Xưa nay chỉ thấy tô phở bò, gà theo chân người Việt tỵ
nạn tràn lan và nổi danh toàn thế giới; còn tô hủ tiếu quê mình hình như đã tàn
phai nhan sắc.
Chớ hồi xưa trong nước, nhứt là Lục tỉnh Nam Kỳ tô hủ tiếu quê mình vẫn vô địch
quyền vương, độc cô cầu bại. Tô phở Bắc mon men về tới cái đất Mỹ Tho danh trấn
giang hồ về hủ tiếu cũng đành phải chịu xếp ve luôn. Mỹ Tho có cả hàng chục tiệm
hủ tiếu chỉ loe ngoe vài ba tiệm phở tái, nạm, gầu…
Phở Bắc chỉ làm ‘đại ca’ trên chốn giang hồ Sài Gòn, ngay cả vô Chợ Lớn cũng phải
chào thua.
Hủ tiếu là của người Tàu, người Quảng Ðông; còn người Triều Châu thì ăn hủ tiếu
bò vò viên, tức ‘ngầu dục viễn’!
Nổi tiếng nhứt là hủ tiếu Mỹ Tho! Nó khác với hủ tiếu Nam Vang, phở Bắc, bún bò
Huế, bún mắm Sóc Trăng.
Hủ tiếu Mỹ Tho của người Quảng Ðông nhưng bánh hủ tiếu
lại do người Việt ở Gò Cát, bên bờ kia sông Bảo Ðịnh, vùng ven thành phố Mỹ Tho
làm.
Bánh hủ tiếu bằng bột gạo, không pha bột mì, bột lọc. Sợi hủ tiếu tươi chỉ cần
trụng sơ với nước nóng là trong, giòn và dai và dẻo hơn các loại bánh hủ tiếu mềm
xèo ở Chợ Lớn.
Cái thùng nước lèo của mấy xe hủ tiếu Mỹ Tho có hai ngăn. Một là nước sôi để trụng
bánh; một ngăn chứa nước lèo, có vị ngọt từ xương, giò heo và khô mực nướng
cùng với củ cải. Thịt heo nạc xắt mỏng như tờ giấy quyến, gan heo trải lên mặt
tô rồi chan nước lèo lên, rắc tiêu. (Sau nầy người ta thêm phèo non, tôm
thẻ và trứng cút… Nhưng ăn thấy nó làm sao đâu vì làm mất cái vị, cái mùi hủ tiếu!)
Hủ tiếu là phải ăn với giá sống, hẹ, cải xà lách, củ hành phi. (Ðừng có bỏ rau
tần ô rau ghém vô, ăn lãng xẹt hè).
Nêm nếm là phải xì dầu và giấm đỏ. Nêm bằng nước mắm
y, rồi vắt chanh vào (để ăn phở) là trật lất.
***
Sở dĩ tui kỹ từng chút một về tô hủ tiếu là vì em yêu của tui là ‘á xẩm’. Tía vợ
tui là Chú Sồi, chuyên nghề bán hủ tiếu.
Chính vì khoái ăn hủ tiếu mà tui mới ‘cuỗm’ được Quế
Thanh, tên con vợ tui đó.
Chú Sồi có một chiếc xe có thành vách ba bên, lộng kiếng vẽ hình trong truyện
Tam Quốc như Quan Công phò nhị tẩu, Giang tả cầu hôn, Ðương Dương trường bản,
Khổng Minh tọa lầu. Ở giữa xe là một thùng nước lèo, bốc hơi nghi ngút, những rổ
nhỏ đựng bánh hủ tiếu, mì nhỏ, mì lớn, hoành thánh, dầu chá quảy.
Hồi xưa lúc đói bụng, trong túi lại có kha khá tiền, tui bèn tắp vào lề, ngồi
lên cái ghế xếp, trước mặt xe, có miếng ván hình chữ nhựt gài chốt bè ra, đủ đặt
vừa tô hủ tiếu.
Lập tức chú Sồi đon đả: “Hà cái lầy thằng Tửng ‘xực mý dệ’ (ăn cái
gì)?”
(Thằng nhỏ nào Chú Sồi cũng kêu là Tửng hết trơn hè.
Hèn chi sau về làm rể cho Chú Sồi tui cũng bị hơi tửng tửng!)
Tui chơi lại tiếng Tàu luôn, cho dù tiếng Tàu của tui là loại ‘Tào Lao’. “Dách
cô phảnh, thím xực xí quách…tố tố sủi!” (Một tô hủ tiếu nhiều xí
quách, nhiều nước lèo). “Hầy lá!” (Ðược rồi!)
Ðưa tay đón lấy tô hủ tiếu từ bàn tay búp măng của á xẩm Quế Thanh, con gái chú
Sồi, tui xịt một chút xì dầu, giấm đỏ, gắp thêm vài lát ớt, xốc bánh hủ tiếu
lên, gắp một đũa khá lớn đưa vào miệng, bắt đầu hẩu xực.
Nước lèo nóng, cay vì ớt, vì tiêu, hơi nước lèo phả vào mặt, mồ hôi tươm ra ướt
cả lông mày. Tui chiến đấu quyết liệt, hai hàm răng kêu kèn kẹt, chỉ trong chốc
lát là tô hủ tiếu cạn queo.
Quế Thanh mang cho tui cái bình trà “Thái Ðức’ bằng nhôm nóng hổi, rót cho tui
một ly rồi hỏi: “Hẩu lớ hia Tửng?” (Ngon không anh Tửng?)
Tui cười hè hè: “Hẩu hẩu” (ngon
ngon)! “Nị hụ len, hụ len!” (Em đẹp lắm)
Em nguýt tui một cái thậm thượt dài chừng 3 cây số, xổ luôn một tràng tiếng Việt: “Tía
em nghe được là rượt anh chạy có cờ đó nhe! Ai biểu hia Tửng no bụng cững lên,
dám dê ‘tiểu thư’, con cưng của Tía!”
***
Rồi sau khi CS chiếm miền Nam, gia đình bà con mình ai cũng đều suy sụp, ai
cũng mạt, không còn tiền ăn hủ tiếu.
Xã hội mình trước 75, dù đang chịu đựng cuộc chiến đẫm máu kinh hoàng để vệ quốc
vẫn còn chút ổn định nhưng khi tiếng súng ngưng rồi tàn phá còn hơn cả lúc chiến
tranh.
Người dân bị bức hại, bị trả thù, bị đe dọa cướp nhà cửa, ruộng vườn, đất đai, bị
đày đi kinh tế mới. Ðêm nào công an Phường cũng xét hộ khẩu để bắt người đem đi
nhốt khơi khơi.
Không còn chịu đựng nổi, bà con mình ai nấy cũng âm thầm nhưng rất quyết tâm là
tìm đường ra biển. Muốn ra biển là phải biết đường sông vì tất cả các dòng sông
đều xuôi dòng ra biển, nên phải chấp nhận cuộc sống gạo chợ nước sông, đời
sương gió buôn bán qua ngày dò đường để dzọt.
Phần trên đường bộ bọn chúng rào đường chận ngõ ác liệt không bán buôn gì được
hết. Thế là ở những ngã ba sông: chợ nổi Cái Bè, chợ nổi Lục Sĩ Thành (Trà
Vinh), chợ nổi Cái Răng, Phong Ðiền và chợ nổi Ngã Bảy Phụng Hiệp, (Cần Thơ) nổi
lên.
Tui trở về Mỹ Tho thăm Quế Thanh lần cuối trước khi đi. Không biết lành dữ thế
nào, tui nói với em rằng: “Nị ráng chờ chừng nào biết Tửng nầy chết chắc,
rồi hãy đi lấy chồng nhe!”
Chú Sồi nghe được, kêu tui lại biểu: “Tửng à! Nị dắt nó đi luôn đi.
Thương nhau là sống chết phải có nhau, đồng tịch, đồng sàng, đồng quan, đồng
quách mới được lớ!”
Người ta thương hồ khấm khá thì có ghe lườn, ghe cui, ghe rỗi, ghe cà vom… mui
lợp ván chắc chắn, chịu được nắng mưa. Còn hai đứa tui nghèo, nhờ Chú Sồi vét hết
trong nhà được chưa tới 5 chỉ vàng, mua cho một chiếc ghe tam bản be kèm, lợp
mui giả khung bằng nan tre đan bện lá dừa nước, chạy máy đuôi tôm Kohler 4.
Sáng em bán hủ tiếu, tui bán cà phê, nước đá và rượu trên chợ nổi Cái Răng.
Chiều về một bến sông nào đó qua đêm thì Quế Thanh
chèo mũi, tui chèo lái hoặc căng bốn góc mền nhờ gió đưa đi cho đỡ tốn xăng.
***
Chợ nổi họp theo con nước lớn, 5 giờ sáng tiếng máy ghe, thuyền trên chợ nổi cứ
bồng bềnh trên sông trong tiết trời mờ mờ đục đục đẫm hơi sương.
“Chợ đã nổi từ nửa đêm về sáng/Ta vẫn chìm từ giữa bữa
hoàng hôn/ Em treo ‘bẹo’ Cái Răng, Ba Láng/ Ta thương hồ Vàm Xáng, Cần Thơ”
(Em treo ‘bẹo’, là treo lủng lẳng trên cây sào trái
khóm, trái xoài, dưa hấu, bầu, khoai lang, bưởi, khóm, chuối, cam, quýt, mía… bẹo
hình, bẹo dạng, treo gì bán nấy.)
Giang hồ gạo chợ nước sông, dù có á xẩm em yêu kè kè một bên nhưng bữa nào đi
bán một mình cũng có vài em bẹo hình bẹo dạng với tui. Con gái đồng bằng trên
sông nước, gió thổi phần phật lật lên vạt áo bà ba, có cái gì trăng trắng làm
tui cũng thèm nhểu nước miếng hè.
“Bìm bịp kêu nước lớn anh ơi. Buôn bán không lời chèo chống mỏi mê!” Thôi thì cám cảnh nhau, tui lén Quế Thanh, cho em
thương hồ ăn chịu hủ tiếu, chừng nào có tiền trả cũng được mà giựt luôn cũng hổng
sao.
Em bạo dạn ướm lời: “Nước xuôi chạy gió buồm mền, muốn vô làm bé, biết
bền hay không?”
Nhưng Quế Thanh, em yêu của tui, đánh hơi được, nhứt định không chịu; nếu tui
rước thêm một con ‘ngựa bà’ nữa xuống ghe là em sẽ nhảy xuống sông tự trầm mà
chết.
Sau sợ tui lạc lòng, nấn ná lâu sanh biến, nên Quế Thanh về lại Mỹ Tho ‘ráp’ với
mấy xì thẩu có đóng tàu vượt biên cho hai đứa tui, vốn quen kiếp sông hồ làm
‘taxi’ đưa khách ra cá lớn.
Hôm cuối cùng, đưa khách bị bể, không dám quay vô, tui với em bèn ngộ biến phải
tùng quyền, leo đại lên thuyền theo luôn ra cửa biển. Cái đó gọi là canh me!
Vật đổi sao dời. Ðá mòn sông cạn. Trần ai chớp mắt trăm năm mộng. Gần 4 chục
năm rồi, đêm đêm bên Quế Thanh, mơ màng tui vẫn còn nghe tiếng sóng vỗ mạn thuyền
hủ tiếu thương hồ trên chợ nổi năm nào.
đoàn xuân thu.
melbourne
No comments:
Post a Comment