai mươi mốt với tinh thần “Sống lâu, Sức khoẻ, mọi vẻ mọi hay”.
Đó sẽ là những chén rượu Kim Tương, những trái Bàn Đào mà chúng ta mong đợi.
BS Nguyễn Ý-Đức
Texas-Hoa Kỳ
No comments:
Post a Comment