Lâm Ngữ Đường (Lin
Yutang) sinh năm 1895 tại Trịnh Châu, tỉnh Phúc Kiến, Trung Quốc, mất năm 1976
tại Hồng Kông, thọ 81 tuổi.
Ông học rất giỏi, năm
16 tuổi được học bổng của Mỹ chuyên về tiếng Anh rồi vào Đại học Harvard và đậu
Tiến sĩ văn chương Anh.
Làm nghề viết báo, có tiền, ông sang Đức, học tiếng Đức, xin được học bổng vào học tại Đại học Leipzig và đậu Thạc sĩ triết học Đức. Dưới thời Trung Hoa Dân Quốc (1911- 1949), ông về nước, sống bằng nghề làm báo với sự cộng tác của Lỗ Tấn. Năm 1948, thấy Mao Trạch Đông thắng thế, Tưởng Giới Thạch phải chạy ra đảo Đài Loan, biết mình không thể sống với CS được, ông trở về Mỹ rồi lúc về già sang Hồng Kông, sống tại Hồng Kông mấy năm cho tới lúc mất vì con cháu ông có nhiều người cũng sống về nghề làm báo và điện ảnh ở đấy. “The Jade Goddess” là một trong những truyện ngắn rất nổi tiếng của ông.
********
Cuộc hành trình ngược
dòng sông Dương Tử tuy vất vả nhưng rồi cuối
cùng tôi cũng tìm đuợc
tới nhà vị quan hồi hưu gần thành Trường Thủy. Vị đại thần này là một nhà sưu
tầm đồ cổ nổi tiếng. Người ta kể rằng khi còn tại chức, ngài thường dùng quyền
lực để chiếm đoạt các tác phẩm có giá trị. Nếu ưng ý một tác phẩm nào đó, ngài
phải dùng mọi cách để có cho bằng được. Bởi vậy kho tàng của ngài gồm
nhiều thứ vô giá hiếm thấy trên đời.
Do người bạn có uy tín giới thiệu, lại kèm theo cả thư gửi gấm nữa nên tôi được chủ nhân vui lòng tiếp tại căn phòng sang trọng của dãy lâu đài phía tây. Trong khi đàm đạo, qua khung cửa sổ nhìn ra vườn, tôi loáng thoáng thấy có những nụ đào đang chúm chím đơm bông, và trong lồng kính hình dáng của một chiếc bình cổ màu huyết bò trông đẹp tuyệt hảo.
Tôi đề cập tới kho
tàng danh tiếng. Chủ nhân mỉm cười nhã nhặn:
- Hôm nay nó nằm trong
tay người này, 100 năm sau lại thuộc về tay
người khác, có ai làm
chủ được cả 1 kho tàng nghệ thuật quá 100 năm đâu. Thật ra, nếu đúng là một bảo
vật, mỗi tác phẩm phải có đời sống riêng của nó.
- Nghĩa là nó có sự
sống và có linh hồn?
- Đúng vậy. Bởi vì
người nghệ sĩ đã đổ vào đấy biết bao nhiêu công phu,
truyền cho nó sự sống,
giống như người mẹ đã truyền những giọt máu và hơi thở của mình cho cái bào
thai đang nằm trong bụng. Họ đem tâm hồn họ vào trong tác phẩm, bởi vậy nên tác
phẩm của họ sống và có linh hồn.
Ngài dừng lại một lát
rồi tiếp:
- Thư của người bạn giới thiệu ông là người thích cổ vật. Lát tôi sẽ cho ông coi pho tượng vị nữ thần bằng ngọc quý nhất của tôi.
Người hầu bưng nước
lên. Sau tuần trà, vị quan hồi hưu đứng dậy, dẫn tôi lên tầng cuối cùng của
ngôi đài cao chứa các báu vật.
Trong khi đi qua cầu thang lát đá hoa ở các tầng dưới, tôi thấy không biết bao nhiêu các bảo vật khác được giữ gìn, chăm sóc trong các tủ kính. Riêng pho tượng “có linh hồn và có đời sống” thì một mình nó chiếm một gian ở tầng trên cùng, trong một lồng kính gắn liền với chiếc bệ làm bằng cẩm thạch. Cả lồng kính lẫn chiếc bệ đều được bảo vệ kiên cố bằng các song sắt mạ kền sáng loáng. Tôi nghĩ, trộm đạo khó lên được tới đây, mà dù có vào được trong phòng thì cũng khó xoay sở.
- Đó, pho tượng nữ
thần của tôi đó, ông ngắm kỹ đi và nhớ nhìn vào đôi mắt.
Đó là một pho tượng nho nhỏ cao khoảng 55 phân, ở thế đứng, làm bằng loại ngọc gì trắng muốt ẩn các vân màu xanh nhạt theo từng nếp áo, mô tả một thiếu phụ cực kỳ xinh đẹp với gương mặt có vẻ bi thảm. Một cánh tay nàng hơi giơ lên, chới với đưa ra đằng trước như vẫy gọi, như đau đớn, như từ biệt; còn cái đầu và cánh tay kia thì ngả sang một bên, như sợ hãi, như trốn chạy. Đặc biệt, cặp mắt nàng ảm đạm dường như vương vấn một cái gì đó cực kỳ đau khổ, nuối tiếc. Tôi rùng mình. Hay đây là Phật bà Quán Thế âm Bồ tát giáng thế? Tôi vừa nghĩ như thế thì bỗng có cảm giác pho tượng mang sắc thái của sự cao quý tuyệt đỉnh, ánh mắt thiết tha chia sẻ những nỗi đau thương đối với nhân loại. Nhưng khi tôi nghĩ đó chỉ là một con người thật bằng xương bằng thịt, gánh chịu những nỗi đau khổ của trần gian thì tôi lại thấy đôi mắt dường như xót xa, sâu lắng. Lạ lùng, với một khối ngọc chỉ lớn hơn 5 tấc, người nghệ sĩ đã truyền vào đấy cả một linh hồn.
- Tôi đã phải đánh đổi
bao nhiêu ruộng đất phía tây cho chùa Kê Thanh (Tiếng gà gáy sáng) mới có được
pho tượng này đó ông!
- Tại sao chùa đó lại
có, thưa ngài?
- Nghe nói do một vị
nữ tu truyền lại từ nhiều đời trước.
- Lạ lùng, 1 pho
tượngngọc vô cùng giá trị lại nằm trong tay một vị nữ tu.
Thú thật với ngài,
tiểu sinh kể ra cũng có chút ít hiểu biết về các cổ vật, nhưng chưa từng thấy 1
pho tượng nào nghiêm túc như vậy.
- Ông dùng hai tiếng
nghiêm túc tôi rất hãnh diện. Từ khi có pho tượng, tính nết tôi thay đổi, không
còn tham lam vơ vét như trước. Nhiều khi tôi rất ân hận về những việc mình đã
làm. Còn riêng lý do tại sao vị nữ tu đó có pho tượng thì xin mời ông xuống
phòng khách sơi nước, tôi sẽ kể lại sự tích cho ông nghe.
Chúng tôi đi xuống bên dưới.
*******
Cách đây đã lâu, lâu lắm, hàng bao nhiêu năm không ai biết rõ, Mỹ Lan (Mei-Lan) là một vị tiểu cô nương cực kỳ xinh đẹp, con gái quan khâm sai đại thần họ Trương người phủ Khai Phong. Cơ ngơi riêng của ngài ở đó. Quan khâm sai lúc ấy giữ chức vụ Đại pháp quan, thay mặt nhà vua trông coi về hình pháp, pháp luật của tất cả các tỉnh phía Bắc, trong đó có phủ Khai Phong, quê hương của ngài.
Đại pháp quan là người
nghiêm khắc, khó tính về hình luật nhưng lại rất yêu cô con gái cưng và có lòng
bao dung, che chở đối với họ hàng. Một hôm, có một đứa cháu họ ở xa do mẹ dẫn
tới. Cậu ta tên Phố, tức Trương Phố (Chang Po) vì cùng họ Trương, vai anh của
Trương Mỹ Lan. Trương Phố 16 tuổi, hơn Mỹ Lan 2 tuổi, khỏe mạnh, nhanh nhẹn,
trông rất xinh trai. Vì nhà quá nghèo nên người mẹ đưa con tới nương nhờ gia
đình vị chú họ ở nơi kinh thành, mong học được một nghề nào đó, sau này có kế
sinh nhai.
Cùng tuổi thiếu niên, hai đứa trẻ làm quen với nhau dễ dàng. Trương Phố thường kể cho cô em họ khuê các nghe những chuyện nơi thôn dã, đối với cô là rất lạ nên cô rất thích.
Trương Phố là cháu nên phu nhân có lòng ưu ái, đặt cậu lên địa vị tiểu quản gia, phụ với vị quản gia đã lớn tuổi, trông nom kẻ ăn người ở trong nhà.
Lúc đầu, phu nhân rất tin ở cậu. Sau, bà thấy ngã lòng. Bởi vì với địa vị như vậy nhưng Trương Phố lại thường hay quên hoặc không để ý tới trách nhiệm. Cậu cũng chẳng biết la mắng các gia nhân phạm lỗi nữa. Cuối cùng, chán quá phu nhân bèn đổi cậu ra trông nom những người đang làm ngoài vườn cho xong chuyện. Ấy vậy mà Trương Phố lại có vẻ thích. Bản chất của cậu là một nghệ sĩ, giàu óc sáng tạo, có tâm hồn nhạy cảm. Suốt ngày cậu lang thang ngắm cây cỏ, hoa lá, lắng nghe tiếng chim hót véo von ở trên các ngọn cây cao hay thong thả dạo chơi trên những lối đi ngoắt ngoéo bên cạnh những dòng suối giả, những hòn non bộ hay các hồ nhân tạo.
Cậu tự vẽ tranh các
cảnh đó không người chỉ dẫn. Những lúc rảnh rỗi - mà luôn luôn là rảnh rỗi -
cậu vẽ chán, lấy đất sét nặn các con vật rất đẹp, giống y như thật. Thỉnh
thoảng cậu cũng làm những chiếc đèn lồng tuyệt đẹp, kiểu cách do cậu nghĩ ra,
khác với những kiểu đèn bán ở ngoài phố.
Đến năm Trương Phố 18, Mỹ Lan 16, chàng vẫn sống nhàn hạ chưa tỏ ra chú tâm về một nghề gì. Người chàng cao lớn, tính nết hòa nhã, ăn nói lại rất lễ độ nên mọi người trong dinh đều rất quý mến. Quan khâm sai tin rằng cậu có tài, còn riêng Mỹ Lan thì một tình cảm nào đó nẩy nở, quyến luyến không thể rời xa. Gặp chàng, nàng sung sướng pha chút e thẹn, song nếu vắng chàng nàng thấy bâng khuâng mặc dầu nàng hiểu Trương Phố là anh họ mình, giai cấp lại quá chênh lệch, không thể tiến tới hôn nhân.
Một hôm, Trương Phố
thưa với phu nhân rằng chàng đã xin được một chân học nghề thợ ngọc tại một cửa
tiệm danh tiếng, lớn nhất trong tỉnh. Chàng xin phép phu nhân cho chàng tới
học, cơm nước ăn tại tiệm, chỉ buổi tối mới về nhà ngủ, sáng lại đi, chàng rất
thích nghề thợ ngọc.
- Được lắm, rất tốt,
ta có lời mừng cho con.
Phu nhân tự nghĩ
Trương Phố xinh xắn, khéo tay mà Mỹ Lan lại con gái đã lớn, không nên để chúng
có dịp gặp gỡ nhau nhiều.
Mà đúng như vậy, Trương Phố mắc đi học việc, Mỹ Lan ở nhà suốt ngày rất buồn. Mỗi tối chàng về, thường là rất muộn, nàng mừng ra mặt. Cứ mỗi khi chàng về, nàng luôn luôn lấy cớ này cớ nọ xuống dãy nhà sau của các gia nhân, gặp chàng, hỏi han một vài câu chuyện.
Phu nhân thấy vậy một
hôm bèn gọi nàng vào trong phòng, nhỏ nhẹ giải thích:
- Mỹ Lan, con nên nhớ rằng con đã lớn. Mặc dầu anh Phố là anh họ thật nhưng hai đứa nên giữ gìn, không nên đứng gặp gỡ, chuyện trò với nhau nhiều kẻo kẻ ăn người ở hiểu lầm người ta dị nghị, không tốt.
- Thưa mẹ vâng ạ.
Buổi tối hôm ấy Mỹ Lan
không dám xuống nhà dưới nữa mà hẹn gặp người anh họ ở ngoài vườn. Trời dần về
khuya, 2 người ngồi với nhau trên chiếc ghế đá dưới ánh trăng sáng lung linh.
Nàng thong thả kể cho anh nghe những lời mẹ dạy rồi ngây thơ hỏi:
- Chúng ta là anh em
họ, tại sao mẹ lại cấm không cho gặp nhau, chuyện trò với nhau ?
Người con trai lộ vẻ
suy nghĩ:
- Đúng đấy em ạ, bởi vì
cả anh lẫn em đều đã lớn, không nên gặp gỡ.
Người con gái mở to
đôi mắt, nhìn chàng chăm chăm:
- Anh nói thế nghĩa là
sao, em không hiểu?
- Nghĩa là... nghĩa là
em càng ngày càng lớn càng xinh đẹp, càng có một cái gì đó quyến luyến, thu hút
anh. Anh muốn nói là... nghĩa là có một cái gì đó làm anh say mê em, thèm khát
em. Nói chung, một cái gì đó khiến anh sung sướng khi được gần em và thẫn thờ
đau khổ khi không gặp em.
- Thế bây giờ, đang
ngồi với em, anh có sung sướng hay không?
- Có, rất sung sướng,
hạnh phúc!
- Tại sao vậy?
Người thanh niên không
biết trả lời thế nào. Chàng choàng tay lên vai nàng, áp mặt vào mặt nàng:
- Tại vì... tại vì anh
hiểu rằng cả linh hồn lẫn tình cảm chúng ta đã thuộc về nhau, không thể tách
rời ra được nữa Mỹ Lan ạ.
Người con gái ngồi hơi
xích ra, gỡ nhẹ tay chàng:
- Nhưng mình là anh em
họ, không thể lấy nhau…
- Đừng nói như vậy,
đừng nghĩ như vậy.
- Bắt buộc cả hai
chúng ta đều phải hiểu như vậy.
Người con trai đâm
liều, chàng ôm ngang thân hình nàng, kéo nàng ngồi lại gần mình:
- Thôi kệ, muốn đến
đâu thì đến, anh chẳng cần hiểu làm gì cả. Chỉ biết rằng từ khi khai thiên lập
địa anh đã yêu em và em yêu anh. Trái tim chúng ta đã thuộc về nhau, linh hồn
chúng ta thuộc về nhau, mãi mãi, trọn đời....
Vưa nói chàng vừa áp
môi vào mặt nàng, vào cổ nàng rồi nâng mặt nàng lên, đắm đuối hôn trên môi
nàng. Người con gái bàng hoàng, sửng sốt. Nàng ú ớ cố gỡ nhưng một sức mạnh nào
đó lại làm cho nàng cũng níu lấy chàng, hé môi chờ đợi.
Khi đã thoát ra được,
nàng ù té chạy vào trong nhà, lên phòng mình, đóng ập cửa, chui vào trong mền,
trùm tới tận đầu kín mít như người bị bệnh. Ngoài vườn, ánh trăng vẫn sáng lung
linh.
Sự bộc phát của tình
yêu trong tuổi trẻ là một cái gì đó dữ dội. Nó ghê gớm, nó cuốn lút, nó xoáy
cuộn. Nhất là khi nó bị một trở ngại nào đó ngăn cấm, cản trở. Suốt đêm hôm ấy
Mỹ Lan nằm trong mền cứ trằn trọc suy nghĩ. Nàng nhớ tới lời dạy của mẹ nhưng
cũng sung sướng nhớ lại các cảm giác cuồng nhiệt khi hai làn môi áp vào nhau,
điên cuồng, khờ dại. Và, cũng từ đêm ấy, con người nàng dường như thay đổi hẳn.
Nàng tránh không dám gặp Trương mà Trương cũng tránh không gặp nàng.
Nhưng tình yêu càng cố
đè nén bao nhiêu lại càng bộc phát bấy nhiêu. Được 3 bữa, người con gái chịu
thua, nàng tìm xuống dãy nhà ngang gặp chàng và trở thành một con người khác:
con người của tình cảm, không phải của lý trí.
Theo phong tục Trung
Quốc thời cổ, cha mẹ có quyền gả con gái cho một nhà trai nào đó mà họ cho là
môn đăng hộ đối, không cần phải hỏi ý kiến người trong cuộc. Nhưng riêng đối
với quan khâm sai, phần vì chỉ có một mình Mỹ Lan là con gái duy nhất, ngài và
phu nhân rất cưng chiều; phần vì nàng nhất định từ chối, lấy cớ còn nhỏ nên
việc hôn nhân cứ rùi rắng, nay lần mai lữa nên ngày tháng cứ qua dần.
Về phần Trương Phố, chàng tiếp tục học nghề thợ ngọc. Như một nghệ sĩ có tài, chỉ 3 năm sau chàng đã thông thạo và đã bắt đầu nổi tiếng. Ông chủ tiệm ngọc rất quý trọng chàng. Chính ông cũng phải khâm phục về những món đồ do chàng làm ra, nó rất đặc biệt, vượt xa mọi người khác, không ai sánh bằng. Những bậc quyền quý dần dần biết tiếng, năng lui tới tiệm ông, họ mách bảo nhau đặt hàng thì phải đòi cho bằng được ông thợ Trương Phố làm. Trong số các khách quen có cả phu nhân quan khâm sai nữa. Một hôm, sắp tới kỳ khánh thọ Hoàng hậu trong triều, quan khâm sai có ý tìm một vật thật quý dâng lên Hoàng hậu. Ngài suy nghĩ kỹ và cho người lùng khắp mọi nơi, kiếm mua được một khối ngọc cực tốt. Với sự góp ý của phu nhân, ngài đích thân tới tiệm xem xét các món đồ do Trương Phố đã thực hiện. Ngài rất hài lòng và tin tưởng ở tài năng của chàng:
- Này con, đây là một dịp đặc biệt, ta hoàn toàn trông cậy vào con. Bảo vật đó sẽ được dâng lên Hoàng hậu. Quà mừng của quan khâm sai dâng vào triều không phải chuyện nhỏ. Nếu con làm tốt, được Hoàng hậu vừa ý, ngỏ lời khen, danh tiếng con sẽ lừng lẫy, tiền bạc sẽ đến với con không gì sánh nổi.
- Vâng ạ.
Quan khâm sai ra lệnh
cho gia nhân đem khối ngọc tới. Trương Phố xem xét rồi thưa rằng với khối ngọc
tốt như vậy, chàng có thể tạo một pho tượng Phật bà Quán thế âm Bồ tát khác hẳn
với các pho khác từ trước tới nay, chắc chắn Hoàng hậu sẽ hài lòng.
- Hay lắm, tượng đức
Nữ Bồ tát giàu lòng quảng đại sẽ rất hợp ý Hoàng hậu.
- Nhưng khi con làm,
xin thúc phụ tin tưởng ở con, đừng cho người khác đến quan sát, con làm không
nổi.
- Được, ta chấp nhận.
Ông chủ tiệm chuẩn bị
cho chàng một căn phòng riêng, cấm không cho ai được lui tới.
Trương Phố bắt đầu vào
việc. 3 tháng sau, chàng hoàn tất. Pho tượng có hình dáng theo quy ước nhưng
đẹp tuyệt trần với khuôn mặt và thân hình nhang nhác giống người chàng yêu quý.
Đặc biệt, hai chiếc khuyên đeo hai bên nhánh tai pho tượng có thể xoay tròn được, không có chỗ ráp nối. Điều này cực kỳ công phu, tỉ mỉ. Những đường nét thanh tú do Trương Phố sáng tạo buộc mọi người phải xuýt xoa khen ngợi. Riêng quan khâm sai thì rất sung sướng, ngài nghĩ đây là một tác phẩm không tiền khoáng hậu, ngay trong cung từ trước đến nay cũng không hề có. Ngài trả công cho tiệm rất hậu và thưởng Trương Phố một gói bạc thật lớn ngoài sức tưởng tượng của chàng.
- Đẹp lắm, Trương Phố!
Danh tiếng con sẽ lừng lẫy. Khi ấy con sẽ nghĩ rằng đây là dịp may ta đã đem
đến để con có dịp thi thố tài năng của mình. Nhưng... sao ta thấy dường như nét
mặt pho tượng hơi giống với con Mỹ Lan nhà ta?
Trương Phố trả lời một
cách hãnh diện :
- Thưa vâng, tại vì em
Mỹ Lan đẹp nên trông giống pho tượng.
Sau khi dâng lên Hoàng
hậu, món quà được Hoàng hậu hết lời khen ngợi và truyền cho quan khâm sai
chuyển phần thưởng của Hoàng hậu cho người thợ ngọc.
Danh tiếng Trương Phố
nổi như cồn.
Nhưng tiếng tăm, tiền
bạc đối với chàng thảy đều vô nghĩa. Cái mà chàng luôn luôn mơ ước không nằm
trong tầm tay. Chàng mất hứng thú làm việc.
Về phần Mỹ Lan, nàng bị mọi người thì thầm rằng đã 21 tuổi mà chưa chịu lập gia đình. Quan khâm sai và phu nhân quyết định nhận lời một chỗ sang trọng, thế lực không kém gia đình ngài. Mỹ Lan không viện cớ gì trì hoãn được nữa, lễ vấn danh cử hành trọng thể, sau đó sẽ tới lễ cưới.
Quá thất vọng, người
con gái bàn với người con trai:
- Chúng ta phải trốn
đi thật xa anh ạ. Trốn tới nơi nào không ai biết được gốc gác của mình. Anh sẽ
làm nghề thợ ngọc còn em thì cũng có một số nữ trang, chúng ta không thể đói được.
- Anh cũng nghĩ thế.
Nếu trốn ta phải trốn trước, đừng để nước đến chân rồi mới nhảy e sẽ không kịp.
Họ chuẩn bị, hẹn nhau
nửa đêm hôm sau sẽ gặp gỡ tại khu vườn phía sau, leo qua bức tường để trốn.
Không may cho họ, một
người đầy tớ già vẫn giữ nhiệm vụ canh gác ban đêm trông thấy. Ông ta rất kính
trọng Mỹ Lan và quý mến Trương Phố nhưng có bổn phận phải bảo vệ danh dự gia
đình nhà chủ, bèn giữ lại:
- Thưa tiểu thư, xin
tiểu thư vui lòng để tôi vào bẩm với phu nhân đã. Nếu phu nhân cho phép, bấy
giờ tôi sẽ mở cổng mời tiểu thư đi.
- Không, ta cần đi
gấp, không thể xin phép mẹ ta!
- Tôi là kẻ ăn người
làm, phải giữ thanh danh cho nhà chủ.
- Hãy để ta đi, ta
chính là chủ của ngươi.
- Vâng, tiểu thư là chủ nhưng tôi phải mời tiểu thư cùng vào để tôi bẩm với phu nhân đã.
Hai bên giằng co nhưng không dám lớn tiếng vì sợ làm kinh động mọi người trong dinh. Trương Phố cùng đường, đành đánh liều ôm chặt lấy ông già, một tay bịt miệng ông ta với ý định ngăn cản để Mỹ Lan leo lên tường trước, nàng thoát thân xong chàng sẽ leo sau. Không ngờ ông già cũng là người khỏe, gỡ tay chàng ra được, bèn quay lưng định chạy để khua mõ báo động. Trương Phố bắt buộc phải chạy theo, nắm lấy ông ta không cho tri hô. Bất ngờ, ông già mất đà, ngã đâm sấp xuống đất đập đầu phải một cục đá lớn. Một tiếng hự vang lên, thân hình ông ngã vật, chân tay dãy dụa rồi nằm im bất động.
Trương Phố hoảng hốt
ngồi xuống xem xét vết thương. Một dòng máu nhỏ rỉ ra dưới chân những sợi tóc
bạc. Ông ta ngã trúng chỗ phạm, đã chết.
Mặt Mỹ Lan tái ngắt:
- Làm thế nào bây giờ
hả anh?
Trương Phố cũng run
lập cập:
- Anh cũng không biết.
Phải trốn đi ngay lập tức kẻo rất nguy hiểm.
- Nhưng... để xác già
Tài thế này hay sao?
- Cũng đành phải vậy.
Trốn mau thôi kẻo người khác biết thì chết...
Người con gái vừa gạt
nước mắt vừa run rẩy nhặt chiếc túi xách rớt trên mặt đất. Trương Phố đỡ nàng
lên đầu tường rồi chàng leo sau. Thoát sang được phía bên kia, họ bèn vội vàng
trốn đi.
Gần trưa hôm saungười
ta mới phát hiện ra xác chết của ông già giữ vườn, bèn tri hô lên và vào bẩm
với ông bà chủ. Đến khi coi lại, cả Trương Phố lẫn Mỹ Lan đều đã biến mất.
Quan khâm sai đau đớn
ra lệnh cho người quản gia:
- Cần giấu kín việc này trước đã. Còn hai đứa khốn nạn làm bại hoại gia phong...
Ngài giận tái mặt, ánh
mắt gần như toé lửa:
- Ta sẽ ra lệnh đào bới khắp mặt đất, phải bắt bằng được cả hai đứa đó đem về chặt đầu.
*******
Về phần đôi thanh niên
nam nữ, sau khi đã trốn ra khỏi Khai Phong họ cải trang thành hai người lái
buôn nghèo khổ rồi cứ đi, đi mãi, tránh những nơi đông dân cư. Họ tránh cả các
bến sông lớn vì sợ bị đón bắt. Cuối cùng, đi không biết đã bao nhiêu đường đất,
họ tới bờ sông Dương Tử, con sông ranh giới giữa miền Bắc và miền Nam. Đến đây
coi như đã thoát, họ mừng rỡ nhưng vẫn thận trọng thuê thuyền ở một bến vắng,
qua sông rồi lại đi nữa, hơi chếch sang phía tây. Mấy tháng sau, thấy đã xa
lắm, Trương Phố bàn với vợ:
- Nghe nói ở Giang Tây
có nhiều ngọc tốt. Hay hai vợ chồng mình đến đó?
- Trời đất ơi, chàng
chưa sợ hay sao mà còn nói tới ngọc? Không, phải đi xa nữa và đừng nghĩ tới
chuyện đó.
- Nhưng mình đã bàn với nhau, em có nữ trang, anh làm nghề ngọc để sống.
- Đấy là trong trường hợp mình trốn đi bình thường. Đằng này già Tài đã chết, mọi người đều tin chắc mình giết ông ta, việc truy lùng càng nghiêm ngặt hơn. Em nghĩ mình phải đi thật xa xuống miền Nam, tới một nơi nào đó hẻo lánh, anh sẽ làm các thứ tầm thường như đèn lồng hay nặn các con vật bằng đất sét để bán thì không ai nhận ra được.
- Sao, anh mà làm đèn
lồng và nặn các con vật đất sét?
- Đúng thế, em rất lo sợ. Chúng ta mang án sát nhân không thể chối cãi vào đâu được. Anh cần nghĩ tới mạng sống của cả hai vợ chồng.
- Em hơi lo xa quá đấy. Giang Tây cách miền Bắc tới hàng ngàn dặm, họ nói tiếng Nam, chẳng ai để ý tới hai vợ chồng một tên thợ ngọc nghèo nàn. Mà họ cũng không biết mình là người Bắc...
Mỹ Lan tnấy hợp lý,
nàng đấu dịu:
- Thôi được, anh làm nghề ngọc cũng được nhưng ta cần đi xa hơn nữa, và khi làm thì anh phải hạ thấp mức độ, đừng tạc những tượng đắt giá kẻo người ta biết.
Họ không dám sống ở
Nam Xương, thủ phủ của tỉnh Giang Tây mà xuống Kế An, một thị trấn nhỏ nằm hơi
xích về phía biển, gần giáp với tỉnh Giang Tô.
Ở Giang Tây có một
loại đất sứ (porcelain) và loại đất sét trắng (white kaolin) nổi tiếng. Kế An
tuy hẻo lánh nhưng vẫn thuộc địa phận tỉnh Giang Tây, có thể mua được hai thứ
đó một cách dễ dàng.
Người vợ nhắc nhở
chồng:
- Anh nên đổi sang làm đồ sứ. Cần lắm thì nặn những tượng bằng đất sét trắng, bảo đảm hơn nhiều.
- Đã lo tnì ngay cả
làm đồ sứ hoặc đất sét trắng họ vẫn nhận ra anh. Anh đã nói đến đây là xa lắm
rồi, chẳng ai biết hai đứa chúng mình. Anh sẽ giấu kín tên tuổi.
Với vốn liếng của vợ
và số tiền mình đã để dành được khi còn làm trong tiệm ở phủ Khai Phong, Trương
Phố mua một căn nhà nhỏ ở ngoài ngoại ô, sau đó mua một số đá ngọc để mở một
cửa tiệm nho nhỏ, vừa làm vừa trưng bày để bán.
Hàng ngày Mỹ Lan áy
náy không yên tâm vẫn thường quan sát các phẩm vật do chồng làm ra, và nàng cằn
nhằn:
- Khổ, anh lại cứ qnen
tay làm đẹp thế này là hết sức nguy hiểm. Phải làm kém đi mới được.
Trương Phố nghe lời vợ, bèn làm những vật thông thường như vòng cẩm thạch, các xâu chuỗi và nhẫn các loại. Nhưng ngọc là thứ đá quý thường ở dạng khối, phải dựa theo kích thước để tạc các vật lớn trước, sau đó mới sử dụng mảnh vụn vào việc làm các đồ vật lặt vặt. Mà, muốn tạc vật lớn tức là đã bước vào địa hạt nghệ thuật, phải có năng khiếu và sự sáng tạo, không thể làm kém đi được. Mỗi nghệ sĩ có khả năng riêng của mình, người không có tài muốn có tài khó khăn thế nào thì người có tài muốn hạ thấp cái tài đó xuống cũng khó khăn như thế. Trương Phố đã lén vợ làm những con khỉ ăn cắp trái đào hoặc bẻ trộm ngô với nét mặt ranh mãnh, dễ thương hoặc làm những con chó ngồi ngủ gật nhắm mắt để đấy, những con mèo conthè lưỡi nnớ mẹ. Lúc đầu Mỹ Lan có vẻ không bằng lòng, rầy la luôn miệng. Sau, hàng bán chạy quá nàng cũng lờ đi coi như không biết.
- Ôi, anh yêu, anh lại bắt đầu nổi tiếng rồi đấy, em rất lo ngại. Tụi mình sắp có tin mừng, anh nên thận trọng.
Tin mừng? A, một đứa
con!
Trương Phố chợt hiểu
và chàng sung sướng reo lên, ôm chầm lấy vợ giống như một đêm nào đó dưới ánh
trăng sáng lung linh:
- Ô, 1 chú bé xinh xắn! Bây giờ thì mình sắp có thêm 1 nhân khẩu nữa, không còn cu ky 2 đứa như trước.
- Và tụi mình cũng ăn
nên làm ra nữa, hàng bán được quá!
Đúng là họ ăn nên làm ra thật. Chỉ mới hơn 1 năm kể từ ngày tiệm Bảo Hồ được thành lập, danh tiếng các đồ ngọc của tiệm Bảo Hồ đã nhiều người biết. Khách hàng từ những nơi lân cận đến mua buôn phải tranh nhau đặt tiền trước vì ông chủ tiệm làm không kịp. Rồi các khách du lịch từ Nam Kinh xuống hay Giang Tô lên, đi qua Kế An thế nào cũng phải dừng lại, ghé tiệm Bảo Hồ mua một vài vật làm kỷ niệm.
Chẳng bao lâu Kế An
trở thành một thị trấn nổi tiếng với ngọc Bảo Hồ, ai cũng muốn tới. May mắn hơn
nữa, ít lâu sau Mỹ Lan sinh được một đứa con trai xinh xắn. Vợ chồng nàng trở
tnành khá giả, đã có bát ăn bát để.
Một hôm, 1 người đàn ông bước vào trong tiệm sau khi đã quan sát các đồ ngọc bầy trong tủ kính bên ngoài:
- Ông có phải là ông Trương Phố, bà con với quan khâm sai họ Trương ở phủ Khai Phong miền Bắc không?
Trương Phố giật mình
ngửng lên, lắc đầu:
- Không, tôi không
phải người phủ Khai Phong.
- Nếu vậy tại sao ông
nói tiếng Bắc?
- Chẳng lẽ cứ người Khai Phong mới nói tiếng Bắc? Còn thiếu gì nơi khác nữa.
- Ông đã có vợ con
chưa?
Trương Phố rất run
nhưng vờ nổi giận:
- Có hay không là việc
của tôi, không liên quan gì tới ông, tại sao ông lục vấn?
Người đàn ông xin lỗi
rồi rút lui.
Lúc ấy Mỹ Lan đang ở
trong nhà trong, nghe cách nói chuyện hơi lạ bèn bế con nhìn qua khe cửa. Lúc
người đàn ông đã đi khỏi, nàng lo lắng bảo chồng đó là tay lục sự làm trong tòa
án dưới quyền cha nàng.
- Em lo lắm, chỉ sợ
những đồ bằng ngọc đã làm lộ chân tướng hai đứa mình.
- Đừng sợ, rồi anh sẽ
liệu. Bất quá ta lại chạy trốn lần nữa là cùng chứ gì!
Hôm sau, người đàn ông
trở lại. Trương Phố làm bộ tức giận:
- Tôi đã nói tôi không biết Trương Phố nào đó của ông, tại sao ông cứ quấy rầy tôi mãi?
- Được lắm, nếu ông không biết để tôi kể cho ông nghe. Trương Phố là một tên sát nhân đang bị truy lùng. Y là cháu gọi quan khâm sai bằng chú họ, được ngài nuôi trong nhà, giúp đỡ mọi mặt. Nhưng y phụ ơn, quyến rũ vị tiểu thư con gái của ngài, trốn đi với nhiều nữ trang đắt giá. Người làm vườn biết, giữ y lại, y giết ông ta.
Tội của y đáng chém
đầu nhưng quan khâm sai thầy tôi ra lệnh bắt sống nên tôi chưa tiện ra tay. Tôi
đã xem kỹ các đồ ngọc của ông, ngoài Trương Phố ra không ai làm nổi.
- Thiên hạ không có người này thì có người khác, đâu phải chỉ một mình Trương Phố của ông mới là người giỏi? Chán vạn người khác còn giỏi hơn nhiều.
- Hay lắm, nếu vậy xin ông cảm phiền nhờ phu nhân đem ra cho tôi một tách nước. Tôi biết mặt tiểu thư con gái quan khâm sai. Nếu không đúng bấy giờ tôi sẽ chịu lỗi với ông và xin đi ngay lập tức.
Y đề nghị rất hợp lý,
Trương Phố không viện lý do nào khác từ chối được nữa nên bèn nói dối:
- Nhà tôi mắc dẫn mấy đứa nhỏ sang bên quê ngoại ăn giỗ. Cỡ 3 hôm nữa nàng về xin mời ông tới.
- Được, tôi sẽ đợi.
Người đàn ông đi khỏi,
vợ chồng Trương Phố bàn tính với nhau, vội vàng thuê một con thuyền, thu xếp
các vật dụng, ngay đêm hôm ấy bỏ nhà, xuống thuyền chạy trốn xuôi theo dòng
sông.
Không hiểu do người hay do lòng trời bày ra cớ sự, sau hơn một tháng trốn chạy, bồng bềnh trên sông nước, tới Cẩm Sơn thì thằng bé bị bệnh, phải kêu nhà thuyền dừng lại bốc thuốc.
Tiền cạn, Trương Phố
đem đi bán một trong những bảo vật chàng đã làm: một con chó con bằng ngọc ngồi
ngủ gật, một mắt nhắm, một mắt mở, một tai cúp, một tai vảnh trông rất tức
cười.
Người mua là ông Vạn,
một lái buôn ngọc rất tử tế và thạo nghề:
- Chà, ngọc Bảo Hồ ở
Kế An bên Giang Tây đây mà. Theo tôi biết, chỉ có tiệm Bảo Hồ ở Kế An mới làm
được những thứ này. Tôi đang muốn mua nhưng nghe nói họ đã đóng cửa. Làm sao
ông lại có được mà đem bán?
Trương Phố trả lời một
cách hãnh diện:
- Ông tinh lắm. Đúng là ngọc Bảo Hồ thật. Trước đây tôi có người bạn đi Kế An bèn nhờ anh ta mua gùm, bây giờ cần tiền đem bán.
*******
Cẩm Sơn hay còn gọi là
Cam Tuyền (Kanshien) là một thị trấn khá sầm uất, phong cảnh một bên có sông,
một bên có núi rất đẹp.
Lúc ấy đã là mùa đông,
đứa trẻ đã bình phục, Trương Phố không biết đi đâu bèn bàn với vợ ở lại nơi
này, thuê một ngôi nhà thật xa và chàng đem bán một số đồ ngọc.
- Ủa, nhà còn tiền,
chàng bán ngọc làm gì?
- Chúng ta lại mở một
cửa hàng như ở Kế An.
- Mở tiệm đồ sứ, đồ
đất sét trắng hay đồ ngọc?
- Đồ ngọc.
- Trời đất ơi, chàng vẫn còn nghĩ đến ngọc. Lần trước em đã khuyên can chàng không nghe lời, suýt bị nguy hiểm. Đã thoát đuợc rồi thì phải giữ gìn, đừng nghĩ tới ngọc nữa.
Rồi nàng nói thêm:
- Chẳng lẽ đối với
chàng ngọc còn giá trị hơn cả tính mạng em và con? Hãy cứ từ từ, chờ cha bớt
giận bấy giờ chàng trở lại nghề ngọc, em không dám giữ.
Trương Phố thấy vợ nói
có lý nên bèn nghe lời. Chàng sắm các dụng cụ, lập lò nung rồi mua một số đất
sứ đất sét loại tốt, đem về nặn hàng trăm tượng Phật và các thứ khác, phơi đây
trong sân, chờ đưa vào lò. Nhưng những lúc rảnh, gặp các lái buôn buôn ngọc; trên
con đường chạy dài từ các dãy núi lớn thuộc địa phận tỉnh Giang Tây, băng
ngang tỉnh Quảng Đông, xuyên qua Kế An, Cẩm Sơn rồi tới các đồng bằng phì nhiêu
ở phía đông nam, chàng rất thèm khát được sờ tay vào thứ đá quý đó.
Một lần, lang thang
vào trong thành phố, dán mắt trước các tủ kính sang trọng người ta bầy bán
những vật bằng ngọc tầm thường, Trương Phố thấy xót xa đau đớn.
Về nhà, ngó mấy đám
tượng đất sét chưa nung ướt rình trông mới đáng chán làm sao! Chàng giận dữ
vung tay đập bẹp mấy pho tượng, nghiến răng, hằn học:
- Đồ đất bùn! Tại sao ta phải nặn mi trong khi ta đã từng tạc được tượng ngọc trong cung đình? Ta, Trương Phố, ta muốn tạo nên những tác phẩm để đời, không cần đến tính mạng của ta nữa.
Biết chồng đã phát
điên, Mỹ Lan ứa nước mắt khe khẽ lắc đầu:
- Chàng yêu nghề ngọc
hơn chính bản thân mình, rồi những thứ đó sẽ giết cả hai chúng ta. Em biết
nhưng không làm thế nào được.
Một hôm, người lái
buôn tên Vạn hỏi thăm, tìm được nhà của Trương Phố, bèn mời chàng ra quán uống
rượu với mục đích nhờ chàng xem giúp một vài món ngọc.
- Ông coi này, tôi mới
đi Kế An về…
Ông ta vừa nói vừa mở
một chiếc hộp gói ghém cẩn thận:
- Đúng là tiệm Bảo Hồ
đã đóng cửa thật nhưng tôi mua được những thứ này ở một tiệm khác, họ cam đoan
là ngọc Bảo Hồ. Nhờ ông coi giùm...
Mấy thứ đó quá vặt
vãnh, Trương Phố làm bộ không biết gì về ngọc. Nhưng khi ông ta đưa ra con khỉ
màu hồng ăn cắp trái đào thì chàng nổi giận thực sự:
- Hừ, đồ giả mạo!
- Vâng, có lẽ họ giả mạo thật. Tôi cũng hơi nghi vì thấy nó không tinh tế, không có hồn nhưng không có cách chi kiểm chứng được. Có lẽ ông rất rành về ngọc?
- Vâng, tôi biết chút
ít.
- Tôi quên chưa nói
với ông, hồi nọ ông để cho con chó, tôi bán giá gấp đôi mà họ vẫn tranh nhau
mua. Nếu đem lên Nam Kinh chắc lại càng lời hơn nữa.
Ông còn thứ nào đúng
ngọc Bảo Hồ xin để cho tôi. Bất cứ giá nào tôi cũng mua.
Đầu óc Trương Phố đang
bận rộn với con khỉ bị giả mạo nên không để ý đến lời ông Vạn nói. Chàng hậm
hực:
- Tôi sẽ cho ông thấy một con khỉ thứ thiệt của tiệm Bảo Hồ thì phải như thế nào!
Chàng dẫn ông Vạn về
nhà và đưa cho coi con khỉ bằng hồng ngọc ăn cắp trái đào do chính chàng làm
hồi trước. Ông ta năn nỉ đòi mua bằng được. Chàng nể lời bèn bán.
Đem con khỉ lên Nam
Xương, ông Vạn hí hửng khoe với các bạn cùng cánh nhà buôn. Họ rất ngạc nhiên:
- Lạ nhỉ, một chủ lò
gốm tại sao lại có ngọc Bảo Hồ?
- Có lẽ ông ta còn
nhiều, tôi đã mua được hai con.
Từ đấy tiếng đồn lan
rộng trong cánh lái buôn vì họ đều rất thèm khát loại ngọc Bảo Hồ nay không còn
nữa. Họ luôn luôn lui tới, bàn tán với nhau.
6 tháng sau, người lục
sự đi với 3 người lính, tìm tới tận nhà bắt Trương Phố và Trương Mỹ Lan.
- Được, tôi sẵn sàng đi với các ông về Khai Phong chịu tội. Nhưng đường sá xa xôi, các ông cho phép tôi thu xếp các món đồ quý.
- Còn tôi thì cũng
phải đem theo đồ dùng cho con tôi. Mấy người nên nhớ dù sao nó cũng là cháu
ngoại quan khâm sai. Nếu mấy người bức bách, tôi không đem đủ, nó đau ốm dọc
đường mấy người chịu trách nhiệm.
Viên lục sự đã được
quan khâm sai ra lệnh đối xử tử tế nên cũng e dè không dám hối thúc. Còn mấy
người lính, thấy “ông thầy” của mình như vậy họ chỉ canh gác sơ sơ ở phía bên
ngoài, mọi việc đã có ông thầy quyết định. Vợ chồng Trương Phố thu xếp ở nhà
trong. Chuẩn bị đâu đấy xong xuôi, người vợ cột chiếc ruột tượng đựng các bảo
vật vắt chéo trên ngực chồng rồi mở chiếc cửa sổ phía vườn sau, khẽ hất hàm ra
hiệu. Trương leo lên, phóng mình qua cửa. Nàng dặn:
- Nhớ đừng bao giờ
đụng tới ngọc nữa!
Chàng khẽ gật đầu. Khi
chân đã chạm xuống đất, khu vườn có nhiều lối đi ngoắt ngoéo ăn thông với các
ngõ xóm, chàng biết đã thoát thân nên bèn ngoái đầu nhìn lại, có ý từ biệt vợ
và đứa con thân yêu suốt đời khó mong gặp nhau. Mỹ Lan đau đớn, thân hình dường
như chới với, một tay hơi giơ lên cao, đưa ra đằng trước, đầu và cánh tay ngả
sang một bên, như kiệt quệ, như níu kéo, như vĩnh biệt, như xót xa cho thân
phận trăm năm cay đắng.
Thấy họ thu dọn quá lâu, người lục sự nóng ruột đi vào thúc giục thì thấy Trương Phố không còn đấy nữa, chàng đã trốn mất.
*****
Mỹ Lan và đứa con nhỏ được đưa về Khai Phong. Mẹ nàng đã qua đời từ lâu, cha nàng nay đã quá già nhưng vẫn oai vệ. Khi nàng lạy chào, ngài im lặng, nét mặt buồn bã, trên môi không một nụ cười. Người nữ tì bế đứa trẻ đến bên cạnh, nàng cầm tay con giúp nó phủ phục làm lễ tương kiến ông ngoại, quan khâm sai tuy vẫn ngồi yên trên ghế nhưng nét mặt hơi có tươi lên được một chút. Đứa bé xinh quá, giống cha và mẹ như đúc. Ngài hơi nhúc nhích, chìa một ngón tay ra cho nó nắm lấy tay ông ngoại. Người lục sự cúi rạp đầu xuống đất nhận tội, trình bày lại việc đã để cho tên tội phạm trốn thoát. Ánh mắt ngài lộ vẻ đăm chiêu, dường như lưỡng lự:
- Thôi được, chuyện đó
tính sau. Có lẽ ta chẳng bao giờ tha thứ cho nó, tiếp tục ra lệnh tìm nó đem về
đây chém đầu. Hãy thông báo là ta treo giải thưởng cho người nào hoàn thành
công việc.
Đoạn, ngài lẩm bẩm như
muốn xác định lại một lần nữa:
- Cái thằng vô ơn bạc nghĩa, phá hoại gia cang nhà ta, lại còn phạm tội giết người. Ta tiếp tục ra lệnh truy nã, không thể tha thứ cho nó.
Người đàn ông lại cúi
rạp đầu tuân lệnh.
Thời gian dần dần trôi qua, vẫn không có tin tức gì về Trương Phố. Một hôm, có quan tổng đốc họ Dương cai trị vùng Quảng Đông và đoàn tùy tùng trên đường tiến kinh, ghé phủ Khai Phong thăm bạn. Quan khâm sai rất mừng bèn ra lệnh làm một tiệc lớn thết đãi. Trong khi ăn uống, quan tổng đốc tiết lộ rằng tiến kinh lần này ngài có đem theo một pho tượng ngọc quý giá làm quà dâng lên Hoàng hậu, vì ý bề trên muốn có một pho tượng nữa cùng kích thước với pho tượng quan khâm sai đã dâng ngày nào cho đủ cặp. Tuy nhiên, theo ngài nghĩ, kích thước tuy giống nhau nhưng có lẽ pho của ngài đẹp hơn. Tất cả mọi người trên tiệc đều rất ngạc nhiên. Họ cho rằng pho tượng của quan khâm sai ngày trước là đẹp nhất rồi, không thể có pho nào đẹp hơn được nữa. Vị quan cai trị vùng Quảng Đông vuốt râu mỉm cười hãnh diện:
- Được, nếu quý bằng hữu không tin, lát tôi sẽ cho đặt ngay lên bàn này để quý vị nhận xét.
Sau bữa tiệc, nữ tì
dâng trà. Quan tổng đốc giữ lời hứa bèn bảo dẹp qua một bên rồi cho người hầu
bưng vào một chiếc hộp lớn bằng gỗ quý, các góc cẩn ngọc.
Đích thân ngài tự tay
mở hộp và đặt lên bàn:
- Đây, pho tượng Nữ thần Từ bi (The Goddess of Mercy) của tôi đây, quý vị xem đi!
Mọi người trợn tròn
mắt kinh ngạc. Ngay cả đứa nữ tì đang bưng khay trà cũng sửng sốt. Nó liếc mắt
ngó trộm pho tượng rồi bí mật vào trong nhà báo với tiểu thư Mỹ Lan. Qua bức
rèm mở hé, nàng đang dán mắt nhìn thật kỹ những đường nét tuyệt hảo, mặt tái mét,
miệng lẩm bẩm nói như trong mơ:
- Đúng, chính là chàng
!...
- Vị nghệ sĩ nào mà
khủng khiếp đến thế, thưa quan huynh?
Quan tổng đốc cười
kiêu hãnh, tay vuốt râu, cố tình chậm dãi để mọi người phải sốt ruột :
- Khoan đã, chuyện này
hơi lạ, từ từ rồi tôi kể hầu quý vị.
Ngài chiêu một miếng
nước, sau đó mới hắng giọng cho thêm phần long trọng:
- Người nghệ sĩ ấy
không phải là tay tầm thường. Chỉ hiềm một nỗi tôi không biết tên chàng nên
không thể mách với quý bạn được !...
Rồi ngài bắt đầu kể:
- Tôi gặp chàng trong một trờng hợp đặc biệt. Đứa cháu gái phu nhân nhà tôi đi dự lễ cưới. Nó mượn của phu nhân nhà tôi một cặp vòng ngọc gia truyền, phu nhân tôi rất quý, ít dám dùng đến. Cặp vòng này hoàn toàn giống nhau, trên mặt khắc hình tứ linh theo kiểu cách riêng khó ai làm nổi. Chẳng may con bé lỡ tay làm vỡ mất một chiếc. Nó sợ lắm, khóc lóc rồi cho gia nhân đi khắp nơi tìm các thợ giỏi để làm chiếc khác vì nó biết cô mẫu rất tiếc. Nhưng ai xem xong cũng nói thật rằng họ làm không nổi. Cuối cùng, vị quản gia bèn bày kế rằng chỉ còn một cách duy nhất là dán yết thị ở nơi đông người như các tiệm trà hay các ngã tư chẳng hạn, treo tiền thưởng thật lớn may ra kiếm được người giỏi. Con bé nghe theo. Ít lâu sau, một người nghệ sĩ tự động tìm tới. Ông ta còn trẻ, ăn mặc tầm thường gần như nghèo khổ khiến con bé hơi thất vọng. Nó nghĩ một người có tài thì phải giàu hoặc ít nhất cũng có đời sống tương đối dễ chịu. Xem xong, ông ta hỏi:
- Tiểu thư muốn làm
một chiếc giống như thế này haylàm 2 chiếc đẹp hơn?
Nó ngạc nhiên hỏi lại:
- Liệu tiên sinh có
thể làm đúng như thế được không? Tiểu nữ sẽ thưởng thật lớn còn tiền công thì
tiên sinh muốn tính bao nhiêu cũng được.
Ông ta bật cười:
- Đối với tôi việc đó
chẳng có gì khó. Tôi đã từng tạc được cả các pho tượng ngọc trong cung đình.
Nếu tôi làm xong, tiểu thư phân biệt nổi 2 chiếc với nhau hoặc có điều chi
không vừa ý, chỉ chê một tiếng tôi sẽ không dám lấy công và sẽ bồi thường tiền
ngọc đã dùng.
Quả nhiên, sau khi làm xong, 2 chiếc vòng giống nhau y hệt, con bé rất mừng. Lúc nó đem trả, chính phu nhân nhà tôi cũng không phân biệt được chiếc nào cũ, chiếc nào mới. Nghe nó nói chuyện, tôi ngạc nhiên lắm, cầm lên coi thì cũng không phân biệt nổi. Tôi trách nó tại sao không hỏi kỹ danh tánh của vị tiên sinh đó, nó nói nó có hỏi nhưng ông ta chỉ trả lời:
- Tôi là kẻ không nhà
không cửa, có chút chuyện riêng không được quyền nêu danh tánh. Khi nào cần,
tiểu thư cứ cho người tới tiệm trà quen ở gần chợ, nhắn người thợ ngọc vô danh;
tôi sẽ xin đến.
Quan tổng đốc ngừng
lại một lát rồi tiếp:
- Khi biết đức Hoàng hậu muốn có một pho tượng nữa, tôi bèn nghĩ ngay tới vị tiên sinh đó bởi vì vẫn nhớ câu nói của ông ta: Tôi tạc được cả các pho tượng ngọc trong cung đình. Một mặt tôi cho đi tìm ông ta, một mặt ra lệnh cho các lái buôn ngọc suốt một dải trên con đường ngọc; từ Giang Tây xuống tới Quảng Đông phải tìm kiếm mua giùm tôi một khối ngọc cực tốt tôi có việc dùng. Quý vị biết không, khi vị tiên sinh đó tới, ông ta vẫn ăn mặc tầm thường, điệu bộ lấm lét như người phạm tội khiến tôi động lòng trắc ẩn. Tôi nói rõ ý mình và mô tả hình dáng pho tượng trước đây củaTrương huynh đã dâng Hoàng hậu, ông ta lại càng tỏ vẻ sợ hãi hơn nữa. Nhưng khi nhìn thấy khối ngọc, mắt ông ta sáng lên như không thể rời ra được. Cuối cùng, ông ta ngồi xuống đăt tay lên khối đá khiến tôi hồi hộp. Tôi hỏi:
- Sao, đủ tốt không?
Ông ta ứa nước mắt:
- Bẩm thượng quan, suốt đời tôi chỉ mơ ước có lần được sờ tay lên một khối đá tuyệt vời như thế này. Tôi sẽ tạo nên một pho tượng vô tiền khoáng hậu ngay chính thượng quan cũng chưa từng thấy. Pho tượng đó sẽ vô giá, công lao của tôi cũng vô giá nên ngài sẽ không thể trả công được cho tôi. Tôi sẽ không nhận của ngài 1 xu nhưng bù lại, ngài phải để cho tôi được tự do làm theo ý mình trong khi thực hiện. Về phần khối ngọc, tôi xin lấy cái đầu của tôi ra bảo đảm là ngài sẽ ưng ý.
Tự do? Tôi biết những
người nghệ sĩ phải có tự do thì mới phát huy được trí tuệ, sáng tạo được những
tác phẩm giá trị muôn đời. Bởi vậy tôi đồng ý và vị tiên sinh đó bắt tay vào
thực hiện.
3 tháng sau - tôi nghĩ muốn xong ít nhất phải 5 hay 6 tháng - ông ta đã hoàn tất và đem lên phòng khách, đặt trước mặt tôi với vẻ hãnh diện:
- Thưa đây, bẩm thượng
quan, tác phẩm của tôi đây!
Chao ôi, nhìn pho
tượng tôi ngẩnngơ, quả thật từ trước tới nay tôi chưa từng thấy một kiệt tác
nào như thế. Trong khi tôi còn đang xúc động, ông ta bỗng đeo chiếc túi
lên vai:
- Thưa thượng quan,
xin cám ơn ngài đã cho tôi có dịp thực hiện ý tôi muốn. Tôi là kẻ không nhà
không cửa, không cần tiền bạc gì cả. Bây giờ xin phép ngài tôi đi.
Tôi ngớ người không
hiểu ông ta nói gì, chỉ mang máng hiểu rằng ông ta sắp đi, nên bèn vội vã khua
chân tìm đôi dép:
- Không, không, tiên
sinh đừng đi, tiên sinh đừng đi!
Ông ta bước nhanh như
người chạy trốn.
Khốn khổ, cái thân hình tôi hơi nặng nên khi tôi xỏ được đôi dép, ra đến bên ngoài thì ông ta đã biến mất. Tôi hối thúc gia nhân đi tìm cũng không thấy nữa. Đấy, câu chuyện của tôi như thế đấy, còn pho tượng thì nó đẹp hay xấu thế nào tùy quý bằng hữu nhận xét, tôi không có ý kiến.
Kể xong, vị tổng đốc hãnh diện chiêu miếng nước. Bỗng, từ trong phòng trong, một tiếng kêu đau thương như xé ruột vọng ra khiến mọi người đều giật mình. Quan khâm sai đứng dậy xin phép vào phòng con gái xem xét. Các gia nhân hối hả từ nhà sau chạy lên, họ cho biết Trương tiểu thư bị ngất xỉu đang nằm sóng xoải trên mặt đất. Một thực khách ngồi bên cạnh ghé tai nói nhỏ với quan tổng đốc:
- Người nghệ sĩ tài ba quan huynh vừa kể không ai khác hơn Trương Phố, chồng của Trương tiểu thư con gái quan khâm sai.
Quan tổng đốc rất kinh
ngạc. Vị thực khách bèn vắn tắt thuật lại câu chuyện ngăn cách giữa đôi trai
gái cho mọi người nghe.
Tỉnh dậy, Mỹ Lan xin
phép cha cho được ra ngoài nhìn ngắm pho tượng tận mắt. Nàng sờ mó nó, hôn lên
nó, hai hàng nước mắt tuôn rơi. Và khi nàng giơ tay, nghiêng đầu, người ta thấy
pho tượng với nàng chỉ là một!
Quan Tổng đốc đặt pho
tượng vào tay nàng:
- Con gái đáng thương
của ta! Ta đã hiểu rõ tất cả. Vật này là của con, con hãy giữ lấy nó. Với sức
ta, ta có thể tìm một thứ khác quý giá dâng lên Hoàng hậu. Còn con, theo ta
nghĩ, nó sẽ an ủi cho con rất nhiều trước khi con được đoàn tụ với chồng.
Mỹ Lan sụp xuống lạy,
tạ ơn quan tổng đốc bạn của cha nàng.
Từ dạo đó, Mỹ Lan mỗi
ngày một mòn mỏi như có một căn bệnh nào đó gặm nhấm bên trong cơ thể. Quan
khâm sai tuyên bố tha thứ mọi tội lỗi cho người con rể nếu tìm thấy chàng. Năm
sau, ngài và đoàn tùy tùng xuống Quảng Đông thăm người bạn đồng liêu với mục
đích nhờ vị tổng đốc cai quản cả vùng Quảng Đông này hướng dẫn đi tìm Trương
Phố. Nhưng mọi cố gắng đều vô ích, hỏi tiệm trà quen cũng không ai biết, chàng
vẫn biệt tăm.
Mấy năm sau, một trận
dịch lan tràn khắp vùng Khai Phong, đứa con trai Mỹ Lan bị chết. Nàng hoàn toàn
tuyệt vọng, cắt tóc quy y và xin vào tu viện, chỉ mang theo độc nhất pho tượng
nữ thần bằng ngọc. Theo vị sư trưởng trong tu viện cho biết, nàng hoàn toàn
sống với thế giới riêng trong một tịnh phòng, không người nào kể cả sư trưởng
được vào trong đó. Cũng theo nhà sư này kể, ban đêm nàng thường thức khuya, âm
thầm viết những lời cầu nguyện trên các tờ giấy rồi lại âm thầm đốt các bản
giấy đó trước pho tượng. Nàng không thố lộ với ai về thân thế mình, không đụng
chạm tới ai mà cũng không làm ai phiền lòng.
Khoảng 20 năm sau kể từ khi nhập tu viện, người nữ tu hiền dịu tên tục là Trương Mỹ Lan từ giã cõi đời. Và cũng từ đó tới nay, thân xác nàng có thể đã tan vào hư vô nhưng pho tượng vị nữ thần bằng ngọc vẫn tiếp tục tồn tại. Nó tồn tại mãi mãi để chứng minh cho sức mạnh của tình yêu và khả năng siêu việt của loài người.
Nguyễn Duy Chính (Việt dịch)
Ông Nguyễn Duy Chính dịch chuyện nầy hay vô cùng. Rất cảm ơn ông. Có ai thay thế được ông Lâm Ngữ Đường không?
ReplyDelete