Tôi được sinh ra và lớn lên trên mảnh đất sài
gòn, nơi mà một thời mệnh danh là Hòn ngọc Viễn đông , nói là nói vậy cho oai
chứ kỳ thực thời ấy từ thủ đô sài gòn mà đi vào nơi tôi sinh sống cách nhau
tròm trèm gần năm cây số, thậm chí đôi lúc từ ngữ trên báo chí ngày xưa trước
năm 1975 người ta còn cho nơi đây là vùng ven đô, đất nước nói chung và Sài Gòn
nói riêng thời ấy thật thanh bình, cái tình người thắm thiết chan hòa mà quả
thật vậy vào những năm 1960 lúc ấy tôi còn là đứa trẻ ăn chưa no lo chưa tới sau
những giờ học ở trường thì cả bọn con nít trong xóm tôi xúm xít bên nhau chơi
những trò của con trẻ , thời bấy giờ trò chơi chủ yếu là những trò tiêu khiển
tốn rất ít tiền như : đánh đáo bằng những đồng tiền loại 5 cắc có in nổi một
mặt là Tổng thống của nền đệ nhất cộng Hòa mặt bên kia là hình bụi tre là biểu
tượng quốc huy, còn các đồng xu nhỏ hơn thì có hình cô gái đầu búi tóc thật cao
trông thật khỏe mạnh, hoặc chơi trò năm mười mười lăm hai muơi ..
Một hôm, sau cái màn tay
trắng tay đen, thằng Thành là đứa bị nhắm mắt úp mặt vào tường để cho cuộc chơi
được bắt đầu :
-
Năm mười, mười lăm, hai mươi ... , một trăm .
Nó
xòe bàn tay và vỗ mạnh 3 cái vào vách tường, đồng thời đếm tiếp:
-
Một hai ba, đứa nào chạy ra bị bắt ráng chịu .
Trong lúc thằng Thành đang năm mười thì cả bọn chúng tôi túa đi khắp nơi, đứa thì leo lên cây, đứa thì trốn trong chòm mả nơi có những ngôi mộ làm bằng đá ong cũ kỹ . Đứa thì lẫn mình vào mấy bụi tre, nhưng thường thì những bụi tre thì mấy đứa tụi tôi không thích trốn ở đây, vì đơn giản là dễ bị gai của Tre cào gây thương tích, khi tàn cuộc chơi về đến nhà thế nào cũng được ba má cho ăn bánh tét nhưn mây , thét rồi đứa nào cũng né chỗ trốn hắc ám đó hết, nhất là mấy đứa con gái trong xóm không bao giờ chúng bén mảng đến bụi tre, chòm mả do sợ ma, cứ như vậy đó con trai bọn tôi suy ra yếu điểm này nên tìm đến nơi sạch sẽ là xí được các cô nàng liền .
Tôi
nhớ hôm đó thằng Cu, con của bà Mười Quán phá lệ, nó chui vào trốn trong bụi
tre gai bên vệ đường mà không ai biết, nó nằm im thin thít trốn rất kỹ, cả bọn
nhóc tụi tôi đều bị thằng Thành xí hết ráo, chỉ còn lại một mình thằng Cu là
chưa thấy tăm hơi của nó đâu cả, bầu trời dần mờ tối những bóng đèn điện vàng vọt
bắt đầu bật sáng bên đường, cả bọn lo lắng vô cùng, bỗng tiếng thằng Lập một đứa
trong đám bạn nói rú lên :
-
Ơi tụi bây ! Có khi nào thằng Cu bị ma giấu không ta ? mấy ngày trước tao nghe
ba tao nói cái xóm đường đất đỏ của mình có ma đó .
Có
hôm bà Tám vừa đặt gánh chè đậu dừng lại nghĩ chân nơi mấy bụi Tre gai ven
đưòng, tiếng rao lảnh lót của bà Tám vang lên mọi khi, đứa cháu gái nhỏ đi theo
phụ bà Tám bán hàng, nhiệm vụ nó là cầm cái đèn bão loại đèn ngày xưa có bốn mặt
kiếng chung quanh , có khi đuợc sơn thêm màu xanh, đỏ vàng lên kiếng để tránh
chóa mắt người đi đường .đèn này dùng nhiên liệu là dầu hỏa mà dân miền nam hồi
đó gọi là dầu hôi bên trong có sợi tim đèn bằng sợi bông chắc chắn, đèn phát ra
ánh sáng vàng rất tiện lợi cho những người nghèo buôn gánh bán bưng như bà Tám,
nó còn công dụng chống được những cơn gió lớn mà đèn không bị tắt nên người ta
đặt tên cho nó là đèn bão, còn những tiệm quán sang trọng hồi đó thì xài đèn
" Măng xông " loại đèn hiện đại của người Pháp du nhập vào Việt Nam,
cũng xài bằng dầu hôi, nhưng có thiết kế cái bơm hơi làm tăng áp suất trong bầu
đèn, khi đốt đèn thì nhờ áp suất này tim đèn cháy cho ánh sáng trắng khác với
đèn dầu Hoa Kỳ một trời một vực .
-
Gái Ba ! Mầy đem đèn tới đây để dì Tám đảo lại nồi chè để nó khỏi bị khét coi
con .
Con
Gái Ba làm theo lời bà Tám, khi nắp nồi chè đậu được mở , khói ùa bay lên gió
cuốn đi mang cái mùi hấp dẫn của nồi chè len lỏi vào những căn nhà lân cận ven
đường, cũng nhờ vậy mà cả cái xóm đường đất đỏ nhỏ bé của chúng tôi là thân chủ
hàng đêm của bà Tám.
Vơ
cái vá khuấy nhẹ nồi chè, khi ngước nhìn lên thì đâu trước mắt bà Tám xuất hiện
gần cả tiểu đội lính " Pặt tê giăng" súng ống đầy đủ, hình như họ
đang đi làm nhiệm vụ gì đó, nghe mùi thơm lừng của nồi chè nóng hổi của bà Tám
khiến họ không cưỡng lại được, sà xuống vây quanh gánh chè, cả bọn họ nói cười
rôm rả vừa đưa miệng húp rồn rột, mới thoáng một chút mà mỗi chú lính thanh
toán gọn ba chén chè vô bụng, chú Út còn nói tiếp nghe đâu có ông lính chưa đã
thèm, còn lấy cái cà mèn mua thêm mang về đồn để ăn tiếp, ăn uống thỏa thê xong
thì một người lính ra dáng là sếp móc tiền trả, ổng còn hào phóng " poa
" luôn cho bà Tám phần tiền thay vì phải thối lại cho họ .Nghe đâu nhờ cái
" vía " của mấy ông Tây nên chỉ loanh quanh gánh đến đầu đường là nồi
chè bán hết sạch . Bà Tám và gái Ba trở về nhà, gái Ba lui cui dọn dẹp rửa ráy
chén muỗng còn bà Tám thì ngồi lọm khọm đếm tiền, vừa trút rổ tiền ra " Bộ
đi văng " bà Tám thất kinh hồn vía la làng :
-
Ma .. Ma bớ người ta có ma, gái Ba ơi..cứu dì ..... với .
Bà
Tám kêu được như thế rồi tự nhiên bà thấy hai quai hàm như có ai bóp chặt khiến
bà trừng mắt không thốt thêm được lời nào. Nguyên nhân trong số tiền bà vừa
trút ra thì gần phân nửa là giấy tiền " vàng bạc " một loại giấy tiền
dùng cho người cõi âm do mấy ông ba Tàu ở Chợ Lớn phát hành .
Bà
con lối xóm nghe tiếng la của bà Tám thì mọi người tông cửa nhà chạy đến rất
đông họ tưởng nhà bà bị trộm cướp viếng thăm . Khi tỉnh hồn lại bà Tám mới kể kể
sự tình và đoan chắc rằng tiền âm phủ này là do mấy chú lính khố xanh khố đỏ gì
đó đưa cho bà .
Bà
tám quả quyết :
- Mấy ông tây này chắc chết trận được chôn phía đồng mả ở cạnh cầu hang xe lửa cũng nên.
Chuyện
ma cỏ hư thực thế nào không rõ , nhưng Kể từ đêm sau bà Tám giải nghệ không bán
chè đêm nữa, nghe đâu bà con trong xóm cũng buồn buồn vì từ đây không còn nghe
tiếng rao hàng thân thương và cái mùi chè đậu đen nước cốt dừa đường cát trắng ngọt
ngào thoang thoảng trong đêm nữa rồi, và cũng do ám ảnh cái rổ tiền vàng bạc
hôm ấy nên bà Tám dọn nhà đi biệt xứ từ đó ...
Vậy
mà đêm ấy, thằng Cu con bà Mười quán nó trốn biệt ở đâu ? mà có ma thật hay
không ? giả sử có con ma nào đó hiện ra lúc đó trước mặt chúng tôi thì tôi tin
chắc rằng ít ra phải có một vài đứa té xỉu, một ẩn số mà lúc bấy giờ chúng tôi
chỉ lò mò đoán già đoán non mà thôi . Con Hồng đứa con gái tham gia trò chơi được
chúng tôi cử về nhà thằng Cu để báo hung tin :
-
Bà mười ơi ! Anh Cu chơi năm mươi với tụi con không biết ảnh trốn ở đâu tụi con
tìm không ra . Tụi con sợ quá nên báo cho bà Mười nè .
Bà
Mười hoảng hốt chạy đôn chạy đáo đầu trên xóm dưới để tìm cho ra thằng con quý
tử của mình .
Tin
thằng Cu mất tích, lời đồn đại nó bị ma giấu gây rúng động cho lũ nhóc trong
cái xóm nhỏ này .
Thế
là cả xóm, người cầm đèn cầy, kẻ cầm đèn dầu tìm tòi hết mọi nơi cuối cùng cũng
thấy nó đang khò khò trong bụi tre gai .Nó mãi trốn cố giấu mình thật kỹ, rồi nằm
mơ màng gặp những cơn gió thổi hiu hiu làm cho đôi mắt nó sụp mí hồi nào không
hay, đến khi nghe tiếng kêu ầm ĩ của mọi người nó mới lòm còm bò ra khỏi cái bụi
Tre gai, bà Mười gặp nó bà mừng rơi nước mắt, nhưng cũng không quên gõ vào mông
của nó hai cây roi mây kèm theo lời hăm :
-
Còn chơi kiểu này lần nữa là má không cho mày đi chơi nữa, nghe chưa cái thằng
kia .
Như
biết lỗi, và ân hận đã làm mọi người hốt hoảng vì mình, thằng Cu tha thiết
-
Con xin lỗi má, con không dám vậy nữa .
-
Hứ chơi bời trốn tìm mà chui vô bụi rậm, ma nó chưa giấu bây thì rắn nó cũng cắn
bây có ngày đó mấy con ơi .
Sau
lần tai nạn đó bọn tôi thôi không còn chơi trò trốn tìm nữa . Còn nhiều nhiều
trò chơi của tuổi thơ yêu dấu nữa như :nhảy lò cò, chơi u, chơi ăn ô quan, thả
diều, đá dế, câu cá, chia phe đánh trận như những người lính chống chọi với
quân thù, ngày đó trong đám tụi tôi đứa nào phải làm quân địch trong cuộc chiến
thì y như rằng đứa nào cũng tiu nghỉu chấp nhận làm phe ác một lần đó thôi, nếu
lần sau mà chơi trò đánh trận thì phải đổi phe lại cho công bằng, có mấy cô bác
lớn tuổi biết chuyện này đã lên tiếng :
-
Mấy đứa nhỏ coi vậy chứ tụi nó cũng biết phân biệt chánh tà lắm nghe, làm phe địch
là xấu nên hỗng có đứa nào vui hết trơn hết trọi á.
Cái
năm tôi thi đậu vào lớp đệ thất, cả nhà tôi ai cũng mừng rỡ, tháng đó sau khi
lãnh lương của hãng xong, để khao tôi có được cái thành quả vừa qua trong học
hành, chiều hôm nọ ba nói :
-
Chiều nay ba thưởng cho xem phim cầu sông wai hay lắm, con nói thằng Lập, Thằng
Kháng, với con Hồng nữa xin phép nhà nó cho đi chung với con luôn .
Nghe
ba tôi nói cho mấy đưa bạn cùng đi xem hát bóng với mình tôi mừng ra mặt, mấy đứa
ba tôi vừa kể tên cũng đạt kết quả tốt kỳ thi vừa rồi, tôi khẽ cám ơn ba và chạy
nhanh đến nhà báo tin vui cho bọn nó, con Hồng mẹ nó đang bệnh nặng, ba nó thì
đi chiến trường chưa về, ở nhà còn hai mẹ con hủ hỉ với nhau nên nó không đành
lòng tìm niềm vui riêng cho mình .
Gần
đến giờ hẹn , con Hồng mới lò dò đến nhà tôi, nghèn nghẹn trong lòng nó nói :
-
Mấy anh đi chơi vui vẻ, coi hát xong về kể lại Hồng nghe cũng được mà . Má Hồng
trở bệnh nặng, Hồng phải canh chừng má, chứ không thì ....
Con
Hồng nói giữa chừng rồi nó ù chạy ngay về nhà .Tôi kịp nhận thoáng qua đôi mắt
buồn buồn của Hồng đã đỏ hoe ngấn lệ ...
Ba
tôi dẫn chúng tôi lội bộ ra đến đầu ngã ba đường để đón xe, chiều vẫn còn chút
nắng, không khí oi nồng, hơi nóng vẫn còn hắt lên từ con đường nhựa nơi chúng
tôi đang đứng chờ xe, thỉnh thoảng cũng có chút gió thổi nhẹ qua làm dịu bớt đi
cái nóng bứt rứt trong người .
Sau
này chúng tôi học năm đệ thất một trường gần chợ Bà Chiểu, đi riết thành mối của
ông Tám xe Ngựa, trong đám tụi tôi chỉ có mình tôi là ông Tám ưu ái cho ngồi gần
ông phía trước, vì ngồi vị trí này thòng hai chân xuống khỏi phải cởi giày, còn
lũ bạn tôi thì lên xe phía sau phải cởi giày ra xỏ vào cái móc bên hông xe, đến
nơi mới được mang giày lại như cũ vì trong lòng xe chật hẹp vả lại mang giày
dép vào thì làm dơ tấm đệm lót dưới sàn xe thì không hợp vệ sinh cho lắm, đi xe
Ngựa cũng lắm thú vui, nó cũng tròng trành như ghe gặp sóng lớn đôi khi Ngựa dở
chứng khiến cả xe ai nấy mặt xanh như tàu lá chuối vì sợ rớt xuống đường do chú
Ngựa tung 2 vó trước lên cao khiến xe nghiêng hẳn về phía sau ...
Cuộc
sống cứ thế êm ả trôi theo tháng ngày . Tôi còn nhớ, năm 1963 Sài gòn sục sôi
những biến động, năm đó bên quân đội họ làm đảo chánh, trực thăng mang " rốc
két " bay gần sát nóc nhà tôi, họ bắn đại liên trên máy bay hướng vào Dinh
gia Long, vỏ đạn rớt lộp cộp trên mái tole nhà, cô bác chung quanh sợ hãi vô
cùng, sợ sệt trong tình hình này vài gia đình tụ họp lại những căn nhà kiên cố
trong xóm cùng nhau ở đó có gì xảy ra khi tắt lửa tối đèn có nhau thì yên tâm hơn,
người lớn ai cũng trong dạ nao nao chờ đón thời cuộc, còn bọn con nít thì được
dịp gần nhau thường xuyên thỏa thích chơi đùa, chúng tôi đâu có biết rằng cha mẹ
chúng tôi đang rầu thúi ruột, thúi gan khi đất nước đang tranh tối tranh sáng của
hai phe ...
Rồi cuộc đảo chánh thành công, nền đệ nhị Cộng hòa hiện diện trên quê hương ....
Năm
1968, một lần nữa Sài gòn cũng như cả nước, khói lửa tràn lan, tôi và gia đình
cũng suýt chút nữa " tiêu diêu miền cực lạc " bởi một trái đạn cối rớt
trước sân nhà, cũng may là chúng tôi trốn kỹ trong hầm ngầm dưới đất, nếu không
thì không có cơ hội bây giờ ngồi đây ghi lại những hình ảnh thân thương đang mờ
dần trong ký ức .
Rồi
thì sóng gió cũng qua, đến giữa năm 1970 là năm đám trẻ con ngày xưa chúng tôi
đến tuổi lên đường nhập ngũ làm bổn phận công dân trong thời chinh chiến .
Tôi,
thằng Kháng , thằng Lập cùng vào lính một ngày . Buổi đầu tiên vào nơi tiếp nhận,
ba đứa chúng tôi đều mang tâm trạng nhớ nhà kinh khủng, mặc dù mới rời khỏi tổ ấm
gia đình chừng vài tiếng đồng hồ, nhưng đêm ấy với chúng tôi nó dài thăm thẳm .
Nằm cạnh bên nhau chúng tôi tâm sự, tôi nói nhỏ vừa đủ cho thằng Lập và thắng
Kháng nghe :
-
Không biết chừng nào mới vô quân trường hả tụi bây ? Rồi lăn, lê, trườn, bò nữa
. Mà tao nghe nói ở quân trường cái chuyện tắm giặt khổ sở lắm, nghe mấy ông
anh trong xóm mình đi lính về kể lại, mùa khô thiếu nước sinh hoạt lắm.
-
Ôi hơi đâu mà lo mầy ơi, chừng nào cũng được, chuyện tắm giặt thì mày làm như vầy
... như vầy ...
Thằng
Kháng cố tạo ra chuyện vui để chúng tôi quên đi nỗi nhớ nhà, nó thì thầm bên
tai tôi tưởng đâu nó hiến kế gì hay để có giải pháp tốt đối phó với khó khăn sẽ
phải đối mặt sau này nên tôi chăm chú nghe, thằng Lập cũng xích lại gần cả ba đứa
chúng tôi chụm đầu vào nhau trao đổi câu chuyện, bất chợt ai nhìn thấy hình ảnh
này có lẽ sẽ để lại nhiều dấu chấm hỏi trong đầu, bọn này đang âm mưu gì đây ?
.
Thằng Kháng vừa hiến kế xong thằng Lập phá lên cười, nước mắt nó chợt trào nơi
khoé mắt cũng bởi chuyện thằng Kháng bày vẽ cho tôi giống như chuyện tiếu lâm
làm nó cười ngất ngưởng , khiến mọi người trong "sam" chăm chú hướng
nhìn về chúng tôi . Riêng tôi thì đưa tay cốc vào đầu thằng Kháng một cái đau
điếng kèm theo lời trách móc nó;
-
Tao nói thiệt mà, vô đây mà mày còn giỡn được hả mậy, thôi khùng quá ông ơi .
Tôi
còn co giò đạp thằng Kháng một cái nữa, sau này tôi ân hận với sự phản ứng quá
trớn đối với nó .
Thằng
Kháng nó bàn với tôi nếu sau này khi ra quân trường thụ huấn mà gặp phải cảnh
thiếu nước sử dụng thì viết thư về kêu gia đình gửi lên cho cái thùng phuy loại
200 lít đục bỏ cái nắp trên rồi hứng nước mưa chứa vào đó thì coi như giải quyết
được vấn đề thiếu nước , đúng là chuyện tiếu lâm không sai .
Ngoài
trời bóng đêm dần bao phủ không gian, tôi thoáng nghe một vài tiếng kêu của lũ
vạc bay đi ăn đêm, tiếng vo ve bên tai của lũ muỗi đói, cố dỗ giấc ngủ mà đôi mắt
đứa nào cũng ráo hoảnh, ba đứa chúng tôi nằm im thin thít, mỗi đứa đang theo đuổi
suy nghĩ riêng của mình, chợt thằng Lập nhìn vào mắt tôi nó hỏi :
-
Bộ nhớ em Hồng phải không ?
Thằng
Lập nó gãi trúng chỗ ngứa của tôi, nhưng sợ quê với nó tôi nói:
-
Gì mà nhớ với nhung, có chăng đi nữa thì cũng hết khóa huấn luyện thì may ra nhung
với nhớ mầy ơi .
Thằng
Kháng lúc này nó mới lên tiếng :
-
Học ra trường xong về đơn vị mới, mầy kêu bác năm nói với thím Hai cho mầy với
con Hồng Châu về hiệp phố cho rồi, ông bà mình nói cưới vợ phải cưới liền tay
đó nghe mậy .
Nghe
thằng Kháng nói như vậy, trong lòng tôi ngờ ngợ nhớ lại câu nói của Hồng cái
hôm hai đứa hẹn nhau để nói lời tạm biệt :
-
Anh Phương cố gắng làm tròn bổn phận công dân đi, ở Hậu Phương thiếu gì em gái
nhỏ chờ đợi, duyên kiếp đều có số phần hết anh đừng lo nhé .
Câu
nói đùa của Hồng khiến tôi không vui lắm, tôi ái ngại vô cùng và tự hỏi không
hiểu Hồng có thể chờ đợi mình trở về hay không ? Chiến trường bắt đầu sôi động
trở lại, chiến sự ác liệt, tin tức dội về hàng ngày, có những chàng trai ra đi
như tráng sĩ kinh kha , để rồi cũng có nhiều thiếu phụ Nam Xương chờ chồng
trong mòn mỏi đợi chờ . Lần ra đi này tôi linh cảm chuyện tình yêu của mình nó
có vẻ mang một màu sắc xam xám, đã vậy nghe thằng Kháng đốc thêm vào thì thật
lòng mà nói trong lòng tôi như ngổn ngang trăm mối tơ vò .
Rồi
thì ba tháng quân trường ở Dục mỹ cũng xong, ba tháng dầm mưa dãi nắng, thao
trường mồ hôi đổ, cả ba đứa chúng tôi đều được tiểu đoàn trưởng của Trung tâm
huấn luyện tuyên dương tinh thần học tập, đêm cuối ở quân trường lần đầu tiên
trong đời 3 thằng nhóc sợ ma ngày nào cùng nhau nốc bia liên hoan một buổi ra
trò, đánh dấu buổi họp mặt cuối cùng ở cái lò luyện thép này, nơi đã un đúc
tinh thần và thể xác chúng tôi thêm phần mạnh mẽ .
Rời
trung tâm huấn luyện Dục Mỹ, chúng tôi lênh đênh trên biển, chiếc dương vận Hạm
505 rẽ sóng đưa chúng tôi trở về căn cứ Long Bình nơi hậu cứ của đơn vị chúng
tôi phục vụ sau này . Ròng rã hai ngày hai đêm trên biển, trong lòng ai cũng
nôn nóng mong về đến đất liền, qua hai ngày trên biển chỉ thấy mây, nước và đường
chân trời, thỉnh thoảng cũng gặp vài đàn Hải âu bay lượn tìm thức ăn giữa biển
trời bao la rộng lớn, lúc ấy thật sự chúng tôi mới cảm phục những người lính Hải
quân, bởi họ cô đơn quanh năm với biển khơi mà họ còn chịu đựng được, với chúng
tôi hai ngày trên biển như một cực hình vì không thể thích nghi với cái mênh
mông của biển trời .
Đến
hậu cứ Long Bình được một tuần, sáng nọ lệnh tập họp được ban ra, xe GMC đưa
chúng tôi ra sân bay , từng chiếc trực thăng Chinook đưa chúng tôi vào bay vào
vùng lửa đạn, mặt trận An Lộc Bình Long hiện ra bên ô kính tròn của chiếc phi
cơ, thấp thoáng trong mây chúng tôi thấy rõ mồn một nơi xa xa những cụm khói bốc
lên cao do những phi tuần ném bom nơi vùng hỏa tuyến . Hạ dần độ cao, Phi công
rà sát chiếc Chinook trên đầu những ngọn cây cao su bên phi đạo, khiến cây lá
ngả nghiêng xào xạc do sức mạnh của cánh quạt gây ra, khi phi cơ đáp xuống gần
sát mặt đất, tiếng hô vang của nhân viên phi hành người Mỹ :
-
Go out .. Go out ....
Chúng
tôi vụt lao ra khỏi chiếc chinook rồi chạy vào vạt rừng ven đường, cũng là lúc
tiếng đạn pháo từ đâu nổ tới tấp, đất bị đào xới tung lên tạo những hố sâu hoắm,
mùi thuốc pháo khét lẹt, không khí như mang nặng âm vang tiếng của lão Thần chết
đang réo gọi hồn ai.
Tiếng
phản pháo vang lên một hồi lâu rồi cũng chấm dứt , trả lại sự yên tỉnh tịch mịch
vốn có của núi rừng,
-
Đại đội tập họp . Ngang dọc so hàng , 4 hàng dọc, đằng trước thẳng.
Tiếng
khẩu lệnh của ông Thượng sĩ người có trách nhiệm đưa chúng tôi trình diện đơn vị
mới đang hành quân nơi chiến trường .
Hàng
ngũ xếp ngay ngắn, tôi tranh thủ liếc dọc liếc ngang quan sát nơi mình đặt chân
trên chiến trường là nơi đâu, lòng tôi chợt bàng hoàng, trước mắt tôi có tấm bảng
viết vội trên tấm ván ép mỏng manh hàng chữ Phi đạo Sa Cam , phía bên dưới là một
nấm mộ đất dường như mới đắp gần đây thôi, trên cây thập tự giá bằng hai thanh
gỗ thông của thùng đựng đầu đạn cối 81 ly ghép lại , ai đó viết lên hàng chữ thay
cho mộ bia một dòng sơn đỏ như máu của người dưới mộ kia đã tuôn ra vì mảnh đất
quê hương yêu dấu .
Nơi
tạm yên nghỉ : Chuẩn úy .....đại đội ...tiểu đoàn .... Anh dũng đền nợ nước
ngày ......tháng ...năm..
Được
chào đón bằng những tràng đạn pháo, được thấy những anh hùng ngã xuống nơi tuyến
đầu cũng không làm chúng tôi sợ sệt chùn bước, thầm khấn vái vong hồn người sĩ
quan bạc mệnh kia, ông hiển linh hãy dìu chúng tôi bước qua cho đến ngày tròn cuộc
chiến . Như có một phép mầu, như thấu hiểu sự tôn kính với ông nên có thể ông
ta đã che chở cho tôi thoát hiểm nhiều lần trong gang tấc.
Chúng
tôi về đến bộ chỉ huy tại thị trấn An lộc điêu tàn đổ nát, được tập hợp lại,
sau một hồi huấn thị, lựa chọn, phân phối cho các đơn vị tác chiến trực thuộc,
tôi là người duy nhất được chỉ huy phó đơn vị chọn ở lại bộ chỉ huy làm công việc
chuyên môn, còn những anh em cùng khóa học được đưa về các tiểu đoàn tác chiến.
Tôi
chia tay thằng Lập, thằng Kháng, vậy là chúng tôi mỗi đứa một nơi, trong mắt đứa
nào cũng đượm buồn lưu luyến, tôi vỗ vai hai đứa nó và cầm lấy bàn tay , ba
chúng tôi siết chặt tay nhau ngầm hẹn ngày nào đó cùng nhau về lại Sài Gòn khi
đất mẹ bình yên ..
Tôi
cố chọc cười 2 đứa bạn thời niên thiếu :
-
Tụi mình lại bắt đầu cuộc chơi năm mười nữa rồi đó, hai thằng bây đi trốn, và
tao sẽ đi tìm ...
Kỷ
niệm xưa chợt hiện ra trong tâm trí, không hẹn nhau mà tự nhiên ba đứa nước mắt
chảy thành dòng .
Đưa
tay quệt nước mắt thằng Kháng đáp lời tôi :
-
Tụi tao đi đây, nhớ giữ sức khỏe nha, thư từ nhà có gì nhớ cho tụi tao biết với
.
Nước
mắt lại tuôn ra, ông Thượng sĩ già đứng gần bên thấy hết sự việc, hình như ái
ngại điều gì ông ta nói :
-
Ba đứa bây ở chung xóm với nhau hả, thôi đừng buồn, đóng quân cũng gần đây
thôi, muốn gặp nhau dễ ợt hà, thôi đi đi kẻo anh em chờ.
Chiến
trường vào mùa khô, mùa cao điểm của chiến trận, lao vào công việc hàng ngày, đối
diện với nhiều cam go, có lúc tôi quên bẵng đi hai thằng bạn kia, quên cả cái
gia đình ở Sài gòn, quên cả cái tình yêu bé nhỏ của Hồng, đứa con gái nết na
thùy mị đùa vui trong quãng đời thơ ấu và tình yêu đến với hai đứa tôi tự hồi
nào không hay .
Ba
tháng sau, thư đi tin lại cho gia đình, cho người yêu . Lần này nhận lá thư của
Hồng, không phải cái bì thư màu xanh hy vọng như những cánh thư trước, mà là bì
thư màu trắng trinh nguyên, cũng là màu tang tóc, trong thư Hồng kể rằng :
-
Anh Phương thương mến ! Viết thư này cho anh, tuy tay thì cầm viết nhưng lòng thì
không muốn, nhưng cuối cùng cũng phải viết cho anh, mẹ em ( thím hai ) mất tròn
một tháng, ba em thì đơn vị báo tin mất tích, đất trời sụp đổ dưới chân em, gia
đình lâm cảnh túng bấn, may nhờ một người ân nhân đứng ra gánh vác mọi chuyện,
và anh ta cầu hôn em thật chân tình sau lần lo tang chế cho mẹ, vì nghĩa em
đành phụ anh, mong anh đừng buồn, hậu phương còn rất nhiều em gái khác . Anh nhớ
giữ sức khỏe . Tạm biệt . Ngàn lần yêu anh, Hồng.
Đọc
xong lá thư tôi không trách Hồng phụ bạc, nhưng tự trách mình vô dụng để vuột một
mối tình trong trắng thơ ngay . Đổ vỡ trong cuộc tình với Hồng, thế là tôi gặp
phải sự cô đơn như những chiến sĩ Hải quân dạo ấy, nhưng không phải cô đơn giữa
biển khơi, mà tôi cô đơn giữa biển đời mênh mông vô định, sau vụ này tôi thẫn
thờ cả năm thì vết thương lòng mới tạm liền da .
Buổi
sáng nọ, đang loay hoay công việc, tôi nghe loáng thoáng phòng bên cạnh có tiếng
sếp đang ra lệnh :
-
Chiều nay xin trực thăng tản thương, chở mấy anh em thương binh ở ban quân y về
Tổng y viện Cộng hòa, nhân tiện đem xác thằng Nguyễn công Lập, và thằng Dương
văn Kháng về nghĩa trang quân đội luôn .
Tôi
bỏ ngay công việc chạy nhanh qua Ban 3 hành quân, hỏi han một lúc thì đúng là
hai thằng bạn thân thiết nhất trong đời tôi đã ra đi vĩnh viễn, thằng Lập chết
trước thằng Kháng nửa ngày do bị sốt ác tính quật ngã nó . Còn thằng Kháng thì
dẫm phải mìn khi đi hành quân, thân xác nó vương vãi khắp nơi, đồng đội nó gom
lại được một ít thịt xương gói lại trong chiếc Poncho từng che chở nó trong những
cơn mưa rừng lạnh lẽo .
Chiếc
trực thăng sơn màu tang trắng, trước mũi, bên hông đều mang chữ thập đỏ đáp xuống,
nó mang những thương binh và mang theo hình hài của hai đứa bạn tôi, cho đến
khi chiếc trực thăng có danh hiệu " Nhân ái 95 "" chỉ còn một
cái chấm nhỏ trên bầu trời vàng hoe nhuộm nắng cũng là lúc tôi thốt lên trong vô
thức :
-
Xí thằng lập, xí thằng Kháng . Một . Hai .ba .
Tôi
vỗ tay ba cái vào cái thùng Cô nét nơi lưu giữ xác của hai đứa bạn như vỗ vào
vách tường của trò chơi cút bắt những ngày xưa ./.
Hai
Hùng SG
No comments:
Post a Comment