Tôi
Nguyễn Văn Đề, sinh ra là một ngôi sao xấu trong những ngôi sao xấu nhất của bầu
trời đất Việt. Cha mẹ tôi nghèo lại phải sinh sống trong một miền quê hẻo lánh
gần một vùng núi rừng heo hút, xa xôi, đất cày lên sỏi đá.
Tôi
chưa bao giờ được cắp sách đến trường. Do đó, từ lúc mới lên bảy, tôi được một
nhà phú hộ mướn chăn dê.
Với
đàn dê 40 con, hằng ngày tôi phải lùa chúng vào các triền núi đá từ sáng sớm
tinh sương đến chạng vạng tối mới về. Cả ngày chăn đàn dê gặm cỏ. Chiều đến tôi
phải gom dẫn chúng về nhà phú hộ. Công việc chỉ đơn thuần như thế. Còn việc trả
công, tôi không hề hay biết. Đó là việc của người lớn: – Của cha mẹ tôi và nhà
phú hộ.
Sáng
sớm được mẹ đánh thức, tôi rửa ráy qua loa rồi rủng ra rủng rỉnh dẫn đàn dê vào
núi cho chúng tự tìm thức ăn.
Sáng
nào cũng vậy, mẹ trao cho tôi một nắm cơm vắt, đựng trong mo cau với một ít muối
ớt, gói trong miếng lá chuối khô. Đó là bữa cơm trưa hàng ngày của tôi.
Tôi
chưa bao giờ biết ăn sáng hay lót lòng bao giờ. Ngay cả buổi cơm cũng chỉ có muối
ớt. Họa hoằn lắm mới được thay đổi bữa cơm với một con cá lép khô muối mặn bằng
hai ngón tay. Đó là bữa ăn khá thịnh soạn, ngon miệng nhất đời chăn dê mà tôi
đã hoan hỉ lắm rồi.
Ngồi
ăn nghe tiếng lục lạc rủng rẻng trên cổ của bầy dê cũng vui tai quá đỗi.
Đời
tôi thăng hoa hơn, năm 1973, vừa đúng 18 tuổi, tôi xin đăng vào Nghĩa Quân, được
tuyển mộ và thăng chức ngay là Nghĩa Quân Viên-một cấp bậc nhỏ nhoi nhất trong
hàng ngũ Nghĩa Quân. Tôi hãnh diện được xúng xính trong quân phục ‘lính áo
đen’.
Đời
tôi bắt đầu sáng lạn hơn thằng chăn dê rồi đó! Tôi được dạy cho biết cách sử dụng
súng trường Carbin M1 và trong khi đó, “Em Một” (Carbin M1) là ‘người tình’ đi
theo tôi trong suốt quãng đời lính tráng này.
Tôi
được phục vụ ngay tại địa phương nơi tôi chào đời và lớn lên trong đói nghèo,
cơ cực. Tiểu đội của tôi gọi là ‘tiểu đội thám báo’.
Nói
‘thám báo’ cho oai, chứ thực ra, nhiệm vụ chính của tiểu đội là ban ngày canh
gác trụ sở Xã, ban đêm tiểu đội thường xuyên di chuyển từ địa điểm này đến địa
hình khác với mục đích tránh sự dòm ngó, quan sát theo dõi của địch, để khỏi bị
tấn công sát hại.
Tuy
tránh giao tranh với địch song anh tiểu đội trưởng gọi nhiệm vụ đó là ‘phục
kích đêm’ để phá vỡ đường dây liên lạc của Việt Cộng.
Vào
đầu tháng tư năm 1975, tiểu đội di chuyển đến một bờ ruộng. Tuy nói là ẩn núp,
ngụy trang, che dấu để tránh sự quan sát của địch, song chúng tôi cũng phải
chia phiên ra canh gác cẩn mật. Khi phát hiện địch, chúng tôi cố ý ẩn nấp để
tránh giao tranh và sáng hôm sau sẽ báo cáo để thỉnh thị quyết định của thượng
cấp.
Nào
ngờ đêm hôm đó, cái đêm định mệnh của đời tôi và cũng là một đêm tận cùng của
tên du kích Việt Cộng, từ rừng núi rình mò về thôn xóm để nhận tiếp tế. Đêm hôm
đó, chẳng may hắn lơ đễnh thế nào mà đi lọt vào ổ phục kích của chúng tôi. Lúc
đó là phiên gác của anh Cường nhưng anh ta ngủ gà ngủ gật, mắt nhắm mắt mở, khi
tỉnh giấc anh thấy một bóng đen xuất hiện quá gần chỗ anh đang gác. Giật mình,
anh Cường nổ súng bắn một băng tiểu liên và tên du kích ngã gục sau phát đạn
khai hỏa đầu tiên của anh ta.
Sáng
hôm sau, chúng tôi lật xác tử thi địch để nhận dạng và biết rõ tên du kích là một
người dân trong xã vừa thoát ly gia đình theo Việt Cộng, khoảng vài tháng trước.
Hắn ta theo du kích vào rừng và làm liên lạc viên cho đám du kích.
Sau
đó chúng tôi được lệnh mang xác anh du kích về Xã để cho thân nhân anh ta nhận
xác về chôn cất.
Đây
là một chiến thắng đầu tiên kể từ ngày thành lập tiểu đội mang tên ‘thám báo’ của
chúng tôi.
Lẽ
dĩ nhiên một tiểu đội ‘áo đen’ làm gì có phương tiện tải thương để chuyên chở tử
thi địch như các đơn vị Chủ Lực Quân hay Địa Phương Quân.Vì thế, hôm ấy chúng
tôi phải dùng 2 cây sào tre, rồi lấy áo đi mưa cá nhân, kết hợp làm băng ca,
khiêng tử thi tên du kích về xã.
Chúng
tôi thay phiên nhau, hai người một, kẻ trước người sau, ì ạch khiêng cái xác từ
bờ ruộng này đến bờ đê khác. Gần đến trụ sở Xã, chúng tôi được lệnh của anh
trung đội trưởng cho đặt tử thi trước trụ sở Xã.
Rủi
ro cho tôi khi khiêng tử thi về gần đến nơi, người bạn khiêng phía sau vừa bảo
tôi vừa thả buông băng ca xuống:
–
Đặt xác nó tại đây đi!
Anh
bạn vừa thả băng ca thì trời bất chợt đổ cơn mưa rào. Tôi đem lòng thương hại kẻ
xấu số nên cố nắm chặt hai cáng băng ca, lôi xác tử thi vào thẳng trong chợ để
xác khỏi bị…mưa ướt.
Đó
là lòng nhân từ của bất cứ ai cũng phải cư xử với người chết như thế. Tôi vừa đặt
tử thi xuống, bất ngờ một người đàn bà đập thình thịch vào lưng tôi, nhục mạ,
chửi rủa om sòm:
–
“Cái quân trời đánh! Chồng tao đi thăm ruộng về khuya. Bọn mày giết chồng
tao!!” rồi lôi xác xềnh xệch như lôi kéo một con chó. “Trời ơi là trời!”
Tôi
định giải thích nhưng nghĩ lại bà ta cũng có cái đau khổ của người vợ bị mất chồng,
nên tôi đành cắn răng chịu đựng, bỏ đi mà không cần giải thích cặn kẽ cho bà ấy.
Một
tháng sau, tháng tư đen năm 1975, đổ sụp về, tất cả các sĩ quan từ thiếu úy trở
lên phải trình diện học tập cải tạo tại các trại tập trung lao động khổ sai.
Các
anh em hạ sĩ quan, binh sĩ và Nghĩa Quân được học tập tại địa phương 20 ngày
thì được cho về sinh hoạt với gia đình. Riêng tôi lại bị vợ của tên du kích,
nay là chủ tịch Ủy Ban Quân Quản kiêm Ủy Viên Chính Trị Xã, ra lệnh chuyển tôi
từ địa phương ra trại cải tạo Lam Sơn với tội danh: Thành phần ác ôn, nguy hiểm,
có nợ máu với nhân dân…
Những
ngày đầu ở Lam Sơn, tôi cố tìm các anh em nghĩa quân khác mà tôi quen biết. Tôi
đã không tìm thấy bất cứ ai, kể cả anh Cường, người Nghĩa Quân đã bắn chết anh
du kích. Các ông trung đội trưởng, tiểu đội trưởng, tôi cũng chẳng thấy ông
nào. Thậm chí ngay cả các anh ‘linh áo đen’ đã đi phục kích đêm hôm đó, cũng chẳng
có ai!
Tôi
bị phân bổ vào nhà H.22 gồm 50 thiếu úy, chỉ có một mình tôi là Nghĩa Quân
Viên.
Những
ngày đầu, các ông thiếu úy cũng quá đỗi ngạc nhiên và hỏi tôi:
–
Mày là thằng nghĩa quân quèn, sao lại trình diện vào đây để ngồi tù?! Ủa, mày
muốn tình nguyện học tập hả?
Có
người thì nói ôn tồn, thương hại. Có ông thì nhìn tôi sòng sọc, gặng hỏi:
–
Chứ bộ mày muốn mấy ổng trả lại cấp bậc nghĩa quân quèn cho mày hay sao?
Tuy
bị hạch hỏi nhưng lúc nào tôi cũng ôn tồn, nhã nhặn trả lời:
–
Dạ em đâu dám mơ ước như thế đâu thiếu úy!
Dù
sao đi nữa, đời tôi cũng đã thăng hoa lắm rồi.
Ngày
xưa, có bao giờ tôi được ăn chung, ngủ chung với các vị sĩ quan trẻ này đâu.
Thiếu úy, ít ra các ông ấy cũng là trưởng ban, trưởng phòng, cuộc trưởng … gì
đó trong chi khu, nên lúc nào tôi cũng kính nể, tôn trọng các vị sĩ quan ấy.
Lao
động trong trại tù chừng gần hai năm, các ông thiếu úy lần lượt ra về.
Tôi
lại bị dồn vào ở tù chung với trung úy và đại úy. Đời tôi sao được thăng cấp
nhanh quá. Không bao lâu, chúng tôi bị chuyển ra trại Củng Sơn, Phú Yên. Khoảng
3 năm có rất nhiều trung úy và đại úy lần lượt ra về. Trại lại nhốt chung tôi với
các ông thiếu tá mà ngày xưa tôi chưa bao giờ dám xuất hiện gần các vị ấy vì
các ông này ít ra cũng là các cấp chỉ huy của đại úy Quận Trưởng kiêm Chi Khu
Trưởng của tôi. Đời tôi lại thăng hoa, thăng cấp nhanh như chớp. Càng được sống
gần các vị thiếu tá, tôi càng kính phục họ nhiều hơn. Các ông ấy hiền, đạo đức,
xem tôi như em út trong trại tù.
Sau
đó, chúng tôi lại bị dời về A.30. Ở tù hơn 5 năm, hầu hết ai ai cũng được
về đoàn tụ với gia đình. Cá nhân tôi lại được thăng cấp ở chung với một đại tá
và 12 người tù chính trị khác mà trại gọi là ác ôn, có nhiều nợ máu với nhân
dân. Đời tôi tuy thăng hoa, thăng cấp nhanh, nhưng càng thăng bao nhiêu
thì ngày về lại càng xa tít mù khơi bấy nhiêu. Tôi hết trông mong có ngày trở về
gặp lại vợ con.
À,
mà tôi quên kể cho quý vị nghe về gia đình, sự nghiệp, thân thế của tôi…
Năm
18 tuổi tôi cũng đã lập gia đình với con Nại. Cô gái này nhà cũng nghèo, cũng
được phú hộ mướn chăn dê như tôi. Cả hai chúng tôi thường xuyên gặp nhau ở chỗ
thả dê gặm cỏ. Không biết trời xuôi đất khiến thế nào khi tôi gia nhập ‘quân áo
đen’ dưới ‘cờ vàng ba sọc đỏ’ thì Nại cũng vừa lớn, nó mắc cỡ không chịu chăn
dê nữa. Mẹ tôi thấy nó siêng năng, hiền lành như búp măng bụ bẫm nên mẹ tôi đem
Nại về và nó trở thành vợ tôi hồi nào tôi cũng chẳng hay biết gì!
Vợ
chồng quê rất đơn giản, khỏi cần học những câu văn chương lãng mạn để trao cho
nhau làm gì cho mất thì giờ.
Tôi
cũng không nhớ rõ, cái đêm động phòng hoa chúc ấy … ra làm sao..Tôi đã nói với
Nại những gì… âu yếm Nại như thế nào..nhưng sáng ra, tôi thấy Nại nằm trọn
trong vòng tay tôi. Tôi biết ngay, bây giờ tôi đã có vợ. Gần một năm sau, Nại
cho tôi hai đứa con trai sinh đôi rất khoẻ mạnh. Một năm sau, Nại lại sinh đôi
nữa. Đứa con gái chăn dê, nay là người mẹ 4 con. Hồi đó, ‘quân áo đen’ không được
hưởng phụ cấp gia đình như anh em Chủ Lực Quân và Địa Phương Quân. Bản thân
tôi, chỉ được lãnh lương 1.200 đồng mà phải nuôi sáu miệng ăn. Khi tôi đi tù, Nại
một mình nuôi cha mẹ già tôi và bốn đứa con thật vất vả.
Suốt
thời gian tôi bị tù, Nại thăm nuôi tôi được 3 lần: lần đầu khi tôi mới bước
chân vào trại Lam Sơn, lần thứ nhì tại trại A.30. Hồi đó, trại cho tôi được ngủ
đêm với Nại trong nhà ‘thăm nuôi” và Nại sinh thêm đứa thứ năm. Lần thứ ba, khi
được báo có người nhà thăm nuôi, tôi vội vàng ra cổng trại thì được biết một thảm
kịch đã xảy ra lôi thôi cho gia đình tôi. Chiếc xe chở vợ của các tù nhân đi
thăm nuôi chồng bị
lật và có hai người chết, trong đó có Nại. Xác Nại vì không có thân nhân nhận
nên địa phương nơi xảy ra tai nạn đã chôn xác Nại ven rừng.
Và
năm đứa con tôi đưọc một người quen biết sinh sống cùng địa phương của Nại cũng
đi thăm nuôi chồng, mang giùm mấy đứa nhỏ vào trại giao cho tôi.
Nại
chết để lại 5 đứa con với một ràng bánh tráng, một ít mắm ruốc kho…
Năm
đứa con, ngồi khóc vì không có mẹ, nên trại cho tôi dẫn chúng vào trại để ở tù
chung với tôi. Đời tôi bắt đầu rẽ một khúc quanh.
Nại
chết, để lại hai đứa 7 tuổi, hai đứa 6 tuổi và một đứa chưa đầy hai tuổi. Lúc đầu
sáu cha con tôi được anh em cùng tù giúp đỡ. Anh em bớt phần ăn ít ỏi của chính
mình, chia sớt cho tôi để nuôi năm đứa nhỏ. Sau đó trại thấy bất tiện nên cho
tôi một cái lều tranh cũng trong khuôn viên của trại tù và cấp ba tháng thực phẩm
đầu tiên để tôi tự túc nuôi con sau này.
Cảnh
gà trống nuôi con. Tình cảnh hụt hẫng. Thức ăn thiếu thốn. Cuộc đời dở khóc dở
cười.
Một
thời gian sau, nỗi sầu cũng đã lắng xuống nhiều, song hình ảnh của Nại vẫn còn
lắng đọng trong tâm trí tôi. Ngày ngày tôi cuốc đất trồng khoai, trồng mì. Ba đứa
con đầu cũng lẳng lặng theo sau tôi để phụ giúp công việc lắt nhắt. Còn lại một
đứa sáu tuổi ở nhà trông em hai tuổi.
Tối đến tôi bắt các con đi ngủ sớm. Tôi đã mất hẳn sự trầm tĩnh và muốn bỏ cuộc.
Ban đêm, năm đứa co rúm lại trong một cái mềm rách trùm kín đầu ở một xó lều
như muốn tránh những âm thanh dị kỳ, thét gào của gió mưa bên ngoài. Tuy làm lụng
rất vất vả nhưng hoa màu thu hoạch
cũng không đủ ăn. Thỉnh thoảng vào ban đêm, tôi dẫn con Thanh đi đào
mì và hái bắp trộm của trại về cho bầy con ăn thêm để tránh cái đói đang hành hạ
chúng.
Nào
ngờ một đêm, tôi giật mình thức giấc thì thấy vắng mặt con Thanh - đứa con gái
đầu lòng mà thỉnh thoảng tôi dắt nó đi hái trộm bắp.
Tôi
nhìn ra ngoài, bầu trời đen nnư mực. Mưa gió đang gào thét…
Tôi
nghi ngờ là con Thanh đang đi bẻ bắp trộm. Tôi vội vã lách mưa đi tìm Thanh.
Sau
một hồi tìm kiếm khắp các ruộng bắp, tôi cũng chẳng thấy nó ở đâu.
Trời
tối thui như mực. Mưa rơi xào xạc, át hẳn tiếng kêu của tôi:
“Thanh!
Thanh! Con ở đâu?” Nhưng tiếng kêu của tôi bị mưa gào, gió cuốn mất hút trong
không gian vô tận. Một chặp lâu sau, tôi nghĩ chắc giờ này con Thanh cũng đã về
nhà rồi nên tôi trở về. Quần áo xài xạc, nhưng con Thanh vẫn chưa về nhà.
Đánh
thức bốn đứa con, tôi gặng hỏi, mắng chửi cho một mẻ nhưng các con chỉ ngơ ngác
không biết chuyện gì đang xảy ra.
Tôi
bảo các con đi ngủ tiếp và một mình ngồi chờ con Thanh về.
Một
chặp lâu sau, tôi nghe tiếng súng bắn inh tai… Không biết chuyện gì đã xảy ra
thì khoảng nửa giờ sau, có tiếng la hét, hối hả của các ông cán bộ đang đứng giữa
nhà.
–
Đêm hôm khuya khoắt mà mày sai con đi bẻ trộm bắp… Anh em công an đi tuần tra,
tưởng nhầm con mày là tù trốn trại nên đã bắn chết nó rồi… Khẩn trương theo tụi
tao nhận xác nó về.
Điếng
cả người, ruột gan tôi rối bời. Rụng rời tay chân, tôi vội chạy theo họ. Đến
nơi, tôi thấy con Thanh nằm chết thê thảm bên vũng máu.
Quanh
bụng nó cột một sợi giây và nhét quanh mình chừng mười trái bắp và hai củ khoai
mì mà nó vừa mới nhổ. Trong môi miệng nó còn đang nhai mấy hột bắp non. Do đó,
tôi biết ban đêm vì đói, con Thanh ngủ không được nên lén tôi đi bẻ bắp về cho
các em nhai, không ngờ bị bắn chết thê thảm như vậy.
Sáng
hôm sau, tôi chôn Thanh mà lòng buồn rũ rượi. Tôi không còn một chỗ nào trong
tâm trí để căm thù. Ngôi mộ của Thanh nằm ngay trong mảnh đất do cha con tôi
khai phá. Ba ngày sau, tôi cúng mở cửa mả cho Thanh bằng hai trái bắp và hai củ
khoai mì đã đổi sinh mạng của nó.
Suốt
đời Thanh là một chuỗi ngày dài bất hạnh vì thiếu tình thương của cha, trong
đói nghèo cơ cực của mẹ, và chết trong đói khát của cảnh tù đày mà trẻ thơ mới
có bảy tuổi đã phải nằm tù, gỡ lịch từng ngày với cha. Thanh chỉ mong được ăn
no, mặc cho đủ ấm, nhưng hoàn cảnh xã hội đã hất hủi, không thương yêu nó.
Ngay
cả trước 1975, vợ con của anh em lính Chủ Lực Quân và Địa Phương Quân được lãnh
phụ cấp gia đình, nên vợ con lính ai ai cũng đủ cơm ăn, áo mặc. Còn vợ con của
‘quân áo đen’ thì đi chân đất, đầu trần, quần áo tả tơi không một cấp lãnh đạo
nào thèm quan tâm đến.
Hồi
đó, anh em Nghĩa Quân chúng tôi cũng thuộc Q.L.V.N.C.H mà! Sao lại phân biệt đối
xử với anh em chúng tôi như thế?!
Sau
1975, tôi cũng bị ghép vào ‘ngụy quân’, cũng bị tù, bị hành hạ như các anh em
khác. Sao các ông ‘đỉnh cao của nhân loại’ không biết phân biệt hành xử để
‘quân áo đen’ như tôi không bị dẫn con vào trại tù và bị chết thảm như vậy?!
Bảy
ngày sau, đúng vào ‘thất thứ nhất’, vào khoảng một giờ khuya, khi tôi đang ngồi
buồn và nghĩ đến hoàn cảnh của gia đình và cái chết thê thảm của con Thanh …
Mưa
đang rơi từng giọt như tiếng ai đang rên rỉ và sau đó tôi nghe tiếng khóc của
con Thanh. Tiếng khóc uất nghẹn, não nuột. Tôi mở cánh cửa sổ bằng liếp tre
nhìn ra ngoài. Mưa càng lúc càng to. Gió thổi ào ạt. Dưới gốc một thân cây chồi,
ngay chỗ chôn con Thanh, một vệt trắng hiện
lên…Tôi toát mồ hôi, tay chân lạnh ngắt. Tôi cố nhìn kỹ thì ra đó là hình dáng
của con Thanh.. Nó đang đứng trước mộ, khóc sướt mướt. Quanh lưng cũng đang buột
một sợi dây và treo tòn ten vài trái bắp như lúc tôi nhận xác nó về. Tôi mất
bình tĩnh và khóc nấc lên từng cơn. Có bàn
tay ai đó đang bám vào vai tôi. Con Nhàn, đứa con gái sanh đôi với con Thanh,
hai chị em giống như hai giọt nước. Con Nhàn đã đứng sau lưng tôi tự hồi nào.
Nó khóc ấm a ấm ức thật to tiếng. Tất cả các con tôi đều thức dậy đang ở chung
quanh tôi. Ngoài trời đang mưa. Con Thanh vẫn còn đứng đó, nó khóc ngậm ngùi.
Tôi hoảng hốt vừa nói với các con tôi :”Để cha ra bồng con Thanh vào nhà” tôi vừa
đẩy tấm liếp;
con
Nhàn cũng chạy theo.
Nhưng
khi ra đến mả thì hình dáng con Thanh không còn nữa. Tôi ngơ ngác không biết
chuyện gì đã xảy ra nhưng tôi vẫn còn bình tĩnh và biết ngay rằng con Thanh
đang bị chết oan, chết lạnh và chết đói trong nỗi oan ức mà linh hồn của nó
cũng chẳng có nơi nương tựa. Không biết nghĩ sao tôi vừa khóc vừa vái trước mộ
nó: “Ba đưa con vào nhà. Ba sẽ luộc
bắp cho con ăn.”
Sau
đó tôi bồng con Nhàn vào nhà như thể tôi đã bồng con Thanh.
Vào
nhà, tôi lấy một miếng gỗ nhỏ, tựa vào vách, rồi dùng bốn thanh tre, chôn dưới
đất làm bốn chân bàn để làm tạm bàn thờ cho con Thanh.
Trong
khi đó, con Nhàn nổi lửa luộc hai trái bắp đẹt làm thức ăn cúng cho con Thanh.
Tôi
thấy trên bàn không có nước, tôi bảo con Nhàn lấy ly rót nước cúng con Thanh.
Nhàn
đi qua đi lại trong cái nhà tranh như đang tìm kiếm vật gì? Sau đó nó lấy một
cái gáo dừa đưa lên hỏi tôi: “Ba ơi! Nhà không có ly, mình dùng cái chén này
rót nước cúng chị Thanh được không ba?”
Nước
mắt lưng tròng, tôi khẽ gật đầu.
Thế
cũng xong, cũng qua một tuần cúng vái. Các em của Thanh vừa lạy vừa khóc nức nở
với tất cả lòng yêu thương người chị.
Tôi
nhớ ra. Từ ngày vợ tôi đi thăm nuôi, xe bị lật chết. Nại chết tức tưởi để lại
năm đứa con cho tôi.. Kể từ ngày ấy đến giờ tôi cũng chưa có cơ hội lập một cái
bàn thờ cho Nại. Tôi vội tìm trong mớ giấy tờ có cái chứng minh nhân dân của Nại.
Tôi trang trọng vuốt hình vợ mình trong Chứng Minh Nhân Dân; rồi nhẹ nhàng đặt
hình của Nại lên miếng gỗ mỏng làm bàn thờ. Tôi thờ chung hai mẹ con Nại và
Thanh trên một manh gỗ mỏng của thời phồn vinh giả tạo còn sót lại.
Từ
hôm đó, Thanh cũng không về khóc nữa. Nó cũng biết an phận trong cảnh lưu đày của
một chế độ mà người bóc lột người… Thỉnh thoảng tôi vẫn có những đêm ác mộng:
“Nại bị chết kẹt dưới những đống hàng chồng chất, máu me lênh láng còn Thanh
thì đang nằm sóng soài trên một vũng máu mà miệng vẫn còn nhai ngấu nghiến chưa
nuốt xong mấy hạt bắp sống.
Duy
Xuyên
TROI OI LA TROI !!SAO DAN TOI KHO NHU THE NAY??
ReplyDeleteĐọc câu chuyện này chỉ biết khóc thôi!
ReplyDeleteNPN
Chị NPN ơi ! em đọc xong mà nước mắt tràn dâng!
ReplyDeleteHồng Thúy