Lời người viết:
-Bài viết này là nén nhang thắp lên để tưởng nhớ anh tôi là Nguyễn Quang Khóa, nguyên Trung tá phi công phản lực, Trưởng phòng kế hoạch Không đoàn 41 Chiến thuật, xuất thân khóa 61A SVSQKQ đã chết tại trại tù số 3 Kỳ Sơn, Tam Kỳ, tỉnh Quảng Nam.
-Bài viết này là nén nhang thắp lên để tưởng nhớ anh tôi là Nguyễn Quang Khóa, nguyên Trung tá phi công phản lực, Trưởng phòng kế hoạch Không đoàn 41 Chiến thuật, xuất thân khóa 61A SVSQKQ đã chết tại trại tù số 3 Kỳ Sơn, Tam Kỳ, tỉnh Quảng Nam.
-Chân
thành cảm ơn anh Phan Trừng, và anh Đan Hoài Bửu (Phượng Hoàng Kim
Cương), nguyên Trung tá phi công phản lực, bạn học cùng khóa của anh
tôi, đã giúp tôi hoàn thành bút ký này.
-Quý vị nào là bằng hữu, chiến hữu hoặc cựu tù binh biết về cái chết và mộ phần của anh tôi, xin liên lạc với tôi qua địa chỉ email: nguyenpierre24@yahoo.com.
-Quý vị nào là bằng hữu, chiến hữu hoặc cựu tù binh biết về cái chết và mộ phần của anh tôi, xin liên lạc với tôi qua địa chỉ email: nguyenpierre24@yahoo.com.
Mặc dù khoảng cách tuổi tác sai biệt khá nhiều, nhưng anh em tôi
đều có điểm tương đồng là yêu thích toán học và ôm mộng viễn du. Vì
thế chúng tôi đều học ban khoa học toán và tình nguyện gia nhập quân
đội sau khi đậu tú tài toàn phần:
“Vòng trời đất dọc ngang, ngang dọc
Nợ tang bồng vay trả, trả vay
Chí làm trai, nam bắc đông tây
Cho phỉ sức vẫy vùng trong bốn bể”
Mùa hè 1960, anh tôi nhập học khóa 61A SVSQKQ. Khoảng tháng sau lại
có giấy báo nhập học ban Toán của trường Đại học sư phạm gửi về nhà,
ba tôi mở ra, đọc đi đọc lại nhiều lần, mặt đăm chiêu, ra chiều nghĩ
ngợi nhiều lắm.
Mười năm sau, tôi cũng vừa thi vào đại học sư phạm, đồng thời
làm đơn xin gia nhập trường Võ bị Đà lạt để được sống và học tập
trong khung cảnh hào hùng và thơ mộng của vùng đất cao nguyên, mà
tôi đã bị quyến rũ trước đây qua bài “Ai Lên Xứ Hoa Đào” của nhạc sĩ
Hoàng Nguyên và một số hình ảnh của người sinh viên sĩ quan Đà Lạt
trong đoạn phim giới thiệu về trường Võ Bị Quốc Gia Đà lạt, đã chiếu
tại trường vào dịp cuối năm lớp Đệ nhất (lớp 12) tại trường Quốc
Học, Huế.
Tôi đã trúng tuyển vào trường đại học sư phạm nhưng không thấy
giấy báo nhập học trường Võ Bị Quốc Gia Đà Lạt gửi về nhà. Vì thế,
sau này tôi đã trở thành một giáo sư khoa học tại một trường nữ
trung học đúng theo ý nguyện của ba mẹ tôi, nhưng tôi không bao giờ
quên được hình ảnh hào hùng và lịch lãm của người trai thế hệ mà
mình mơ ước.
Sau khi học đại học sư phạm được vài tháng, nhân một buổi ăn tối
của gia đình, ba tôi mới ôn tồn cho tôi biết là ông đã nhận được
giấy báo của trường Võ Bị Quốc Gia Đà Lạt gửi về nhà, nhưng ông
không cho tôi biết, vì anh tôi đã là pilote de guerre vào sinh ra tử
trên bốn vùng chiến thuật (ba tôi có thói quen nói nửa Việt nửa
Pháp, như ông thường viết các toa thuốc cho bệnh nhân).
Anh tôi du học tại Hoa Kỳ năm 1961. Gia đình tôi đều đặn nhận
được thư từ và hình ảnh của anh tôi, chụp tại các trường huấn luyện
phi công, luôn luôn kèm bên chiếc phi cơ đã bay, hoặc các hình ảnh
chụp tại các tiểu bang đã đi qua nhân dịp cuối tuần hoặc các dịp lễ
lạc. Tôi ước mơ một ngày nào đó mình cũng được như vậy.
Ngoài thư từ gửi cho gia đình, anh tôi còn gửi cho chị M.T.,
sinh viên trường CSYT, con gái của một người bạn của ba tôi, mà ba
tôi đã chấm theo tiêu chuẩn “Công-Dung-Ngôn-Hạnh” cho anh tôi, trong
lúc hai người chưa một lần gặp gỡ.
Nhiều lần tôi cảm thấy xót xa cho chị, khi chị đưa lá thư anh
gửi cho tôi xem với hai câu thơ mở đầu:
“Người ơi, gặp gỡ làm chi
Trăm năm biết có duyên gì hay không”
Năm 1963 anh về nước. Hai câu thơ trên trích trong tập truyện
Kiều của cụ Nguyễn Du mà anh đã lồng vào trong bức thư, gửi cho chị
M.T. như một định mệnh đã an bài.
Ba tôi đã phải nói lời xin lỗi với cha mẹ chị, vì việc đi hỏi
chị là do ba tôi đơn phương quyết định.
Một lần nữa, ba tôi lại đăm chiêu, suy nghĩ nhiều lắm.
Dĩ nhiên, anh tôi từ đó không về nhà, cứ ở mãi Sài gòn. Lúc đầu,
anh ở Liên Phi đoàn 33 Vận tải tại căn cứ Tân Sơn Nhứt, sau đó
chuyển qua Phi đoàn 518 Khu trục tại căn cứ Biên Hòa.
Thỉnh thoảng anh gửi thư cho ba mẹ tôi nói rằng anh quen một
người con gái gốc Bắc, con của một sĩ quan cấp tá, bạn của cậu tôi.
Chị là sinh viên trường Đại học Luật khoa Sài gòn và cũng là bạn
cùng học tại ĐHLK với anh tôi (sau khi ở Hoa kỳ về, anh lại ghi danh
học ĐHLK).
Chị có tên rất ấn tượng: Phạm Chất L.
Thư từ giữa hai anh chị chất đầy như núi. Một lần vào cư xá thăm
anh, tôi tò mò đọc được một lá thư của chị gửi cho anh, với bài thơ
mà tôi chỉ nhớ được hai câu:
“Đời phi công có mấy người
chung thủy
Mỗi đường bay thay một cánh hoa yêu”
Hay một lá thư khác:
“Oublie, c’est le nom d’une fleur
N’oubliez pas, c’est le vœux de mon cœur”
(Xin người giữ lấy hoa quên
Và đừng quên nhé lời nguyền trong tâm)
Chị cũng không quên ép vào những trang thư tình màu tím một con
bướm đen đậu trên nhánh hoa Forget Me Not. Điều này làm tôi liên
tưởng đến sự trùng hợp màu sắc một cách ngẫu nhiên: Bộ áo bay của
anh tôi màu đen với khăn quàng cổ màu tím, tôi thường thấy anh tôi
mặc trong những phi vụ đặc biệt.
Đời phi công thật hào hùng và bay bướm. Trong tủ sách anh tôi để
lại cho tôi học, tôi thích thú khi đọc cuốn Đời phi công của Toàn
Phong, Chuyến bay đêm (Vol de nuit), Cõi người ta (Terre des hommes)
của nhà văn phi công Saint Exupery. Càng thích thú hơn, khi biết
Toàn Phong là bút hiệu của Giáo sư Nguyễn Xuân Vinh, tác giả cuốn
Hình học Không gian không thua kém gì các cuốn Géométrie dans
L’espace của Le Bosse hoặc của Caronner mà anh em tôi xem như là
quyển Tự điển Toán Hình học Không gian.
Suy cho cùng, toán học và văn chương tuy thuộc hai phạm trù khác
nhau nhưng luôn luôn có sự tương quan logic. Toán học tuy khô khan,
nhưng nhà toán học lại là người rất nhạy cảm. Sự nhạy cảm là khởi
đầu cho bao đề tài lãng mạn trong văn chương.
Thời gian dần trôi, tình hình chiến sự ngày càng ác liệt, anh
tôi được điều động ra căn cứ Đà nẵng. Ác liệt nhất là trận đánh Tết
Mậu Thân 1968 và sau đó là Mùa Hè Đỏ Lửa 1972.
Phi vụ oanh tạc, giải tỏa cố đô Huế dịp Tết Mậu Thân, chiếc Khu trục
cơ Skyraider AD6 do anh tôi lái bị bắn với chi chít lỗ đạn phòng
không của Bắc quân, đặc biệt là bánh đáp bị bắn gãy nhưng anh tôi đã
đáp bụng an toàn.
Phi vụ oanh tạc, giải tỏa cổ thành Quảng
Trị, chiếc phản lực cơ A37 của anh tôi bị bắn rơi trên bầu trời cổ
thành, anh đã nhảy dù thoát hiểm và may mắn được một trực thăng cứu
thoát, đưa về căn cứ Đà Nẵng an toàn.
Năm đó, tôi đang học năm thứ hai. Vừa ra khỏi giảng đường, một
con bướm đen to bằng bàn tay, bay lởn vởn và đậu trên vai tôi vài
tích tắc rồi biến mất. Sau đó tôi gặp một viên thiếu úy phi công
trực thăng đến trường tìm một người bạn, vô tình kể lại chuyên anh
ta vừa cứu thoát một thiếu tá phi công phản lực A37 bị bắn rơi tại
Quảng trị, tôi nghe chuyện và hỏi tên người phi công lâm nạn, thì ra
người phi công phản lực đó chính là anh tôi.
Sau này, trong tập san Lý Tưởng của binh chủng Không quân có
đăng bài Cánh Thiên Thần Trên Bầu Trời Cổ Thành Quảng Trị của ký giả
L.R.viết về anh lúc cánh dù bung ra từ chiếc phản lực cơ lâm nạn
trên vùng trời lửa đạn.
Bạn bè cùng khóa 61 A SVSQKQ và các khóa sau đã có nhiều người
ra đi không bao giờ trở lại như tráng sĩ Kinh Kha qua sông Dịch
không hẹn ngày về. Chiến tranh đồng nghĩa với mất mát, đau thương,
cô đơn và giá lạnh:
“Hồn tử sĩ gió ù ù thổi
Mặt chinh phu trăng dõi dõi soi
Chinh phu, tử sĩ mấy người
Nào ai mạc mặt, nào ai gọi hồn”
Biến cố khó quên đối với gia đình tôi xảy ra vào ngày 29/3/1975
sau khi tôi nhận bằng tốt nghiệp và sự vụ lệnh bổ nhiệm làm giáo sư
tại trường trung học được vài tháng. Đà nẵng đang trong cơn hấp
hối.
Tình hình chiến sự vô cùng căng thẳng.
Anh tôi một mình lái xe jeep ra nhà, hối hả chở cha mẹ tôi vào
phi trường Đà nẵng, còn tôi không liên lạc được phải chạy một mình
ra cảng Tiên sa mong thoát thân bằng đường biển.
Vừa đến cảng thì bị pháo kích dồn dập, tôi chỉ kịp nằm bẹp xuống
một mương nước, và chiếc vali trong tay tôi rơi lúc nào cũng không
hề hay biết. Một quả đạn pháo kích rơi ngay trước mặt tôi chừng mươi
thước, đúng lúc một chiếc xe jeep trờ tới, mọi người trên xe bị hất
tung lên và trở thành tro bụi trong phút chốc.
Quá hoảng sợ,
tôi chạy lùi theo một số người tìm đường ra biển Sơn Trà.
Lúc này có một vài chiếc phi cơ bay vút qua, hướng ra biển Đông.
Tôi ngửa mặt lên trời, ước gì ở trên cao có anh tôi thấy để cứu vớt
tôi. Thế nhưng, tất cả đều đã bay xa cho đến khi chỉ còn là vài chấm
đen trên nền trời ảm đạm.
Lúc này tôi đã ra đến bờ biển Sơn trà, gặp được một chiếc tàu
đánh cá đang đậu cách bờ chừng vài trăm thước. Mừng quá, tôi cởi vội
quần áo và lao nhanh xuống biển. Lúc tay tôi chạm vào mạn tàu cũng
là lúc trên bờ xuất hiện vài người có vũ khí cầm tay, ra hiệu cho
tàu vào bờ. Một số người trên tàu vội vã kéo tôi lên đồng thời tàu
nổ máy chạy thẳng ra khơi.
Nhóm người võ trang nhắm thẳng vào tàu bắn liên tục nhưng chỉ
làm bị thương một người trên tàu, còn lại đều vô sự.
Một tiếng sau, tàu này được tàu Hải Quân Việt Nam Cộng Hòa cứu
vớt và chuyển lên một chiến hạm của hải quân Hoa Kỳ.
Trên boong tàu, tôi đưa mắt nhìn vào phía đất liền. Mịt mù trùng
khơi. Biển vây kín biển cả. Tiếng sóng vỗ ào ào. Tàu lắc lư chao
đảo. Tôi ngửa mặt lên trời, tự nhủ: Có phải đây là giờ phút vĩnh
biệt của anh em tôi? Đột nhiên bầu trời trở nên u ám, vài hạt mưa đã
rơi nhanh xuống sàn tàu.
Sau này, qua một người quen cho biết: khuya 29/3/1975 anh tôi đã
lên và lái một chiếc phản lực cơ A 37 ra phi đạo nhưng không thể cất
cánh được vì đã bị hư hại. Vì thế anh tôi đã trở thành tù binh tại
trại tù số 3 Kỳ Sơn, Tam Kỳ, tỉnh Quảng Nam.
Hơn một năm sau, trong lúc gia đình đang ăn cơm trưa, bỗng nhiên
có một con bướm đen to bằng bàn tay, bay vòng vòng trong phòng và
đậu trên vai từng người rồi cuối cùng đậu ngay chính giữa bàn thờ
gia đình. Năm phút sau, nhận được tin báo là anh tôi đã chết, nằm
trong một bụi cây bên ngoài trại tù chừng 800 mét. Mọi người đều
sửng sốt, bàng hoàng nhưng không dám bật thành tiếng khóc.
Đến khi bình tĩnh lại, nhìn về phía bàn thờ, con bướm đen cũng đã vỗ
cánh bay ra khỏi nhà.
Đêm hôm đó, tôi nằm mơ thấy anh tôi mặc bộ áo bay màu đen với
khăn quàng cổ màu tím, đang lái chiếc xe jeep về nhà nhưng máu đã
đẫm ướt phi bào.
Sáng dậy, nhớ lại giấc mơ đêm qua, tôi cảm thấy một vị đắng,
chua cay tràn ngập cổ họng. Tôi nghe như đâu đây phảng phất tiếng
hát .của một nữ ca sĩ nỗi tiếng một thời:
“Ngày xưa khi anh vừa khóc chào đời
Mẹ yêu noi gương người trước đặt lời
...
Người phi công giữ khung trời
Vẫn còn mang số phận con người”
Bất giác hai dòng nước mắt tuôn trào lúc nào không hay.
Hai mươi năm sau, một mình tôi trở lại vùng rừng thiêng nước
độc, nơi anh tôi đã bị lưu đày, khổ nhục. Trại tù giờ đây chỉ là một
vùng lau lách đầy cỏ dại, rất khó xác định.
Nghĩ mình đã vượt núi, băng rừng, lội suối trong mùa nước lũ,
chẳng lẽ bó tay trở về.
Trời đã nhá nhem tối, tôi thì thầm khấn nguyện anh tôi. Bỗng từ
đâu một con bướm đen to bằng bàn tay bay đến trước mặt tôi, như có ý
dẫn đường. Tôi tiếp tục khấn nguyện. Con bướm đen bay vòng vòng, tôi
chạy theo và bị té sấp vào một bờ đất.
Sau phút hoảng hốt, tôi lồm cồm bò dậy và nhận ra một số nấm mộ
nho nhỏ nằm khuất dưới đám cỏ dại. Tất cả gồm 12 nấm mộ vô chủ.
Người dân địa phương cho biết đó là mộ của tù binh tại trại 3 Kỳ
Sơn. Tôi vội vàng hốt 12 nắm đất bỏ vào 12 bao nilon nhỏ và đánh dấu
theo số thứ tự, rồi đến nhà dân xin ngủ tạm qua đêm.
Sáng hôm sau về lại Tam Kỳ, tìm đến nhà một thầy ngoại cảm. Thầy
cho biết anh tôi nằm ở ngôi mộ số 3.
Tuy nhiên tôi vẫn mong trong tương lai, khi bài viết này của tôi
được nhiều người biết đến, tôi có thể có nhiều tin tức hữu ích và cụ
thể để xác định chính xác mộ phần của anh tôi.
Nguyễn Quang Thành
No comments:
Post a Comment